Phụng Vụ - Mục Vụ
Quyền hành
Lm Vũđình Tường
03:08 07/02/2009
Mỗi người được ban cho một số quyền nhất định. Một số do trời phú; số khác xã hội đưa đến. Quyền hành đi chung với quyền lợi. Quyền lợi dính với trách nhiệm. Giữa trưa hình quyện chặt bóng thế nào quyền lợi cần gắn với trách nhiệm như thế. Quyền càng lớn; trách nhiệm càng nhiều và ảnh hưởng tới người khác càng cao. Vì thế trước khi nhận chức vụ quan trọng phải dơ tay tuyên thệ trung thành cố gắng hết khả năng làm tròn trách nhiệm được trao phó.
Bất hạnh thay con người thích quyền, ham lợi, lại tránh né trách nhiệm. Hành xử vô trách nhiệm là lạm dụng quyền hành. Đáng xấu hổ thay. Cả quan lẫn dân rất mau mắn trong việc xử dụng quyền hành nhưng lại chậm trong việc làm tròn trách nhiệm.
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Chúa Giêsu vài ba câu đã đưa quyền ra hù dọa.
Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Gn 19,8.
Philatô xử dụng quyền hành nhanh như chớp. Đức Kitô nhắc đừng quên quyền hành ông đang có là do Chúa ban.
Ông chẳng có quyền gì trên Tôi nếu ở Trên không ban cho ông.
Nói đến quyền thì sốt sắng như thế nhưng khi nhắc trách nhiệm Philatô tìm cách tránh né. Để làm vừa lòng dân ông làm ngơ mặc kệ họ muốn đối xử với Đức Kitô thế nào, tuỳ ý. Vì sợ mất lòng dân Philatô rửa tay tuyên bố. Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mt 27,24.
Quan thì như thế; quân cũng không hơn gì. Tên lính quèn lạm dụng quyền vả mặt Chúa Giêsu. Ngài chất vấn hắn.
‘nếu Tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu Tôi nói phải sao anh lại đánh Tôi? Gn 18,20.
Kẻ trốn trách nhiệm thường đổ lỗi cho kẻ thừa hành, dưới quyền. Càng làm lớn càng nhiều trách nhiệm. Trách nhiệm càng nhiều càng khó hoàn thành. Không hoàn thành một là chạy tội; hai là mất chức, ngồi tù đền tội. Tệ nhất là biến thành độc tài. Dùng sức mạnh phe nhóm để trị. Nhân danh phe nhóm hành động. Nhóm nhỏ ăn nhậu. Phe lớn ăn chia. Ăn không đồng, chia không đều sinh ghen tị. Ghen tuông dẫn đến thanh trừng, thanh toán. Đứa nhỏ vai, ngắn vế, thấp cổ, bé họng làm vật tế thần.
Uy quyền
Mọi uy quyền trần gian đều tạm bợ vì thời gian chi phối, hoàn cảnh ảnh hưởng. Đi chợ theo luật chợ, ra đường theo luật đường. Luật chợ này khác chợ kia, tốc độ đường đôi khi cũng khác nhau. Ngay cả người đi bộ cũng có luật để tuân hành. Nhân viên thi hành quyền trong phần vụ, thời gian và nơi chốn phục vụ. Ra khỏi nhiệm sở để quyền hành sau lưng.
Không làm tròn giao kèo, khế ước, chức vị bị tước trao tay người khác. Mất giao kèo hết uy quyền và quyền lợi theo mây, bay khỏi tầm tay. Làm mất lòng chủ sớm mất việc. Phật lòng dân sẽ mất phiếu. Nhiệm kì tới sẽ thua đặm. Uy quyền trần gian là thế. Cho có điều kiện. Không hài lòng đòi lại những gì đã cho. Tình yêu Chúa ban không ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, không chi phối bởi thời gian. Sống yêu thương là sống trong bình an.
Hêrôđê và Philatô sợ mất uy quyền mặc dù cả hai biết là Đức Kitô vô tội nhưng vẫn làm điều không muốn làm vì sợ mất uy quyền. Làm lớn luôn sợ mất chức. Ngày lo; đêm sợ. Lo sợ nên tìm cách làm đẹp lòng người trần gian hơn làm đẹp lòng Chúa. Xét mình có lần nào ta hành xử phương cách đó. Sợ tiếng đời hơn sợ Chúa, trọng danh dự mình hơn Thánh Danh Chúa. Sợ mất vốn hơn mất linh hồn.
Giáo lí mới
Dân chúng ca tụng giáo lí Đức Kitô dậy mới mẻ và người dậy có thẩm quyền. Giáo lí mới ở điểm nào? Kinh sư, luật sĩ dậy mắt đền mắt, răng đền răng, nợ máu trả bằng máu. Đức kitô hỏi các ngươi làm thế có hơn gì phường trộm cắp. Chúng mến ai mến chúng; ghét ai ghét chúng. Luật chưa có kinh sư, luật sĩ nào dám dậy. Lời Ngài dậy luôn bắt đầu bằng câu: Ta bảo các ngươi. Hãy yêu thương kẻ thù; cầu nguyện cho kẻ làm hại ngươi. Là con cái sự sáng phải sống yêu thương và tha thứ.
Lời Ngài giảng dậy có uy quyền đến độ thần ô uế, Satan phải khiếp sợ. Đám đông chứng kiến Ngài truyền cho Satan ra khỏi người bị quỉ nhập, vừa cho biết ma quỷ run sợ quyền năng Thiên Chúa đồng thời tỏ cho thấy Chúa là Đấng thương xót ta cả hồn lẫn xác.
Uy quyền Thiên Chúa
Người sáng tác nhạc, viết sách, chế tạo máy móc có chủ quyền trên sản phẩm họ sáng chế. Họ là tác giả. Tác giả là người sáng chế ra. Đức Kitô sáng chế ra luật mới, luật yêu thương nên Ngài là tác giả của luật yêu thương. Vì yêu thương Ngài tạo dựng vũ trũ vậy Ngài là chủ vũ trụ và mọi sự tốt lành trong đó. Nói đến uy quyền Thiên Chúa là nói đến Thiên Chúa sáng tạo, Thiên Chúa yêu thương và hay tha thứ.
Chúng ta nhận ân sủng Chúa khi chúng ta lãnh nhận các bí tích, và Lời Chúa. Không có ơn Chúa chúng ta dễ lạm dụng quyền hành, sống và hành xử theo ý riêng. Nhờ kết hợp với Chúa ta xử dụng tốt ơn Chúa ban vì có Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Để lãnh nhận ơn Chúa cần năng lãnh nhận các bí tích. Thêm một lí do nữa giải thích tại sao Giáo Hội mời gọi đọc kinh chung, cầu nguyện chung? Là để liên kết với Đức Kitô. Đức Kitô luôn liên kết với Chúa Cha thế nào; chúng ta cần liên kết với Đức Kitô thể ấy để đón nhận ân sủng dồi dào và xử dụng ơn Chúa cho nên. Lạm dụng quyền hành là dấu chỉ rõ ràng nhất cho biết người đó đang hành xử quyền hành theo ý riêng. Cuộc sống họ thiếu liên kết với Đức Kitô.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Bất hạnh thay con người thích quyền, ham lợi, lại tránh né trách nhiệm. Hành xử vô trách nhiệm là lạm dụng quyền hành. Đáng xấu hổ thay. Cả quan lẫn dân rất mau mắn trong việc xử dụng quyền hành nhưng lại chậm trong việc làm tròn trách nhiệm.
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Chúa Giêsu vài ba câu đã đưa quyền ra hù dọa.
Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Gn 19,8.
Philatô xử dụng quyền hành nhanh như chớp. Đức Kitô nhắc đừng quên quyền hành ông đang có là do Chúa ban.
Ông chẳng có quyền gì trên Tôi nếu ở Trên không ban cho ông.
Nói đến quyền thì sốt sắng như thế nhưng khi nhắc trách nhiệm Philatô tìm cách tránh né. Để làm vừa lòng dân ông làm ngơ mặc kệ họ muốn đối xử với Đức Kitô thế nào, tuỳ ý. Vì sợ mất lòng dân Philatô rửa tay tuyên bố. Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mt 27,24.
Quan thì như thế; quân cũng không hơn gì. Tên lính quèn lạm dụng quyền vả mặt Chúa Giêsu. Ngài chất vấn hắn.
‘nếu Tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu Tôi nói phải sao anh lại đánh Tôi? Gn 18,20.
Kẻ trốn trách nhiệm thường đổ lỗi cho kẻ thừa hành, dưới quyền. Càng làm lớn càng nhiều trách nhiệm. Trách nhiệm càng nhiều càng khó hoàn thành. Không hoàn thành một là chạy tội; hai là mất chức, ngồi tù đền tội. Tệ nhất là biến thành độc tài. Dùng sức mạnh phe nhóm để trị. Nhân danh phe nhóm hành động. Nhóm nhỏ ăn nhậu. Phe lớn ăn chia. Ăn không đồng, chia không đều sinh ghen tị. Ghen tuông dẫn đến thanh trừng, thanh toán. Đứa nhỏ vai, ngắn vế, thấp cổ, bé họng làm vật tế thần.
Uy quyền
Mọi uy quyền trần gian đều tạm bợ vì thời gian chi phối, hoàn cảnh ảnh hưởng. Đi chợ theo luật chợ, ra đường theo luật đường. Luật chợ này khác chợ kia, tốc độ đường đôi khi cũng khác nhau. Ngay cả người đi bộ cũng có luật để tuân hành. Nhân viên thi hành quyền trong phần vụ, thời gian và nơi chốn phục vụ. Ra khỏi nhiệm sở để quyền hành sau lưng.
Không làm tròn giao kèo, khế ước, chức vị bị tước trao tay người khác. Mất giao kèo hết uy quyền và quyền lợi theo mây, bay khỏi tầm tay. Làm mất lòng chủ sớm mất việc. Phật lòng dân sẽ mất phiếu. Nhiệm kì tới sẽ thua đặm. Uy quyền trần gian là thế. Cho có điều kiện. Không hài lòng đòi lại những gì đã cho. Tình yêu Chúa ban không ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, không chi phối bởi thời gian. Sống yêu thương là sống trong bình an.
Hêrôđê và Philatô sợ mất uy quyền mặc dù cả hai biết là Đức Kitô vô tội nhưng vẫn làm điều không muốn làm vì sợ mất uy quyền. Làm lớn luôn sợ mất chức. Ngày lo; đêm sợ. Lo sợ nên tìm cách làm đẹp lòng người trần gian hơn làm đẹp lòng Chúa. Xét mình có lần nào ta hành xử phương cách đó. Sợ tiếng đời hơn sợ Chúa, trọng danh dự mình hơn Thánh Danh Chúa. Sợ mất vốn hơn mất linh hồn.
Giáo lí mới
Dân chúng ca tụng giáo lí Đức Kitô dậy mới mẻ và người dậy có thẩm quyền. Giáo lí mới ở điểm nào? Kinh sư, luật sĩ dậy mắt đền mắt, răng đền răng, nợ máu trả bằng máu. Đức kitô hỏi các ngươi làm thế có hơn gì phường trộm cắp. Chúng mến ai mến chúng; ghét ai ghét chúng. Luật chưa có kinh sư, luật sĩ nào dám dậy. Lời Ngài dậy luôn bắt đầu bằng câu: Ta bảo các ngươi. Hãy yêu thương kẻ thù; cầu nguyện cho kẻ làm hại ngươi. Là con cái sự sáng phải sống yêu thương và tha thứ.
Lời Ngài giảng dậy có uy quyền đến độ thần ô uế, Satan phải khiếp sợ. Đám đông chứng kiến Ngài truyền cho Satan ra khỏi người bị quỉ nhập, vừa cho biết ma quỷ run sợ quyền năng Thiên Chúa đồng thời tỏ cho thấy Chúa là Đấng thương xót ta cả hồn lẫn xác.
Uy quyền Thiên Chúa
Người sáng tác nhạc, viết sách, chế tạo máy móc có chủ quyền trên sản phẩm họ sáng chế. Họ là tác giả. Tác giả là người sáng chế ra. Đức Kitô sáng chế ra luật mới, luật yêu thương nên Ngài là tác giả của luật yêu thương. Vì yêu thương Ngài tạo dựng vũ trũ vậy Ngài là chủ vũ trụ và mọi sự tốt lành trong đó. Nói đến uy quyền Thiên Chúa là nói đến Thiên Chúa sáng tạo, Thiên Chúa yêu thương và hay tha thứ.
Chúng ta nhận ân sủng Chúa khi chúng ta lãnh nhận các bí tích, và Lời Chúa. Không có ơn Chúa chúng ta dễ lạm dụng quyền hành, sống và hành xử theo ý riêng. Nhờ kết hợp với Chúa ta xử dụng tốt ơn Chúa ban vì có Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Để lãnh nhận ơn Chúa cần năng lãnh nhận các bí tích. Thêm một lí do nữa giải thích tại sao Giáo Hội mời gọi đọc kinh chung, cầu nguyện chung? Là để liên kết với Đức Kitô. Đức Kitô luôn liên kết với Chúa Cha thế nào; chúng ta cần liên kết với Đức Kitô thể ấy để đón nhận ân sủng dồi dào và xử dụng ơn Chúa cho nên. Lạm dụng quyền hành là dấu chỉ rõ ràng nhất cho biết người đó đang hành xử quyền hành theo ý riêng. Cuộc sống họ thiếu liên kết với Đức Kitô.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Chúa chữa người phong cùi
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
04:32 07/02/2009
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN, năm B
Mc 1, 40 – 45
Trên thế giới ngày nay, bệnh phong cùi không còn là bệnh nan y nữa nhưng mặc cảm đối với căn bệnh này vẫn không phải là đã chấm dứt. Người ta vẫn sợ bệnh này và vẫn còn cái nhìn kinh sợ, thiếu thiện cảm với những con người xấu số này. Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi bị liệt vào loại bị cấm kỵ tiếp xúc, người bị bệnh phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Thật là một căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội lúc đó. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Ngài luôn yêu thương mọi người và cứu vớt mọi người, Ngài đã chữa lành cho người bị bệnh phong cùi như đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.
MỘT CĂN BỆNH NGUY HIỂM VÀ ĐÁNG NGUYỀN RỦA ĐỐI VỚI NGƯỜI DO THÁI: Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh hoạn là do tội lỗi gây ra, bệnh càng nặng tỏ dấu là người ấy có tội nặng nề. Chính vì thế, đối với bệnh cùi hủi, người Do Thái cho rằng đây là căn bệnh bất trị, người mắc bệnh này là người bị Chúa phạt, Chúa nguyền rủa bởi vì họ quá tội lỗi.Người Do Thái quan niệm như thế, nên họ xa lánh người bị bệnh phong cùi, đẩy những người phong cùi ra khỏi xã hội và ghép họ vào những thành phần bất hảo, còn sống nhưng coi như đã chết rồi.Bệnh phong trên thế giới ngày nay dù rằng không còn phải là bệnh nan y nữa nếu được phát hiện và được điều trị sớm sủa. Tuy nhiên, không phải mọi người đều chấp nhận dễ dàng và có thiện cảm với những người bị mắc bệnh cùi hủi. Người Do Thái sợ bệnh phong làm cho họ lây nhiễm. Người ngày nay cũng không khác gì bởi vì tâm lý con người lúc nào cũng sợ căn bệnh quái ác này và né tránh.Tâm lý thông thường của con người là sợ bị lây nhiễm. Thời Chúa Giêsu không hiểu có bao nhiêu người phong bị đẩy ra khỏi xã hội Do Thái, nhưng có lẽ khá đông. Chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng nhiều trường hợp những người phong đến xin Chúa Giêsu chữa lành và Chúa đã chữa lành cho họ.
CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI MẮC BỆNH PHONG CÙI : Sách Lêvi đã có một chương rất chi tiết đối với những người mắc bệnh phong cùi. Bệnh phong quả thực đã có từ bao đời nay. Bao giờ bệnh phong cũng bị coi là bệnh thật nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm.Đối với Chúa Giêsu, Ngài yêu thương mọi người và vì Ngài là Thiên Chúa, có uy quyền tuyệt đối trên sự sống, sự chết và bệnh hoạn tật nguyền. Do đó, Ngài chữa đủ mọi chứng bệnh hoạn mà không cần đến bất cứ một thứ thuốc nào cả. Tin Mừng của thánh Marcô đoạn 1, 40-45 cho chúng ta thấy việc làm nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy người phong hủi van xin: ” Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Thấy lòng tin của người phong, Chúa lập tức giơ tay đụng vào người bị phong hủi và da người này được sạch. Không những Chúa chữa lành cho người phong hủi này, nhưng Ngài còn làm nhiều hơn nữa, còn đi xa hơn nữa hơn là chỉ chữa lành: bệnh nhân được gia nhập lại vào xã hội, một xã hội đã coi người này như bị ô uế, như đã chết, và ngay từ lúc được Chúa chữa lành, người phong sẽ được gia nhập xã hội như mọi người khác và không bị mọi người xa tránh nữa. Và vì thế, luật của Thiên Chúa và luật xã hội sẽ công nhận phẩm giá của người phong cùi được chữa lành. Như thế, chúng ta hiểu được tấm lòng cao cả và bao la của Thiên Chúa yêu thương con người biết là chừng nào.
NGÀY NAY BỆNH PHONG CÙI ĐÃ ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI QUAN TÂM HƠN:
Mặc dầu vẫn còn nhiều e dè và còn nhiều người có thái độ ghê sợ, né tránh những người bị bệnh phong cùi. Nhưng ngày nay, chúng ta phải nhìn nhận quan niệm quá khắt khe và sợ sệt đối với những người mắc bệnh phong cùi đã chuyển biến rất rõ rệt. Nhiều người và nhiều tổ chứa xã hội từ thiện đã và đang xả thân giúp đỡ những bệnh nhân bị cùi hủi. Nhiều trại phong trên thế giới đã được các nhà nước, các cơ quan từ thiện thiết lập để chăm sóc, giúp đõ những người bệnh xấu số này. Thuốc thang, vật chất đã được nhiều nước đổ ra để săn sóc và an ủi những người đáng thương này. Người ta làm một bản thống kê tương đối chính xác cho hay trên thế giới đã có khoảng 15 đến 20 triệu người bệnh phong cùi. Với số bệnh nhân này, quả thực họ là những người thật đáng quan tâm.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Bệnh tật là điều bình thường của kiếp sống con người. Không phải có tội là bị bệnh, có người bị bệnh nhưng không có tội. Bệnh là do định luật tự nhiên của mỗi người. Ai cũng có bệnh, không bệnh lớn thì bệnh nhỏ. Chẳng ai thoát khỏi bệnh hoạn ở đời. Do đó, chúng ta phải cảm thông, giúp đỡ và chia sẻ với những người bị bệnh. Đặc biệt đối với những người có căn bệnh hiểm nghèo. Bởi vì, chúng ta phải có tâm tình như thánh Phaolô “ Vui với người vui. Khóc với người khóc “ và phải sống như Chúa Giêsu: ” yêu thương như Thầy yêu thương “ ( Ga 15, 12 ).
Mc 1, 40 – 45
Trên thế giới ngày nay, bệnh phong cùi không còn là bệnh nan y nữa nhưng mặc cảm đối với căn bệnh này vẫn không phải là đã chấm dứt. Người ta vẫn sợ bệnh này và vẫn còn cái nhìn kinh sợ, thiếu thiện cảm với những con người xấu số này. Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi bị liệt vào loại bị cấm kỵ tiếp xúc, người bị bệnh phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Thật là một căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội lúc đó. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Ngài luôn yêu thương mọi người và cứu vớt mọi người, Ngài đã chữa lành cho người bị bệnh phong cùi như đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.
MỘT CĂN BỆNH NGUY HIỂM VÀ ĐÁNG NGUYỀN RỦA ĐỐI VỚI NGƯỜI DO THÁI: Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh hoạn là do tội lỗi gây ra, bệnh càng nặng tỏ dấu là người ấy có tội nặng nề. Chính vì thế, đối với bệnh cùi hủi, người Do Thái cho rằng đây là căn bệnh bất trị, người mắc bệnh này là người bị Chúa phạt, Chúa nguyền rủa bởi vì họ quá tội lỗi.Người Do Thái quan niệm như thế, nên họ xa lánh người bị bệnh phong cùi, đẩy những người phong cùi ra khỏi xã hội và ghép họ vào những thành phần bất hảo, còn sống nhưng coi như đã chết rồi.Bệnh phong trên thế giới ngày nay dù rằng không còn phải là bệnh nan y nữa nếu được phát hiện và được điều trị sớm sủa. Tuy nhiên, không phải mọi người đều chấp nhận dễ dàng và có thiện cảm với những người bị mắc bệnh cùi hủi. Người Do Thái sợ bệnh phong làm cho họ lây nhiễm. Người ngày nay cũng không khác gì bởi vì tâm lý con người lúc nào cũng sợ căn bệnh quái ác này và né tránh.Tâm lý thông thường của con người là sợ bị lây nhiễm. Thời Chúa Giêsu không hiểu có bao nhiêu người phong bị đẩy ra khỏi xã hội Do Thái, nhưng có lẽ khá đông. Chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng nhiều trường hợp những người phong đến xin Chúa Giêsu chữa lành và Chúa đã chữa lành cho họ.
CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI MẮC BỆNH PHONG CÙI : Sách Lêvi đã có một chương rất chi tiết đối với những người mắc bệnh phong cùi. Bệnh phong quả thực đã có từ bao đời nay. Bao giờ bệnh phong cũng bị coi là bệnh thật nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm.Đối với Chúa Giêsu, Ngài yêu thương mọi người và vì Ngài là Thiên Chúa, có uy quyền tuyệt đối trên sự sống, sự chết và bệnh hoạn tật nguyền. Do đó, Ngài chữa đủ mọi chứng bệnh hoạn mà không cần đến bất cứ một thứ thuốc nào cả. Tin Mừng của thánh Marcô đoạn 1, 40-45 cho chúng ta thấy việc làm nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy người phong hủi van xin: ” Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Thấy lòng tin của người phong, Chúa lập tức giơ tay đụng vào người bị phong hủi và da người này được sạch. Không những Chúa chữa lành cho người phong hủi này, nhưng Ngài còn làm nhiều hơn nữa, còn đi xa hơn nữa hơn là chỉ chữa lành: bệnh nhân được gia nhập lại vào xã hội, một xã hội đã coi người này như bị ô uế, như đã chết, và ngay từ lúc được Chúa chữa lành, người phong sẽ được gia nhập xã hội như mọi người khác và không bị mọi người xa tránh nữa. Và vì thế, luật của Thiên Chúa và luật xã hội sẽ công nhận phẩm giá của người phong cùi được chữa lành. Như thế, chúng ta hiểu được tấm lòng cao cả và bao la của Thiên Chúa yêu thương con người biết là chừng nào.
NGÀY NAY BỆNH PHONG CÙI ĐÃ ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI QUAN TÂM HƠN:
Mặc dầu vẫn còn nhiều e dè và còn nhiều người có thái độ ghê sợ, né tránh những người bị bệnh phong cùi. Nhưng ngày nay, chúng ta phải nhìn nhận quan niệm quá khắt khe và sợ sệt đối với những người mắc bệnh phong cùi đã chuyển biến rất rõ rệt. Nhiều người và nhiều tổ chứa xã hội từ thiện đã và đang xả thân giúp đỡ những bệnh nhân bị cùi hủi. Nhiều trại phong trên thế giới đã được các nhà nước, các cơ quan từ thiện thiết lập để chăm sóc, giúp đõ những người bệnh xấu số này. Thuốc thang, vật chất đã được nhiều nước đổ ra để săn sóc và an ủi những người đáng thương này. Người ta làm một bản thống kê tương đối chính xác cho hay trên thế giới đã có khoảng 15 đến 20 triệu người bệnh phong cùi. Với số bệnh nhân này, quả thực họ là những người thật đáng quan tâm.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Bệnh tật là điều bình thường của kiếp sống con người. Không phải có tội là bị bệnh, có người bị bệnh nhưng không có tội. Bệnh là do định luật tự nhiên của mỗi người. Ai cũng có bệnh, không bệnh lớn thì bệnh nhỏ. Chẳng ai thoát khỏi bệnh hoạn ở đời. Do đó, chúng ta phải cảm thông, giúp đỡ và chia sẻ với những người bị bệnh. Đặc biệt đối với những người có căn bệnh hiểm nghèo. Bởi vì, chúng ta phải có tâm tình như thánh Phaolô “ Vui với người vui. Khóc với người khóc “ và phải sống như Chúa Giêsu: ” yêu thương như Thầy yêu thương “ ( Ga 15, 12 ).
Xin ơn chữa lành bệnh tật xác hồn
LM. Trần Bình Trọng
04:38 07/02/2009
XIN ƠN CHỮA LÀNH BỆNH TẬT XÁC HỒN
Chúa Nhật 5 Thường Niên, Năm B
G 7:1-4, 6-7; 1Cr 9:16-19' 22-23; Mc 1:29-39
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Ðạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Ðạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do thái): Ðời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Ðó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.
Ðó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Ðể đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.
Khốn thân tôi nêu tôi không rao giảng Tin Mừng
Anmai, CSsR
06:02 07/02/2009
CHÚA NHẬT 5 THƯỜG NIÊN B (G 7,1-4.6-7; 1 Cr 9,16-19.22-23; Mc 1, 29-39)
Thánh lễ hôm nay, bài đọc thứ nhất đưa ta về hình ảnh rất quen thuộc, rất dễ thương trong Cựu Ước đó là ông Giob. Nếu có giờ, chúng ta đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông, chúng ta sẽ thấy ông thật dễ thương trước mặt Chúa. Tại sao gọi là dễ thương trước mặt Chúa ? Là vì, dù cuộc đời ông “ba chìm - bảy nổi - chín lênh đênh nhưng ông đã tin tưởng vào Chúa một cách lạ lùng. Cảm xúc của ông Giob chắc có lẽ cũng là xúc cảm của mỗi người chúng ta.
Ông Giob giới thiệu về nhân thân của ông: “Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! " Lần nào ông Gióp cũng làm như thế. (G 1, 1-5)
Cuộc sống của ông là như thế nhưng có mãi được như thế đâu ? Chúng ta chờ xem:
“Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." (G 1, 13-19)
Cuộc đời nó không như người ta tưởng, người ta nghĩ. Mà cũng đúng, vì có những lúc lòng chúng ta cảm thấy trống rỗng và chán ngán. Thi thoảng chúng ta cũng thấy cuộc đời này nó vô nghĩa như ông Giob vậy. Nhất là mỗi khi chúng ta bị thiệt hại, bị mất mát về tiền của, về vật chất như ông Giob.
Buồn tủi, đau đớn nên ông Giob đã bộc bạch:
Cuộc sống con người nơi dương thế
chẳng phải là thời khổ dịch sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu khác gì đời kẻ làm thuê?
Tựa người nô lệ mong bóng mát,
như kẻ làm thuê đợi tiền công,
cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.
Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng? "
Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông? "
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa,
và chấm dứt, không một tia hy vọng.
Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. (G 7, 1-4.6-7)
Nhìn lại sao mà chúng ta giống ông Giob quá. Thế nhưng ông Giob không chỉ bị tổn thương về vật chất nhưng còn tổn hại về tinh thần, về lòng tin nữa. Ông cam chịu mất mát, tưởng chừng người thân thương nhất của ông, người chung chia với ông những đau khổ của cuộc đời sẽ an ủi, sẽ nâng đỡ ông, nhưng nào ngờ vợ ông lại bảo ông nguyền rủa Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà ông tin theo sao mà kỳ thế ! Thiên Chúa đã để cho cuộc sống của ông ra nông nổi này. Kèm thêm bà vợ cay nghiệt còn có ba người “hàng xóm tốt bụng” khuyên ông hãy rời bỏ Thiên Chúa mà suốt cuộc đời ông đã theo. Thế nhưng, chúng ta thấy giữa biết bao nghịch cảnh của cuộc đời ông Giob vẫn một mực tin tưởng vào Thiên Chúa mà ông suốt cuộc đời đi theo.
Nhìn lại cuộc đời của ông Giob, quả là một bản trường ca về tin mừng. Cuộc đời ông đã cao rao về tình thương của một Thiên Chúa mà ông tin tưởng theo.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta công việc của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." (Mc 1, 38) Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ cũng như chúng ta đó là Chúa đến để đi rao giảng Tin mừng của Nước Trời, Tin mừng của Thiên Chúa.
Thoáng nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu, trong hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của cây Thập Tự cứ đi theo cuộc đời của Chúa Giêsu. Và thực tế là như thế, cuộc đời của Chúa Giêsu buồn nhiều hơn vui. Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại hăng say, mạnh mẽ lên đường loan báo Tin mừng như vậy ? Bởi lẽ Chúa Giêsu, suốt cuộc đời đã tin tưởng, đã tín thác vào Thiên Chúa nên cho dù cuộc đời của Chúa thế nào đi chăng nữa Chúa vẫn loan báo Tin mừng.
Và rồi, qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Ngài khẳng định cho chúng ta lập trường của Ngài về Tin Mừng: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng ! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi ? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.”
“Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9,16-19.22-23)
Nhìn lại một chút cuộc đời của Phaolô chúng ta cũng thấy na ná như ông Giob, như Chúa Giêsu vậy. Cuộc đời của ông cũng đã quá đau khổ, ông phải trả một giá quá đắt khi tin theo Chúa. Thoạt đầu, ông là người Pharisiêu “chính hiệu Con Nai Vàng” nên ông nào tin vào Chúa và thậm chí ông con bắt, còn bách hại những người theo Chúa nữa. Thế nhưng, chính khi ông “giác ngộ” ra Đấng mà xưa nay ông bắt bớ chính là Đấng Cứu Độ của ông cũng là lúc mà người ta khinh bỉ ông, người ta không tin tưởng ông nữa vì ông xoay hẳn 1 góc 180o. Từ người ghét, bách hại, bắt bớ nhưng nay lại trở thành người nhiệt thành rao giảng Tin mừng thì làm sao mà người ta có thể tin được. Thế nhưng, vì lòng tin son sắt vào Chúa, Phaolô vẫn miệt mài rao giảng Tin mừng, bất chấp mọi thành kiến, mọi dị nghị, mọi lời đàm tiếu của người đời.
Phaolô đã “ngộ” ra cuộc đời của ông từ cái ngày ngã ngựa trên đường Đa-mát rằng: có một Thiên Chúa yêu thương ông, quan phòng, chăm sóc ông nên cuộc đời của ông thay đổi từ đấy.
Chúng ta là những người luôn luôn mở miệng tin Chúa và đọc Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật, mỗi khi có dịp, nhưng lòng tin vào Chúa của chúng ta như thế nào ? Chúng ta có can đảm rao giảng Tin mừng, rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương cho những người xung quanh chúng ta hay không ?
Thật sự, đây không phải là chuyện dễ vì lẽ cuộc đời của chúng ta có quá nhiều đau khổ như ông Giob, như Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô vậy. Thế nhưng, chúng ta lại nhớ đến lời của Thánh Phaolô “chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh.” Thánh Phaolô xác tín điều ấy vì chính khi cuộc đời của Ngài gặp phong ba bão táp, gặp khó khăn, yếu đuối, Ngài phó thác vào tay Chúa thì Chúa sẽ nâng Ngài dậy như Chúa đã từng nâng đỡ Ngài trên đường Đa-mát vậy.
Rơi vào hoàn cảnh bi đát của cuộc đời như ông Giob, như Chúa Giêsu, như thánh Phaolô đấy nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả. Chuyện quan trọng là chúng ta có tin để phó thác hay không mà thôi ? Sau khi tin tưởng, phó thác Thiên Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô không biết bao nhiêu ân huệ của Ngài và khi nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban đấy, ông Giob và thánh Phaolô đã cao rao tình thương của Chúa.
Thật sự ra, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn lành như Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô nhưng chúng ta không nhận ra để chúng ta cứ khư khư giữ ơn lành và thậm chí còn chôn kín ơn lành đó để cất giấu một mình chúng ta xài thôi. Xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta nhìn thấy những ân huệ mà Thiên Chúa đã trao ban để rồi chúng ta cũng cao rao Tin mừng của Chúa cho anh chị em đồng loại như Phaolô, như ông Giob trong mọi hoàn cảnh của chúng ta.
Thánh lễ hôm nay, bài đọc thứ nhất đưa ta về hình ảnh rất quen thuộc, rất dễ thương trong Cựu Ước đó là ông Giob. Nếu có giờ, chúng ta đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông, chúng ta sẽ thấy ông thật dễ thương trước mặt Chúa. Tại sao gọi là dễ thương trước mặt Chúa ? Là vì, dù cuộc đời ông “ba chìm - bảy nổi - chín lênh đênh nhưng ông đã tin tưởng vào Chúa một cách lạ lùng. Cảm xúc của ông Giob chắc có lẽ cũng là xúc cảm của mỗi người chúng ta.
Ông Giob giới thiệu về nhân thân của ông: “Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! " Lần nào ông Gióp cũng làm như thế. (G 1, 1-5)
Cuộc sống của ông là như thế nhưng có mãi được như thế đâu ? Chúng ta chờ xem:
“Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." (G 1, 13-19)
Cuộc đời nó không như người ta tưởng, người ta nghĩ. Mà cũng đúng, vì có những lúc lòng chúng ta cảm thấy trống rỗng và chán ngán. Thi thoảng chúng ta cũng thấy cuộc đời này nó vô nghĩa như ông Giob vậy. Nhất là mỗi khi chúng ta bị thiệt hại, bị mất mát về tiền của, về vật chất như ông Giob.
Buồn tủi, đau đớn nên ông Giob đã bộc bạch:
Cuộc sống con người nơi dương thế
chẳng phải là thời khổ dịch sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu khác gì đời kẻ làm thuê?
Tựa người nô lệ mong bóng mát,
như kẻ làm thuê đợi tiền công,
cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.
Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng? "
Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông? "
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa,
và chấm dứt, không một tia hy vọng.
Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. (G 7, 1-4.6-7)
Nhìn lại sao mà chúng ta giống ông Giob quá. Thế nhưng ông Giob không chỉ bị tổn thương về vật chất nhưng còn tổn hại về tinh thần, về lòng tin nữa. Ông cam chịu mất mát, tưởng chừng người thân thương nhất của ông, người chung chia với ông những đau khổ của cuộc đời sẽ an ủi, sẽ nâng đỡ ông, nhưng nào ngờ vợ ông lại bảo ông nguyền rủa Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà ông tin theo sao mà kỳ thế ! Thiên Chúa đã để cho cuộc sống của ông ra nông nổi này. Kèm thêm bà vợ cay nghiệt còn có ba người “hàng xóm tốt bụng” khuyên ông hãy rời bỏ Thiên Chúa mà suốt cuộc đời ông đã theo. Thế nhưng, chúng ta thấy giữa biết bao nghịch cảnh của cuộc đời ông Giob vẫn một mực tin tưởng vào Thiên Chúa mà ông suốt cuộc đời đi theo.
Nhìn lại cuộc đời của ông Giob, quả là một bản trường ca về tin mừng. Cuộc đời ông đã cao rao về tình thương của một Thiên Chúa mà ông tin tưởng theo.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta công việc của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." (Mc 1, 38) Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ cũng như chúng ta đó là Chúa đến để đi rao giảng Tin mừng của Nước Trời, Tin mừng của Thiên Chúa.
Thoáng nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu, trong hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của cây Thập Tự cứ đi theo cuộc đời của Chúa Giêsu. Và thực tế là như thế, cuộc đời của Chúa Giêsu buồn nhiều hơn vui. Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại hăng say, mạnh mẽ lên đường loan báo Tin mừng như vậy ? Bởi lẽ Chúa Giêsu, suốt cuộc đời đã tin tưởng, đã tín thác vào Thiên Chúa nên cho dù cuộc đời của Chúa thế nào đi chăng nữa Chúa vẫn loan báo Tin mừng.
Và rồi, qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Ngài khẳng định cho chúng ta lập trường của Ngài về Tin Mừng: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng ! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi ? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.”
“Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9,16-19.22-23)
Nhìn lại một chút cuộc đời của Phaolô chúng ta cũng thấy na ná như ông Giob, như Chúa Giêsu vậy. Cuộc đời của ông cũng đã quá đau khổ, ông phải trả một giá quá đắt khi tin theo Chúa. Thoạt đầu, ông là người Pharisiêu “chính hiệu Con Nai Vàng” nên ông nào tin vào Chúa và thậm chí ông con bắt, còn bách hại những người theo Chúa nữa. Thế nhưng, chính khi ông “giác ngộ” ra Đấng mà xưa nay ông bắt bớ chính là Đấng Cứu Độ của ông cũng là lúc mà người ta khinh bỉ ông, người ta không tin tưởng ông nữa vì ông xoay hẳn 1 góc 180o. Từ người ghét, bách hại, bắt bớ nhưng nay lại trở thành người nhiệt thành rao giảng Tin mừng thì làm sao mà người ta có thể tin được. Thế nhưng, vì lòng tin son sắt vào Chúa, Phaolô vẫn miệt mài rao giảng Tin mừng, bất chấp mọi thành kiến, mọi dị nghị, mọi lời đàm tiếu của người đời.
Phaolô đã “ngộ” ra cuộc đời của ông từ cái ngày ngã ngựa trên đường Đa-mát rằng: có một Thiên Chúa yêu thương ông, quan phòng, chăm sóc ông nên cuộc đời của ông thay đổi từ đấy.
Chúng ta là những người luôn luôn mở miệng tin Chúa và đọc Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật, mỗi khi có dịp, nhưng lòng tin vào Chúa của chúng ta như thế nào ? Chúng ta có can đảm rao giảng Tin mừng, rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương cho những người xung quanh chúng ta hay không ?
Thật sự, đây không phải là chuyện dễ vì lẽ cuộc đời của chúng ta có quá nhiều đau khổ như ông Giob, như Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô vậy. Thế nhưng, chúng ta lại nhớ đến lời của Thánh Phaolô “chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh.” Thánh Phaolô xác tín điều ấy vì chính khi cuộc đời của Ngài gặp phong ba bão táp, gặp khó khăn, yếu đuối, Ngài phó thác vào tay Chúa thì Chúa sẽ nâng Ngài dậy như Chúa đã từng nâng đỡ Ngài trên đường Đa-mát vậy.
Rơi vào hoàn cảnh bi đát của cuộc đời như ông Giob, như Chúa Giêsu, như thánh Phaolô đấy nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả. Chuyện quan trọng là chúng ta có tin để phó thác hay không mà thôi ? Sau khi tin tưởng, phó thác Thiên Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô không biết bao nhiêu ân huệ của Ngài và khi nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban đấy, ông Giob và thánh Phaolô đã cao rao tình thương của Chúa.
Thật sự ra, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn lành như Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô nhưng chúng ta không nhận ra để chúng ta cứ khư khư giữ ơn lành và thậm chí còn chôn kín ơn lành đó để cất giấu một mình chúng ta xài thôi. Xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta nhìn thấy những ân huệ mà Thiên Chúa đã trao ban để rồi chúng ta cũng cao rao Tin mừng của Chúa cho anh chị em đồng loại như Phaolô, như ông Giob trong mọi hoàn cảnh của chúng ta.
Tản mạn về môi trường sinh thái và luân lý
Pm. Cao Huy Hoàng
15:10 07/02/2009
“Tôi có suy nghĩ về đời tôi.
Đời tôi là một cuộc người, chưa tận
Đến trần gian trong cung lòng phước hạnh
Nhịp nhân sinh trong dạ mẹ yêu thương”
(Thơ Tuyết Mai Texas)
Khi nói về môi trường sinh thái, người ta liền nghĩ ngay đến một mạng lưới chỉnh thể có tương quan tương tác giữa đất, nước, không khí, con người và các sinh vật. Mối tương quan tương tác ấy mật thiết đến nỗi có thể nói là không thể thiếu nhau. Con người, “một cây sậy biết suy nghĩ”, được xem là một sinh vật toàn hảo nhất trong môi trường. Nếu như con người cần đất, nước và các sinh vật để làm thành một cuộc sống trên trái đất nầy thì đất, nước, không khí và các sinh vật chung quanh cũng cần đến sự chăm sóc, bảo vệ, bồi dưỡng, tái tạo… như một nghĩa cử của lòng biết ơn, nếu không nói đó là sự công bằng. Vậy, thực hiện việc bảo vệ môi trường, có thể nói, là thi hành một bản luật bất thành văn phát xuất từ trong con người biết suy nghĩ, biết phải trái.
Lòng Mẹ, môi trường đầu tiên
Tôi muốn bắt đầu từ môi trường đầu tiên của con người. Khi chưa tiếp cận trực tiếp với đất, nước và không khí, thì môi trường sinh thái và luân lý đầu tiên của đời người là lòng mẹ. Lòng là “lòng dạ” bảo bọc con người từ khi mới bắt đầu là một hữu thể có sự sống. Lòng, cũng là “tấm lòng” hình thành một nhân cách, một nhân vị mới trong xã hội loài người. Giới nữ thật vinh dự. Lòng Mẹ thật diễm phúc, vì được chọn là môi trường đầu tiên của con người, là nơi tác sinh nên con người mà khoa học ngày nay dẫu tiến bộ vẻ vang cách nào cũng không làm ra được cách hoàn toàn. Lòng Mẹ không thể là môi trường đầu tiên tốt đẹp nếu không có tình cha, không có mái ấm, không có tình huynh đệ, nghĩa xóm làng… và các định chế tôn giáo, xã hội bảo đảm cho thiên chức.
Như vậy, cùng với ý thức lòng mẹ là môi trường đầu tiên, chắc chắn việc chuẩn bị cho ra đời một con người phải chu đáo lắm: tình trạng sức khỏe của vợ chồng khi chồng đặt con mình vào dạ vợ; tình yêu nồng thắm trọn vẹn ý nghĩa cao quí là dâng hiến cho nhau để cùng tạo tác nên một con người, một mái ấm. Các tiêu chuẩn về sức khỏe, nhân bản, đạo đức, luân lý của cha mẹ phải ở mức tối thượng.
Ngược lại, thiếu ý thức lòng mẹ là môi trường đầu tiên, dẫn đến bao nhiêu hệ lụy xấu khôn lường: Hôn nhân gia đình như là sự kết hợp tự nhiên muôn loài đều phải có; việc vợ chồng cẩu thả như gà như vịt; việc thỏa mãn dục tình không có ý hướng sinh con cái; việc giết chết các thai nhi vô tội do tình trạng sống thử, ngoại hôn, hưởng thụ; việc sinh ra những con người ọp òi suy dinh dưỡng thể xác, chưa nói đến việc đã sinh ra những con người suy sụp nhân cách hoặc biết cầm dao cầm búa cầm gậy muốn chọc thủng trời ngay khi còn trong lòng mẹ.
Mối bận tâm lớn nhất trong xã hội ngày nay là phần lớn chị em không còn cảm thấy vinh dự, diễm phúc được làm Mẹ, không muốn làm mẹ, và chối từ thiên chức làm mẹ. Cũng có thể do sợ trách nhiệm, sợ tàn úa, sợ chia sẻ, sợ chê cười… nhưng cũng còn do bị ép buộc nữa. Các chị em lại được hưởng ứng đồng tình nồng nhiệt của các anh em và nhất là được xã hội cổ xúy một cách long trọng, có nơi thành quốc sách! Ở các miền quê, mỗi lần chối từ thiên chức làm Mẹ, các chị em được thưởng vài trăm ngàn, ít gạo, đường, sữa, bột ngọt, dầu ăn và thuốc bổ… Ở thành phố thì sao? Có lẽ các chị em cũng có thưởng, phần thưởng làn da mịn màng trẻ trung, nét đẹp duyên dáng quyến rũ để tiếp tục cuộc vui mà khỏi phải bận tâm lo lắng cho một trách nhiệm với thêm một con người. Ôi! Con người mất thiên chức làm mẹ rồi sao? Môi trường sinh thái đầu tiên không những suy thoái trầm trọng vì những bệnh do thuốc ngừa thai, do những lần nạo phá thai, mà còn bị hủy diệt đến thế sao!
Môi trường sinh thái và luân lý đầu tiên của con người: Lòng Mẹ, phải được bảo vệ trước tiên và khẩn thiết.
Mái ấm gia đình, môi trường cơ bản
Con người, dù giàu hay nghèo, cũng luôn nghĩ tới việc bảo vệ, phát triển môi trường cơ bản của mình là gia đình.
Gia đình là một tổ ấm. Những con người nhỏ bé được sinh ra và được nuôi dưỡng trong gia đình, nhờ tình thương của Cha Mẹ. “Sống cái nhà, già cái mồ”, vì thế gia đình nào cũng cần có nhà cửa như một mái ấm. Nhà cửa tươm tất, xinh đẹp, đầy đủ các phương tiện, tiện nghi, luôn là mơ ước chính đáng của mỗi gia đình. Việc cho ăn và chăm sóc sức khỏe cho con là một bổn phận cao quí vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo. Ý thức bổn phận càng cao thì gánh lo cho con cái càng nhẹ.
Một thực tế rất đáng buồn cười là nhà cao cửa rộng sang trọng, thì chỉ có vài ba con người ở trong ấy, còn nhà cửa thấp bé, ọp ẹp, thiếu thốn mọi bề, thì có cả chục đứa con chen chúc nhau, đứa ngủ trên giường, đứa ngủ dưới đất, đứa ra hè đắp chiếu co ro.
Điều kiện sống của các gia đình Việt Nam nói chung, hiện thời ở mức tạm bợ, từ nhà ở, phương tiện, đến thu nhập. Có một số trên mức trung bình, nhưng còn một số lớn, điều kiện sống quá thấp kém. Họ phải bảo vệ môi trường như thế nào, khi vì phải kế sinh nhai, mà chui rúc tháng ngày trong những khu nhà ổ chuột bên đầm sình hôi thối? Những con đường làng bụi mù trời bay theo cơn lốc cuốn mà nhà có cửa lủng, có vách rách cũng bằng không. Tôi may mắn được ở nhà quê nghèo, hằng ngày tiếp cận với bao anh em nghèo, nên đã được chứng kiến bao gia đình có điều kiện quá tồi tệ. Có người đi chợ phải mua của rẻ của ôi. Tiền ít mà rau nhiều, cá ương, thịt thừa nhiều, là tốt rồi… Nấu mặn, ăn mặn là thường xuyên,miễn sao cho cả nhà đông con qua bữa… Có phải họ không biết gì về ô nhiễm môi sinh, nước sạch rau sạch, cá tươi, thịt kiểm dịch. Họ không thoát ra khỏi cái điều kiện kém cỏi của việc thu nhập đồng tiền ít ỏi. Họ phải bảo vệ môi trường như thế nào? Hay là họ đang gánh chịu sự thua thiệt của một đất nước, gánh chịu sự bất công của những người ngồi trước ăn trên? Đến các bệnh viện lớn, thấy toàn là người nghèo mang bệnh của nhà giàu! Tại sao vậy? Những người giàu thường cho rằng vì họ đông con, nhưng tôi thì nghĩ khác, vì xã hội đang tạo ra một môi trường bất công, phân cấp, vì con người quá ích kỷ không để ý đến nhau.
Gia đình còn là một môi trường luân lý quan trọng. Những bài học luân lý đầu tiên bắt đầu từ gia đình. Cha Mẹ không chỉ là thầy dạy đầu tiên mà còn là tấm gương sống động cho con cái về một đời sống nhân bản, đạo đức. Những đức tính tự nhiên và nhân đức siêu nhiên của một người, là tấm gương phản chiếu đời sống nhân đức của cha mẹ. Những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam về chữ hiếu, về luân thường, về thuần phong mỹ tục vẫn được bảo lưu và phát huy trong các gia đình, không kể là giàu hay nghèo. Có những gia đình rất nghèo về tiền bạc, nhưng không nghèo về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng. Có những cha mẹ rất giản dị, không se sua đua đòi, quần quật suốt ngày với công việc lao động trên nương trên đồng. Họ làm gương cho con cái về sự trân quí giá trị của lao động, giá trị của thời gian, và nhất là giá trị của tình yêu thương và bổn phận. Ở chỗ tôi có gia đình anh S. chị P. vừa kỷ niệm 30 năm hôn nhân với 8 đứa con, 5 con tốt nghiệp Đại học, 1 đang đại học, 2 trung học, trong đó một trai đang học ở Đại Chủng Viện Xuân Lộc, và một gái nữ tu dòng MTG NT chuẩn bị khấn lần đầu. 28 năm vợ chồng với những cố gắng và hy sinh trong một căn nhà lá lụp xụp rách nát, để đầu tư tất cả cho con cái. Mãi đến năm kia, mới xây lại được căn nhà tàm tạm coi được. “Mất 42 triệu đó anh à”. Tôi nghĩ, với số tiền 42 triệu, chưa bằng một cái “buồng tắm” của người ta, nhưng lại là nỗi vui vô cùng của một gia đình đạo đức. Nhìn quả biết cây. Hoa trái tốt tươi là phần thưởng quí giá cho cha mẹ đã suốt đời ý thức cao về việc nuôi dạy con cái bằng chính gương sáng đời sống luân lý của mình.
Bên cạnh một số gia đình vẫn giữ được truyền thống dùng mái ấm gia đình làm môi trường luân lý tốt đẹp cho con cái, thì cũng không thiếu những môi trường gia đình suy thoái đến hồi báo động. Cha mẹ không đủ gương sáng cho con cái về đời sống nhân bản đạo đức, mà còn ngược lại, trở nên tấm gương mù cho con. Không thể đổ thừa cho nhịp sống xã hội với những trào lưu giải phóng trong nhà ngoài cửa, cũng không thể qui tội cho sự suy sụp về kinh tế hay nạn thất nghiệp, mà cha mẹ phải lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ. Có những người vô công rỗi nghề, sáng nào cũng phải tóc tai đàng hoàng, ăn bận tử tế, môi son má phấn ra quán cà phê lê la từ 7g đến hết buổi. Thành thói quen, không ngày nào nhịn được. Thực hư rồi ra mới biết: không phải ghiền cà phê nhưng quán cà phê là nơi hò hẹn có văn hóa, để lên chương trình cho những trận mây mưa không phân biệt tuổi tác! Có nhà có cửa, có con cái, nhưng nhà cửa là quán trọ, con cái là cái nợ đời! Ở ngoài đường thì thùy mị đoan trang dễ thương vô cùng, về đến nhà thì luôn gây gỗ với vợ chồng con cái! Có thể mấy ngày không nhớ gì đến con cái, nhưng không thể rời cái điện thoại di động mấy phút! Cỏ mọc tới hè, rác tấp tới cửa cũng không lấy làm điều nhưng chuyện làng trên xóm dưới không chuyện gì mà không biết! Mái ấm gia đình trở thành địa ngục ở trần gian, có lúc lạnh như băng, có lúc phát hỏa thiêu rụi tan tành cả tình cả nghĩa, cả bổn phận, cả luân thường đạo lý… thì làm sao là môi trường tốt cho con cái được. Mới chuyện lãng phí thời gian đã sinh ra bao điều tệ hại, huống chi còn bao nhiêu cái khuyết điểm của người lớn.
Những trẻ bụi đời, những cô gái chân không dài cũng đang bán cái ngàn vàng đổi vài chục ngàn tiền lẻ, những trẻ phạm pháp, những trẻ vô gia cư… không hẳn đều là con cái của những người nghèo, nhưng đa số là con cái của những mái ấm gia đình tan nát. Sáng mùng ba tết, tôi và mấy anh em gặp nhau ở quán cà phê “Gió Núi”. Tôi hỏi một cháu gái bưng cà phê: “nhà con ở đây”, “dạ không, nhà con ở xa”, “con không về ăn tết với ba mẹ à”, “đừng nhắc tới ổng bả”.
Đã đến lúc mà những người làm Cha Mẹ phải khẩn trương tái lập một môi trường sống ở gia đình thật tốt về điều kiện nhà cửa, về vệ sinh, về chăm sóc sức khỏe, và cả về đời sống đạo đức luân lý cơ bản trong gia đình. Có thể nói, đó là một chương trình bảo vệ môi trường thiết thực nhất, không thể bỏ qua.
…
Chút tản mạn môi trường
Ngoài thiên nhiên, tầng ozôn bị suy thoái, làm giảm khả năng miễn dịch của con người, làm tăng thêm các bệnh tật. Trái đất đang mất hệ thống phòng thủ sự xâm lăng của tia cực tím.
Trong gia đình, luân thường đạo lý bị xem nhẹ, bỏ qua; kỷ cương không giá trị bằng quyền uy của tiền bạc; uy tín của cha mẹ sút giảm. Gia đình đang mất cảnh giác trước những làn sóng vô luân.
Nhiệt độ trái đất đang tăng lên do mất rừng xanh, do nhiễm khí độc. Hiệu ứng nhà kính này làm mất mùa, ô nhiễm nguồn nước…gây bao tai họa đến cái ở cái ăn cái uống của con người.
Nhịp xáo trộn trong các gia đình tăng lên do nhiễm những trào lưu độc hại, những tư tưởng hạ cấp con người xuống đồng đẳng với con vật, để được sống như con vật.
Khói, bụi làm không khí không còn sạch. Nguồn nước khó tìm lại sự tinh khiết thuở xưa.
Những vết nám nghi ngờ trong bộ phổi các gia đình ngày càng lộ rõ, bắt đầu từ những dối trá nhỏ đến dối trá lớn hơn, rồi trở thành con satan thường trú.
Mặt trời không xích lại gần trái đất vài ba gang, cũng không xa ra vài ba tấc, để loài người phải chết cháy hoặc chết rét. Thiên nhiên không làm điều ác đức cho con người. Con người đang vắt kiệt bao nhiêu ơn lộc của trời đất, mà không đền đáp, không giữ luật công bằng. Hậu duệ đang rơi vào một lối bế tắc trong môi trường sinh thái và luân lý.
Người ta đang đổ thừa trách nhiệm cho nhau trước những suy thoái của môi trường sinh thái và luân lý.
Có người cho rằng do bất chấp quy luật tự nhiên và đạo lý xã hội. Người khác lại nói do sự kết hợp giữa phát triển và ngu dốt, lạc hậu.
Có người kết luận do con người kiêu ngạo không tin có Thiên Chúa. Không tin có Thiên Chúa thì vũ trụ thiên nhiên như là cái tự nhiên con người được quyền khai thác đến tận xương tận cốt, mà không phải đền đáp gì. Không có Thiên Chúa thì con người là chủ thể cao nhất có quyền thiết lập mọi định chế cho mình, cho cuộc sống mình. “Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm”. Lương tâm không còn là tiếng nói siêu nhiên, nhưng là một sản phẩm bộ não con người có thể định được tròn hay méo, miễn sao có lợi cho mình. Còn tệ hại hơn nữa, có nơi, không phải môi trường bị suy thoái, mà là con người cố tình tạo ra một môi trường mới - môi trường của con người, môi trường không Thiên Chúa. Môi trường không Thiên Chúa sẽ giúp cho con người thỏa mãn cuộc làm người ngay trên trái đất nầy, và trở nên một chước cám dỗ ngọt ngào cho những ai tin vào Thiên Chúa.
Người gài bẫy con mồi, luôn mong con mồi trúng bẫy. Môi trường mới không Thiên Chúa, đang là một thách thức lớn đối với con cái của Thiên Chúa. Chắc chắn con cái Chúa phải dứt khoát nói “không” với những chủ trương phá hoại môi trường “lòng Mẹ”, phá hoại môi trường “gia đình”. Chắc chắn phải “tử đạo” từng ngày từng giờ trước những hạnh phúc ảo của một môi trường vô luân đang trở thành đạo luật, thành chủ trương, thành thương hiệu, thành cơn cám dỗ ngọt ngào.
Tôi đang nghĩ đến vũ trụ, đến đất nước, đến Giáo Hội, đến lòng mẹ, đến cái nhà và mái ấm của tôi, của các bạn. Và tôi muốn mời tất cả chúng ta cùng hát bài ca nầy:
“Cái nhà là nhà của ta. Công khó ông cha làm ra, các con phải gìn giữ lấy. Muôn năm với nước non nhà”
Tháng 2-2009
Đời tôi là một cuộc người, chưa tận
Đến trần gian trong cung lòng phước hạnh
Nhịp nhân sinh trong dạ mẹ yêu thương”
(Thơ Tuyết Mai Texas)
Khi nói về môi trường sinh thái, người ta liền nghĩ ngay đến một mạng lưới chỉnh thể có tương quan tương tác giữa đất, nước, không khí, con người và các sinh vật. Mối tương quan tương tác ấy mật thiết đến nỗi có thể nói là không thể thiếu nhau. Con người, “một cây sậy biết suy nghĩ”, được xem là một sinh vật toàn hảo nhất trong môi trường. Nếu như con người cần đất, nước và các sinh vật để làm thành một cuộc sống trên trái đất nầy thì đất, nước, không khí và các sinh vật chung quanh cũng cần đến sự chăm sóc, bảo vệ, bồi dưỡng, tái tạo… như một nghĩa cử của lòng biết ơn, nếu không nói đó là sự công bằng. Vậy, thực hiện việc bảo vệ môi trường, có thể nói, là thi hành một bản luật bất thành văn phát xuất từ trong con người biết suy nghĩ, biết phải trái.
Lòng Mẹ, môi trường đầu tiên
Tôi muốn bắt đầu từ môi trường đầu tiên của con người. Khi chưa tiếp cận trực tiếp với đất, nước và không khí, thì môi trường sinh thái và luân lý đầu tiên của đời người là lòng mẹ. Lòng là “lòng dạ” bảo bọc con người từ khi mới bắt đầu là một hữu thể có sự sống. Lòng, cũng là “tấm lòng” hình thành một nhân cách, một nhân vị mới trong xã hội loài người. Giới nữ thật vinh dự. Lòng Mẹ thật diễm phúc, vì được chọn là môi trường đầu tiên của con người, là nơi tác sinh nên con người mà khoa học ngày nay dẫu tiến bộ vẻ vang cách nào cũng không làm ra được cách hoàn toàn. Lòng Mẹ không thể là môi trường đầu tiên tốt đẹp nếu không có tình cha, không có mái ấm, không có tình huynh đệ, nghĩa xóm làng… và các định chế tôn giáo, xã hội bảo đảm cho thiên chức.
Như vậy, cùng với ý thức lòng mẹ là môi trường đầu tiên, chắc chắn việc chuẩn bị cho ra đời một con người phải chu đáo lắm: tình trạng sức khỏe của vợ chồng khi chồng đặt con mình vào dạ vợ; tình yêu nồng thắm trọn vẹn ý nghĩa cao quí là dâng hiến cho nhau để cùng tạo tác nên một con người, một mái ấm. Các tiêu chuẩn về sức khỏe, nhân bản, đạo đức, luân lý của cha mẹ phải ở mức tối thượng.
Ngược lại, thiếu ý thức lòng mẹ là môi trường đầu tiên, dẫn đến bao nhiêu hệ lụy xấu khôn lường: Hôn nhân gia đình như là sự kết hợp tự nhiên muôn loài đều phải có; việc vợ chồng cẩu thả như gà như vịt; việc thỏa mãn dục tình không có ý hướng sinh con cái; việc giết chết các thai nhi vô tội do tình trạng sống thử, ngoại hôn, hưởng thụ; việc sinh ra những con người ọp òi suy dinh dưỡng thể xác, chưa nói đến việc đã sinh ra những con người suy sụp nhân cách hoặc biết cầm dao cầm búa cầm gậy muốn chọc thủng trời ngay khi còn trong lòng mẹ.
Mối bận tâm lớn nhất trong xã hội ngày nay là phần lớn chị em không còn cảm thấy vinh dự, diễm phúc được làm Mẹ, không muốn làm mẹ, và chối từ thiên chức làm mẹ. Cũng có thể do sợ trách nhiệm, sợ tàn úa, sợ chia sẻ, sợ chê cười… nhưng cũng còn do bị ép buộc nữa. Các chị em lại được hưởng ứng đồng tình nồng nhiệt của các anh em và nhất là được xã hội cổ xúy một cách long trọng, có nơi thành quốc sách! Ở các miền quê, mỗi lần chối từ thiên chức làm Mẹ, các chị em được thưởng vài trăm ngàn, ít gạo, đường, sữa, bột ngọt, dầu ăn và thuốc bổ… Ở thành phố thì sao? Có lẽ các chị em cũng có thưởng, phần thưởng làn da mịn màng trẻ trung, nét đẹp duyên dáng quyến rũ để tiếp tục cuộc vui mà khỏi phải bận tâm lo lắng cho một trách nhiệm với thêm một con người. Ôi! Con người mất thiên chức làm mẹ rồi sao? Môi trường sinh thái đầu tiên không những suy thoái trầm trọng vì những bệnh do thuốc ngừa thai, do những lần nạo phá thai, mà còn bị hủy diệt đến thế sao!
Môi trường sinh thái và luân lý đầu tiên của con người: Lòng Mẹ, phải được bảo vệ trước tiên và khẩn thiết.
Mái ấm gia đình, môi trường cơ bản
Con người, dù giàu hay nghèo, cũng luôn nghĩ tới việc bảo vệ, phát triển môi trường cơ bản của mình là gia đình.
Gia đình là một tổ ấm. Những con người nhỏ bé được sinh ra và được nuôi dưỡng trong gia đình, nhờ tình thương của Cha Mẹ. “Sống cái nhà, già cái mồ”, vì thế gia đình nào cũng cần có nhà cửa như một mái ấm. Nhà cửa tươm tất, xinh đẹp, đầy đủ các phương tiện, tiện nghi, luôn là mơ ước chính đáng của mỗi gia đình. Việc cho ăn và chăm sóc sức khỏe cho con là một bổn phận cao quí vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo. Ý thức bổn phận càng cao thì gánh lo cho con cái càng nhẹ.
Một thực tế rất đáng buồn cười là nhà cao cửa rộng sang trọng, thì chỉ có vài ba con người ở trong ấy, còn nhà cửa thấp bé, ọp ẹp, thiếu thốn mọi bề, thì có cả chục đứa con chen chúc nhau, đứa ngủ trên giường, đứa ngủ dưới đất, đứa ra hè đắp chiếu co ro.
Điều kiện sống của các gia đình Việt Nam nói chung, hiện thời ở mức tạm bợ, từ nhà ở, phương tiện, đến thu nhập. Có một số trên mức trung bình, nhưng còn một số lớn, điều kiện sống quá thấp kém. Họ phải bảo vệ môi trường như thế nào, khi vì phải kế sinh nhai, mà chui rúc tháng ngày trong những khu nhà ổ chuột bên đầm sình hôi thối? Những con đường làng bụi mù trời bay theo cơn lốc cuốn mà nhà có cửa lủng, có vách rách cũng bằng không. Tôi may mắn được ở nhà quê nghèo, hằng ngày tiếp cận với bao anh em nghèo, nên đã được chứng kiến bao gia đình có điều kiện quá tồi tệ. Có người đi chợ phải mua của rẻ của ôi. Tiền ít mà rau nhiều, cá ương, thịt thừa nhiều, là tốt rồi… Nấu mặn, ăn mặn là thường xuyên,miễn sao cho cả nhà đông con qua bữa… Có phải họ không biết gì về ô nhiễm môi sinh, nước sạch rau sạch, cá tươi, thịt kiểm dịch. Họ không thoát ra khỏi cái điều kiện kém cỏi của việc thu nhập đồng tiền ít ỏi. Họ phải bảo vệ môi trường như thế nào? Hay là họ đang gánh chịu sự thua thiệt của một đất nước, gánh chịu sự bất công của những người ngồi trước ăn trên? Đến các bệnh viện lớn, thấy toàn là người nghèo mang bệnh của nhà giàu! Tại sao vậy? Những người giàu thường cho rằng vì họ đông con, nhưng tôi thì nghĩ khác, vì xã hội đang tạo ra một môi trường bất công, phân cấp, vì con người quá ích kỷ không để ý đến nhau.
Gia đình còn là một môi trường luân lý quan trọng. Những bài học luân lý đầu tiên bắt đầu từ gia đình. Cha Mẹ không chỉ là thầy dạy đầu tiên mà còn là tấm gương sống động cho con cái về một đời sống nhân bản, đạo đức. Những đức tính tự nhiên và nhân đức siêu nhiên của một người, là tấm gương phản chiếu đời sống nhân đức của cha mẹ. Những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam về chữ hiếu, về luân thường, về thuần phong mỹ tục vẫn được bảo lưu và phát huy trong các gia đình, không kể là giàu hay nghèo. Có những gia đình rất nghèo về tiền bạc, nhưng không nghèo về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng. Có những cha mẹ rất giản dị, không se sua đua đòi, quần quật suốt ngày với công việc lao động trên nương trên đồng. Họ làm gương cho con cái về sự trân quí giá trị của lao động, giá trị của thời gian, và nhất là giá trị của tình yêu thương và bổn phận. Ở chỗ tôi có gia đình anh S. chị P. vừa kỷ niệm 30 năm hôn nhân với 8 đứa con, 5 con tốt nghiệp Đại học, 1 đang đại học, 2 trung học, trong đó một trai đang học ở Đại Chủng Viện Xuân Lộc, và một gái nữ tu dòng MTG NT chuẩn bị khấn lần đầu. 28 năm vợ chồng với những cố gắng và hy sinh trong một căn nhà lá lụp xụp rách nát, để đầu tư tất cả cho con cái. Mãi đến năm kia, mới xây lại được căn nhà tàm tạm coi được. “Mất 42 triệu đó anh à”. Tôi nghĩ, với số tiền 42 triệu, chưa bằng một cái “buồng tắm” của người ta, nhưng lại là nỗi vui vô cùng của một gia đình đạo đức. Nhìn quả biết cây. Hoa trái tốt tươi là phần thưởng quí giá cho cha mẹ đã suốt đời ý thức cao về việc nuôi dạy con cái bằng chính gương sáng đời sống luân lý của mình.
Bên cạnh một số gia đình vẫn giữ được truyền thống dùng mái ấm gia đình làm môi trường luân lý tốt đẹp cho con cái, thì cũng không thiếu những môi trường gia đình suy thoái đến hồi báo động. Cha mẹ không đủ gương sáng cho con cái về đời sống nhân bản đạo đức, mà còn ngược lại, trở nên tấm gương mù cho con. Không thể đổ thừa cho nhịp sống xã hội với những trào lưu giải phóng trong nhà ngoài cửa, cũng không thể qui tội cho sự suy sụp về kinh tế hay nạn thất nghiệp, mà cha mẹ phải lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ. Có những người vô công rỗi nghề, sáng nào cũng phải tóc tai đàng hoàng, ăn bận tử tế, môi son má phấn ra quán cà phê lê la từ 7g đến hết buổi. Thành thói quen, không ngày nào nhịn được. Thực hư rồi ra mới biết: không phải ghiền cà phê nhưng quán cà phê là nơi hò hẹn có văn hóa, để lên chương trình cho những trận mây mưa không phân biệt tuổi tác! Có nhà có cửa, có con cái, nhưng nhà cửa là quán trọ, con cái là cái nợ đời! Ở ngoài đường thì thùy mị đoan trang dễ thương vô cùng, về đến nhà thì luôn gây gỗ với vợ chồng con cái! Có thể mấy ngày không nhớ gì đến con cái, nhưng không thể rời cái điện thoại di động mấy phút! Cỏ mọc tới hè, rác tấp tới cửa cũng không lấy làm điều nhưng chuyện làng trên xóm dưới không chuyện gì mà không biết! Mái ấm gia đình trở thành địa ngục ở trần gian, có lúc lạnh như băng, có lúc phát hỏa thiêu rụi tan tành cả tình cả nghĩa, cả bổn phận, cả luân thường đạo lý… thì làm sao là môi trường tốt cho con cái được. Mới chuyện lãng phí thời gian đã sinh ra bao điều tệ hại, huống chi còn bao nhiêu cái khuyết điểm của người lớn.
Những trẻ bụi đời, những cô gái chân không dài cũng đang bán cái ngàn vàng đổi vài chục ngàn tiền lẻ, những trẻ phạm pháp, những trẻ vô gia cư… không hẳn đều là con cái của những người nghèo, nhưng đa số là con cái của những mái ấm gia đình tan nát. Sáng mùng ba tết, tôi và mấy anh em gặp nhau ở quán cà phê “Gió Núi”. Tôi hỏi một cháu gái bưng cà phê: “nhà con ở đây”, “dạ không, nhà con ở xa”, “con không về ăn tết với ba mẹ à”, “đừng nhắc tới ổng bả”.
Đã đến lúc mà những người làm Cha Mẹ phải khẩn trương tái lập một môi trường sống ở gia đình thật tốt về điều kiện nhà cửa, về vệ sinh, về chăm sóc sức khỏe, và cả về đời sống đạo đức luân lý cơ bản trong gia đình. Có thể nói, đó là một chương trình bảo vệ môi trường thiết thực nhất, không thể bỏ qua.
…
Chút tản mạn môi trường
Ngoài thiên nhiên, tầng ozôn bị suy thoái, làm giảm khả năng miễn dịch của con người, làm tăng thêm các bệnh tật. Trái đất đang mất hệ thống phòng thủ sự xâm lăng của tia cực tím.
Trong gia đình, luân thường đạo lý bị xem nhẹ, bỏ qua; kỷ cương không giá trị bằng quyền uy của tiền bạc; uy tín của cha mẹ sút giảm. Gia đình đang mất cảnh giác trước những làn sóng vô luân.
Nhiệt độ trái đất đang tăng lên do mất rừng xanh, do nhiễm khí độc. Hiệu ứng nhà kính này làm mất mùa, ô nhiễm nguồn nước…gây bao tai họa đến cái ở cái ăn cái uống của con người.
Nhịp xáo trộn trong các gia đình tăng lên do nhiễm những trào lưu độc hại, những tư tưởng hạ cấp con người xuống đồng đẳng với con vật, để được sống như con vật.
Khói, bụi làm không khí không còn sạch. Nguồn nước khó tìm lại sự tinh khiết thuở xưa.
Những vết nám nghi ngờ trong bộ phổi các gia đình ngày càng lộ rõ, bắt đầu từ những dối trá nhỏ đến dối trá lớn hơn, rồi trở thành con satan thường trú.
Mặt trời không xích lại gần trái đất vài ba gang, cũng không xa ra vài ba tấc, để loài người phải chết cháy hoặc chết rét. Thiên nhiên không làm điều ác đức cho con người. Con người đang vắt kiệt bao nhiêu ơn lộc của trời đất, mà không đền đáp, không giữ luật công bằng. Hậu duệ đang rơi vào một lối bế tắc trong môi trường sinh thái và luân lý.
Người ta đang đổ thừa trách nhiệm cho nhau trước những suy thoái của môi trường sinh thái và luân lý.
Có người cho rằng do bất chấp quy luật tự nhiên và đạo lý xã hội. Người khác lại nói do sự kết hợp giữa phát triển và ngu dốt, lạc hậu.
Có người kết luận do con người kiêu ngạo không tin có Thiên Chúa. Không tin có Thiên Chúa thì vũ trụ thiên nhiên như là cái tự nhiên con người được quyền khai thác đến tận xương tận cốt, mà không phải đền đáp gì. Không có Thiên Chúa thì con người là chủ thể cao nhất có quyền thiết lập mọi định chế cho mình, cho cuộc sống mình. “Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm”. Lương tâm không còn là tiếng nói siêu nhiên, nhưng là một sản phẩm bộ não con người có thể định được tròn hay méo, miễn sao có lợi cho mình. Còn tệ hại hơn nữa, có nơi, không phải môi trường bị suy thoái, mà là con người cố tình tạo ra một môi trường mới - môi trường của con người, môi trường không Thiên Chúa. Môi trường không Thiên Chúa sẽ giúp cho con người thỏa mãn cuộc làm người ngay trên trái đất nầy, và trở nên một chước cám dỗ ngọt ngào cho những ai tin vào Thiên Chúa.
Người gài bẫy con mồi, luôn mong con mồi trúng bẫy. Môi trường mới không Thiên Chúa, đang là một thách thức lớn đối với con cái của Thiên Chúa. Chắc chắn con cái Chúa phải dứt khoát nói “không” với những chủ trương phá hoại môi trường “lòng Mẹ”, phá hoại môi trường “gia đình”. Chắc chắn phải “tử đạo” từng ngày từng giờ trước những hạnh phúc ảo của một môi trường vô luân đang trở thành đạo luật, thành chủ trương, thành thương hiệu, thành cơn cám dỗ ngọt ngào.
Tôi đang nghĩ đến vũ trụ, đến đất nước, đến Giáo Hội, đến lòng mẹ, đến cái nhà và mái ấm của tôi, của các bạn. Và tôi muốn mời tất cả chúng ta cùng hát bài ca nầy:
“Cái nhà là nhà của ta. Công khó ông cha làm ra, các con phải gìn giữ lấy. Muôn năm với nước non nhà”
Tháng 2-2009
Lễ Thánh Tôma Aquinô
+ GM F.X. Nguyễn Văn Sang
15:33 07/02/2009
Lễ Thánh Tôma Aquinô, quan thầy nhóm sinh viên Công giáo Thái Bình
Kính thưa: các Cha, các Nam nữ tu sỹ,
các bạn sinh viên, và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa.
Tôi rất hân hoan có mặt ở Giáo xứ Thanh minh này để chúc tuổi đầu xuân Cha quản hạt, chúc tuổi các cha, các nam nữ tu sỹ, các vị chính quyền các cấp, các vị trong tôn giáo bạn và toàn thể anh chị em, nhất là các bạn sinh viên nam nữ Thái bình đang học tập tại Hà nội và tất cả những nơi khác, cùng tất cả đồng bào thân mến.
Mùa xuân đến, mọi sự đều vui vẻ, hoa thơm trái ngọt cờ bay phất phới, mọi người mặc áo mới và cùng nhau tươi tỉnh vui xuân như chúng ta quen nói. Dân gian quen nói: Vui vẻ 3 ngày tết, và nhiều người còn nói: tháng giêng là tháng ăn chơi. Nhưng đối với mỗi người Công giáo của chúng ta, mỗi mùa xuân đến những ngày tết chúng ta giống như mọi người: vui vẻ, chúc tụng lẫn nhau trong tinh thần yêu mến, công bình, bác ái, sự thật, tránh xa những điều sai phạm, những điều khuyết điểm, những điều xấu xa trong dịp đầu năm. Nhưng chúng ta là người công giáo, vui xuân nhưng cũng không quên ý nghĩa của ngày xuân theo lý tưởng của đạo. Thánh Phaolô mà chúng ta năm nay mừng năm thánh đã nói rằng: anh em phải đổi mới mọi sự, đổi mới để sống đẹp lòng Thiên Chúa và có ích lợi cho mọi người. Mùa xuân mới như chúng ta vẫn quen nói: mùa xuân mới đầy vui vẻ, đẹp đẽ. Ước gì với mỗi người Công giáo của chúng ta, đây là một dịp mỗi người chúng ta đổi mới trong tâm hồn trở nên tươi đẹp hơn, tốt lành hơn đúng đắn hơn theo tinh thần Phúc Âm, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Giáo Hội chúng ta đổi mới, và những cái mới ở trong cuộc đời đó chính là tiên báo trong ngày tận thế, là ngày công cuộc cứu chuộc đã được hoàn thành. Mọi sự được đổi mới từ con người đến cây cỏ, lá hoa, muôn thú đều được đổi mới như lời Thánh Kinh nói: "Ta đến là để đổi mới mọi sự, sẽ có trời mới và đất mới, không còn chết chóc, không còn tang thương, không còn đau khổ vì đây Ta đến để đổi mới mọi sự, Ta đến là để ở với loài người. Đó là ngày Tết, đó là ngày Xuân đẹp đẽ nhất, hoàn hảo nhất mà mỗi người công giáo của chúng ta ngay từ bây giờ cần phải xây dựng và phải đóng góp. Mỗi một mùa xuân đến, mỗi một cái tết mà chúng ta mừng, là dịp để chúng ta đổi mới dần dần, chúng ta đóng góp vào mùa xuân vĩnh cửu, ngày tết đời đời, ngày chung cục của toàn thể thế gian này, ngày trời mới đất mới sẽ đến với tất cả mọi loài mọi vật hết thảy để chúng ta được sống mãi mãi với Thiên Chúa. Ngày xuân là ngày đẹp đẽ như vậy, chứ không phải chỉ là ngày sum họp để ăn chơi, dễ sa đọa. Cho nên ngày xuân đến, tôi xin chúc tất cả mọi người được tất cả những điều tôi đã nói ở trên. Một mùa xuân mới, đổi mới bên ngoài đồng thời cũng phải đổi mới trong tâm hồn, góp phần đổi mới toàn thể vũ trụ này để chúng ta sẽ có một mùa xuân vĩnh cửu, và một cái tết tràn lan hạnh phúc vì chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay cũng là ngày các bạn sinh viên nam nữ gốc Thái Bình đang học tập ở trên Hà nội và tất cả anh em sinh viên có mặt trong ngày hôm nay để mừng lễ Thánh quan thầy Tôma Aquino - Tiến sỹ của Hội thánh.
Về lịch sử, về cuộc đời của Thánh nhân, chúng ta- các bạn sinh viên đã nghe nhiều đã học tập nhiều, đã học hỏi nhiều tôi không trình bày nữa. Điều mà tôi muốn nói ở đây về một vị Tiến sỹ của Giáo Hội-là một vị thông hiểu đạo lý Công giáo một cách tinh tường, là Thầy dạy cho mọi người trong Giáo hội. Thánh Tôma Aquino - tiến sỹ Hội thánh, không những là một vị tiến sỹ dạy bảo cho tất cả những người kitô giáo trong thời đại của người, mà còn trong Giáo hội cho đến tận thế, và cũng là Thầy dạy cho tất cả những ai là bâc trí thức, là bậc hiểu biết, là những người tìm hiểu sự thật không phải chỉ trong Giáo hội Công giáo mà còn cho tất cả mọi người trên thế gian này. Bởi vì Tiến sỹ Hội thánh có nghĩa là gì? Nghĩa là người thông hiểu những điều trí thức ở trong đạo, thông hiểu về Thiên Chúa, thông hiểu về những lý đạo, thông hiểu về những điều trong tín lý, trong luân lý và tất cả những khoa học khác của Giáo hội để mình sống cho mình và cho tất cả những người khác nữa. Thánh Tôma tiến sỹ - là vị tiến sỹ Thiên thần, nghĩa là một vị tiến sỹ thông hiểu đạo đức như là các Thiên thần ở trên trời, chúng ta ở trần gian này là chúng ta phải học tập, chúng ta phải thi cử, chúng ta là người trần gian chúng ta không phải là thánh, chúng ta không phải là thần.
Trong dịp đầu xuân này không phải chỉ là người công giáo của chúng ta, mà biết bao nhiêu người đi lễ ở đình chùa, đền thờ miếu mạo để xin các vị thánh giúp đỡ cho, để tỏ cho những người là người trần mắt thịt, không đủ tài năng không đủ những hiểu biết có thể lèo lái con thuyền đang sống ở thế gian này mà chính ta không làm được, tức là phải nhờ thần linh - mà ta gọi là tâm linh. Trong những ngày đầu xuân, các chùa chiền không đủ chỗ cho con người đến xin thần thánh ban thưởng đầu năm: một quẻ bói, một ý nguyện. v.v. Tin vào những điều trên thế gian này không thể có được, làm được, mà chỉ nhờ vào cõi thiêng liêng. Chưa bao giờ như ngày nay, trong xã hội mà người ta tin vào cõi tâm linh như vậy. Về hình thức, thì chúng ta vẫn nói là chúng ta là những con người vô thần, không tin vào nơi thần thánh, tất cả những tôn giáo ít nhiều bị coi là mê tín dị đoan, nhưng mà không có thời buổi nào như ngày nay con người mê tín đến thế, nghĩa là tin vào tâm linh đến thế: nhà nào, cơ quan nào, cơ sở nào cũng có bàn thờ bát hương, khấn cùng thổ địa, khấn cùng những cái mà con người nâng lên làm thần. Các thanh niên nam nữ, các nhà buôn, các nhà trí thức, các vị lãnh đạo. v.v, đi lễ chùa, đi miếu mạo và đi cả nhà thờ nữa để cầu xin cho được sự may lành. Họ tin vào cõi đời sau, tin vào những sự thiêng liêng mà mắt con người không thể thấy được. Trên truyền hình, từ các vị cao cấp nhất cho đến người thấp hèn nhất luôn luôn đến khấn vái trước bàn thờ, hoặc trước di ảnh những anh hùng dân tộc để làm gì? Nếu không là tin rằng những người ấy luôn có mặt bên mình, đang ở với mình có thể giúp được. Ta phải tin vào những gì là thiêng liêng, tin vào cái gì không phải chỉ nguyên ở đời này mà còn sống mãi trong đời sau như: ông bà cha mẹ, các anh hùng dân tộc, các thần làng, thần sông thần núi..vv.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Tôma Aquino - là vị Thánh Thiên thần, vị thánh không chỉ sống nguyên ở đời này, để dạy cho con người nguyên ở đời này mà còn dạy về những sự thiêng liêng, những sự mà con mắt chúng ta nhìn chẳng thấy, lỗ tai chúng ta nghe không được nghe như lời chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy. Cho nên gọi là tiến sỹ thiên thần là như vậy. Tiến sỹ đời này chỉ biết những sự đời này thôi, còn tiến sỹ thiên thần nhìn được tất cả mọi sự mọi loài trong sự thiêng liêng,... dậy dỗ hết mọi sự cho mọi người. Chưa có vị thánh nào, vị tiến sỹ nào có một danh hiệu tiến sỹ thiên thần như thánh Tôma Aquino, cho nên chúng ta ngày nay có những khó khăn phức tạp thì đã có sách của Thánh Tôma Aquino dạy cho ta hết, tập trung lại trong cuốn: Tổng luận thần học,ốc thể ít nhiều giải quyết được nhiều điều. Tất nhiên những điều mà Thánh Tôma hiểu biết để mà dạy bảo chúng ta thì phát xuất từ ơn Chúa ban mà thôi. Nếu không có ơn Chúa ban thì làm sao Thánh Tôma có thể dạy dỗ và viết ra những điều cao siêu như vậy được, cả đời này lẫn đời sau, cả thiêng liêng lẫn vật chất như vậy nếu không có ơn Chúa ban cho. Như Vua Salomon khi được Thiên Chúa hỏi rằng: Con muốn xin điều gì ở thế gian này để có thể sống và cai trị dân như vua chúa trần gian và còn hơn vua chúa trần gian này, thì Salomon nói rằng: con không xin của cải, tiền nong, vàng bạc châu báu, con không xin vinh quyền, không xin sức mạnh, nhưng xin Chúa ban cho con ơn khôn ngoan để lãnh đạo Dân Chúa, và để làm gương cho các dân tộc khác nữa.
Ơn khôn ngoan là cái gì? Tại sao vua Salomon xin ơn khôn ngoan? Ta hiểu ơn khôn ngoan đời này thật kém cỏi: Khôn ngoan là mưu cơ, là lươn lẹo kiếm tìm cho mình những lợi ích riêng, khôn ngoan đá đáp người ngoài. Ở thế gian, đó là sự khôn lỏi, thánh Tôma không dạy chúng ta điều đó, khôn ngoan là không đá ai cả, biết cùng nhau đi tìm hạnh phúc. Khôn ngoan đúng nghĩa là biết nếm hưởng sự trên trời, biết nếm hưởng Thiên Chúa (theo gốc chữ Sapne - nếm hưởng): Thiên Chúa ngon ngọt, Thiên Chúa giàu sang, Thiên Chúa tốt lành vô cùng, ở đời sau suốt ngày ta nếm hưởng Thiên Chúa, nếm hưởng mọi sự tốt lành của Thiên Chúa. Cho nên, các tiến sỹ trong Giáo hội là những người nếm hưởng sự tốt lành của Thiên Chúa, biết khôn ngoan và dạy dỗ những sự khôn ngoan đấy mới là tiến sỹ đích thật. Chúng ta mừng lễ Thánh Tôma Aquino - tiến sỹ Thiên thần, vị tiến sỹ nếm hưởng sự khôn ngoan và dạy chúng ta ở đời này biết nếm hưởng sự khôn ngoan của Thiên Chúa: biết sống theo sự thật, sống theo lẽ phải, sống theo tất cả những tính năng đẹp đẽ của Thiên Chúa.
Hôm nay, các anh chị sinh viên nam nữ công giáo Thái bình, chúng ta hãy cầu xin Thánh Toma tiến sỹ dạy cho chúng ta bài học: hãy tìm sự khôn ngoan, hãy nếm sự khôn ngoan và dạy dỗ anh chị em chúng ta sự khôn ngoan, nghĩa là chúng ta phải tìm đến nguồn gốc mọi sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa và biết yêu mến Người.
Nếm hưởng sự khôn ngoan trên hết là chính Thiên Chúa, tìm Thiên Chúa trên hết, mặc dầu chúng ta học tập mọi sự ở đời này, có thể nhiều khoa học nhưng tất cả mọi khoa học đều phải dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, ta học tất cả mọi khoa học đời này mà ta đánh mất Thiên Chúa thì chúng ta không xứng là người Kitô hữu. Để nếm hưởng khôn ngoan đời này và đời sau là chính Thiên Chúa, thì chúng ta đem sự khôn ngoan, đem Tin mừng đến cho anh chị em, bạn học của chúng ta và tất cả mọi người, đấy là một vai trò rất quan trọng của các bạn sinh viên Thái Bình chúng ta. Vì thế, ngày đầu xuân các bạn sinh viên mừng lễ Thánh quan thầy của chúng ta, thì tôi cầu chúc cho tất cả anh chị em hãy đến với sự khôn ngoan chân thật là Đức Giêsu Kitô - là Con Thiên Chúa, nếm hưởng sự khôn ngoan ở đời này là chúng ta đã nếm hưởng mãi mãi sự không ngoan ở đời sau trên Nước trời, và chúng ta nếm hưởng sự khôn ngoan đời này là chính Thiên Chúa rồi chúng ta biết giới thiệu và đem Chúa cho những người khác nữa. Hãy đem sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa trao ban cho các anh chị em chúng ta, trong môi trường các bạn đang sống, đang học tập có như thế chúng ta mới xứng đáng là con cái của Thánh Tôma tiến sỹ, lúc đó các bạn trở nên như vị thánh nếm hưởng sự khôn ngoan và trao ban cho người khác. Xin chúc các bạn nam nữ sinh viên, và chúc tất cả mọi người được như vậy. Amen.
Thái Bình, ngày mồng 6 Tết Kỷ Sửu
Kính thưa: các Cha, các Nam nữ tu sỹ,
các bạn sinh viên, và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa.
Tôi rất hân hoan có mặt ở Giáo xứ Thanh minh này để chúc tuổi đầu xuân Cha quản hạt, chúc tuổi các cha, các nam nữ tu sỹ, các vị chính quyền các cấp, các vị trong tôn giáo bạn và toàn thể anh chị em, nhất là các bạn sinh viên nam nữ Thái bình đang học tập tại Hà nội và tất cả những nơi khác, cùng tất cả đồng bào thân mến.
Mùa xuân đến, mọi sự đều vui vẻ, hoa thơm trái ngọt cờ bay phất phới, mọi người mặc áo mới và cùng nhau tươi tỉnh vui xuân như chúng ta quen nói. Dân gian quen nói: Vui vẻ 3 ngày tết, và nhiều người còn nói: tháng giêng là tháng ăn chơi. Nhưng đối với mỗi người Công giáo của chúng ta, mỗi mùa xuân đến những ngày tết chúng ta giống như mọi người: vui vẻ, chúc tụng lẫn nhau trong tinh thần yêu mến, công bình, bác ái, sự thật, tránh xa những điều sai phạm, những điều khuyết điểm, những điều xấu xa trong dịp đầu năm. Nhưng chúng ta là người công giáo, vui xuân nhưng cũng không quên ý nghĩa của ngày xuân theo lý tưởng của đạo. Thánh Phaolô mà chúng ta năm nay mừng năm thánh đã nói rằng: anh em phải đổi mới mọi sự, đổi mới để sống đẹp lòng Thiên Chúa và có ích lợi cho mọi người. Mùa xuân mới như chúng ta vẫn quen nói: mùa xuân mới đầy vui vẻ, đẹp đẽ. Ước gì với mỗi người Công giáo của chúng ta, đây là một dịp mỗi người chúng ta đổi mới trong tâm hồn trở nên tươi đẹp hơn, tốt lành hơn đúng đắn hơn theo tinh thần Phúc Âm, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Giáo Hội chúng ta đổi mới, và những cái mới ở trong cuộc đời đó chính là tiên báo trong ngày tận thế, là ngày công cuộc cứu chuộc đã được hoàn thành. Mọi sự được đổi mới từ con người đến cây cỏ, lá hoa, muôn thú đều được đổi mới như lời Thánh Kinh nói: "Ta đến là để đổi mới mọi sự, sẽ có trời mới và đất mới, không còn chết chóc, không còn tang thương, không còn đau khổ vì đây Ta đến để đổi mới mọi sự, Ta đến là để ở với loài người. Đó là ngày Tết, đó là ngày Xuân đẹp đẽ nhất, hoàn hảo nhất mà mỗi người công giáo của chúng ta ngay từ bây giờ cần phải xây dựng và phải đóng góp. Mỗi một mùa xuân đến, mỗi một cái tết mà chúng ta mừng, là dịp để chúng ta đổi mới dần dần, chúng ta đóng góp vào mùa xuân vĩnh cửu, ngày tết đời đời, ngày chung cục của toàn thể thế gian này, ngày trời mới đất mới sẽ đến với tất cả mọi loài mọi vật hết thảy để chúng ta được sống mãi mãi với Thiên Chúa. Ngày xuân là ngày đẹp đẽ như vậy, chứ không phải chỉ là ngày sum họp để ăn chơi, dễ sa đọa. Cho nên ngày xuân đến, tôi xin chúc tất cả mọi người được tất cả những điều tôi đã nói ở trên. Một mùa xuân mới, đổi mới bên ngoài đồng thời cũng phải đổi mới trong tâm hồn, góp phần đổi mới toàn thể vũ trụ này để chúng ta sẽ có một mùa xuân vĩnh cửu, và một cái tết tràn lan hạnh phúc vì chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay cũng là ngày các bạn sinh viên nam nữ gốc Thái Bình đang học tập ở trên Hà nội và tất cả anh em sinh viên có mặt trong ngày hôm nay để mừng lễ Thánh quan thầy Tôma Aquino - Tiến sỹ của Hội thánh.
Về lịch sử, về cuộc đời của Thánh nhân, chúng ta- các bạn sinh viên đã nghe nhiều đã học tập nhiều, đã học hỏi nhiều tôi không trình bày nữa. Điều mà tôi muốn nói ở đây về một vị Tiến sỹ của Giáo Hội-là một vị thông hiểu đạo lý Công giáo một cách tinh tường, là Thầy dạy cho mọi người trong Giáo hội. Thánh Tôma Aquino - tiến sỹ Hội thánh, không những là một vị tiến sỹ dạy bảo cho tất cả những người kitô giáo trong thời đại của người, mà còn trong Giáo hội cho đến tận thế, và cũng là Thầy dạy cho tất cả những ai là bâc trí thức, là bậc hiểu biết, là những người tìm hiểu sự thật không phải chỉ trong Giáo hội Công giáo mà còn cho tất cả mọi người trên thế gian này. Bởi vì Tiến sỹ Hội thánh có nghĩa là gì? Nghĩa là người thông hiểu những điều trí thức ở trong đạo, thông hiểu về Thiên Chúa, thông hiểu về những lý đạo, thông hiểu về những điều trong tín lý, trong luân lý và tất cả những khoa học khác của Giáo hội để mình sống cho mình và cho tất cả những người khác nữa. Thánh Tôma tiến sỹ - là vị tiến sỹ Thiên thần, nghĩa là một vị tiến sỹ thông hiểu đạo đức như là các Thiên thần ở trên trời, chúng ta ở trần gian này là chúng ta phải học tập, chúng ta phải thi cử, chúng ta là người trần gian chúng ta không phải là thánh, chúng ta không phải là thần.
Trong dịp đầu xuân này không phải chỉ là người công giáo của chúng ta, mà biết bao nhiêu người đi lễ ở đình chùa, đền thờ miếu mạo để xin các vị thánh giúp đỡ cho, để tỏ cho những người là người trần mắt thịt, không đủ tài năng không đủ những hiểu biết có thể lèo lái con thuyền đang sống ở thế gian này mà chính ta không làm được, tức là phải nhờ thần linh - mà ta gọi là tâm linh. Trong những ngày đầu xuân, các chùa chiền không đủ chỗ cho con người đến xin thần thánh ban thưởng đầu năm: một quẻ bói, một ý nguyện. v.v. Tin vào những điều trên thế gian này không thể có được, làm được, mà chỉ nhờ vào cõi thiêng liêng. Chưa bao giờ như ngày nay, trong xã hội mà người ta tin vào cõi tâm linh như vậy. Về hình thức, thì chúng ta vẫn nói là chúng ta là những con người vô thần, không tin vào nơi thần thánh, tất cả những tôn giáo ít nhiều bị coi là mê tín dị đoan, nhưng mà không có thời buổi nào như ngày nay con người mê tín đến thế, nghĩa là tin vào tâm linh đến thế: nhà nào, cơ quan nào, cơ sở nào cũng có bàn thờ bát hương, khấn cùng thổ địa, khấn cùng những cái mà con người nâng lên làm thần. Các thanh niên nam nữ, các nhà buôn, các nhà trí thức, các vị lãnh đạo. v.v, đi lễ chùa, đi miếu mạo và đi cả nhà thờ nữa để cầu xin cho được sự may lành. Họ tin vào cõi đời sau, tin vào những sự thiêng liêng mà mắt con người không thể thấy được. Trên truyền hình, từ các vị cao cấp nhất cho đến người thấp hèn nhất luôn luôn đến khấn vái trước bàn thờ, hoặc trước di ảnh những anh hùng dân tộc để làm gì? Nếu không là tin rằng những người ấy luôn có mặt bên mình, đang ở với mình có thể giúp được. Ta phải tin vào những gì là thiêng liêng, tin vào cái gì không phải chỉ nguyên ở đời này mà còn sống mãi trong đời sau như: ông bà cha mẹ, các anh hùng dân tộc, các thần làng, thần sông thần núi..vv.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Tôma Aquino - là vị Thánh Thiên thần, vị thánh không chỉ sống nguyên ở đời này, để dạy cho con người nguyên ở đời này mà còn dạy về những sự thiêng liêng, những sự mà con mắt chúng ta nhìn chẳng thấy, lỗ tai chúng ta nghe không được nghe như lời chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy. Cho nên gọi là tiến sỹ thiên thần là như vậy. Tiến sỹ đời này chỉ biết những sự đời này thôi, còn tiến sỹ thiên thần nhìn được tất cả mọi sự mọi loài trong sự thiêng liêng,... dậy dỗ hết mọi sự cho mọi người. Chưa có vị thánh nào, vị tiến sỹ nào có một danh hiệu tiến sỹ thiên thần như thánh Tôma Aquino, cho nên chúng ta ngày nay có những khó khăn phức tạp thì đã có sách của Thánh Tôma Aquino dạy cho ta hết, tập trung lại trong cuốn: Tổng luận thần học,ốc thể ít nhiều giải quyết được nhiều điều. Tất nhiên những điều mà Thánh Tôma hiểu biết để mà dạy bảo chúng ta thì phát xuất từ ơn Chúa ban mà thôi. Nếu không có ơn Chúa ban thì làm sao Thánh Tôma có thể dạy dỗ và viết ra những điều cao siêu như vậy được, cả đời này lẫn đời sau, cả thiêng liêng lẫn vật chất như vậy nếu không có ơn Chúa ban cho. Như Vua Salomon khi được Thiên Chúa hỏi rằng: Con muốn xin điều gì ở thế gian này để có thể sống và cai trị dân như vua chúa trần gian và còn hơn vua chúa trần gian này, thì Salomon nói rằng: con không xin của cải, tiền nong, vàng bạc châu báu, con không xin vinh quyền, không xin sức mạnh, nhưng xin Chúa ban cho con ơn khôn ngoan để lãnh đạo Dân Chúa, và để làm gương cho các dân tộc khác nữa.
Ơn khôn ngoan là cái gì? Tại sao vua Salomon xin ơn khôn ngoan? Ta hiểu ơn khôn ngoan đời này thật kém cỏi: Khôn ngoan là mưu cơ, là lươn lẹo kiếm tìm cho mình những lợi ích riêng, khôn ngoan đá đáp người ngoài. Ở thế gian, đó là sự khôn lỏi, thánh Tôma không dạy chúng ta điều đó, khôn ngoan là không đá ai cả, biết cùng nhau đi tìm hạnh phúc. Khôn ngoan đúng nghĩa là biết nếm hưởng sự trên trời, biết nếm hưởng Thiên Chúa (theo gốc chữ Sapne - nếm hưởng): Thiên Chúa ngon ngọt, Thiên Chúa giàu sang, Thiên Chúa tốt lành vô cùng, ở đời sau suốt ngày ta nếm hưởng Thiên Chúa, nếm hưởng mọi sự tốt lành của Thiên Chúa. Cho nên, các tiến sỹ trong Giáo hội là những người nếm hưởng sự tốt lành của Thiên Chúa, biết khôn ngoan và dạy dỗ những sự khôn ngoan đấy mới là tiến sỹ đích thật. Chúng ta mừng lễ Thánh Tôma Aquino - tiến sỹ Thiên thần, vị tiến sỹ nếm hưởng sự khôn ngoan và dạy chúng ta ở đời này biết nếm hưởng sự khôn ngoan của Thiên Chúa: biết sống theo sự thật, sống theo lẽ phải, sống theo tất cả những tính năng đẹp đẽ của Thiên Chúa.
Hôm nay, các anh chị sinh viên nam nữ công giáo Thái bình, chúng ta hãy cầu xin Thánh Toma tiến sỹ dạy cho chúng ta bài học: hãy tìm sự khôn ngoan, hãy nếm sự khôn ngoan và dạy dỗ anh chị em chúng ta sự khôn ngoan, nghĩa là chúng ta phải tìm đến nguồn gốc mọi sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa và biết yêu mến Người.
Nếm hưởng sự khôn ngoan trên hết là chính Thiên Chúa, tìm Thiên Chúa trên hết, mặc dầu chúng ta học tập mọi sự ở đời này, có thể nhiều khoa học nhưng tất cả mọi khoa học đều phải dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, ta học tất cả mọi khoa học đời này mà ta đánh mất Thiên Chúa thì chúng ta không xứng là người Kitô hữu. Để nếm hưởng khôn ngoan đời này và đời sau là chính Thiên Chúa, thì chúng ta đem sự khôn ngoan, đem Tin mừng đến cho anh chị em, bạn học của chúng ta và tất cả mọi người, đấy là một vai trò rất quan trọng của các bạn sinh viên Thái Bình chúng ta. Vì thế, ngày đầu xuân các bạn sinh viên mừng lễ Thánh quan thầy của chúng ta, thì tôi cầu chúc cho tất cả anh chị em hãy đến với sự khôn ngoan chân thật là Đức Giêsu Kitô - là Con Thiên Chúa, nếm hưởng sự khôn ngoan ở đời này là chúng ta đã nếm hưởng mãi mãi sự không ngoan ở đời sau trên Nước trời, và chúng ta nếm hưởng sự khôn ngoan đời này là chính Thiên Chúa rồi chúng ta biết giới thiệu và đem Chúa cho những người khác nữa. Hãy đem sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa trao ban cho các anh chị em chúng ta, trong môi trường các bạn đang sống, đang học tập có như thế chúng ta mới xứng đáng là con cái của Thánh Tôma tiến sỹ, lúc đó các bạn trở nên như vị thánh nếm hưởng sự khôn ngoan và trao ban cho người khác. Xin chúc các bạn nam nữ sinh viên, và chúc tất cả mọi người được như vậy. Amen.
Thái Bình, ngày mồng 6 Tết Kỷ Sửu
Xin ơn chữa lành bệnh tật xác hồn
Lm Trần Bình Trọng
16:12 07/02/2009
Chúa Nhật 5 Thường Niên, Năm B (G 7:1-4, 6-7; 1Cr 9:16-19' 22-23; Mc 1:29-39)
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Ðạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Ðạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do thái): Ðời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Ðó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.
Ðó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Ðể đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Ðạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Ðạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do thái): Ðời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Ðó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.
Ðó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Ðể đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.
Bước chân Tông Đồ qua đôi gánh nước
LM. Giuse Trương Đình Hiền
16:39 07/02/2009
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN (B)
Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa ông bà và anh chị em,
Những ngày Tết rộn ràng đã trôi qua, và cái tưng bừng náo nhiệt đón Xuân cũng đã dần dần lắng dịu để nhường chỗ cho cuộc sống đời thường với lo toan vất vả, với tất bật ngược xuôi đang từ từ đi tới. Sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật hôm nay muốn chúng ta hãy biến cuộc sống mỗi ngày, cho dù đơn điệu nhàm chán, cho dù vất vả nhọc mệt, cho dù ẩn khuất nghèo hèn…luôn trở thành “Lời loan báo Tin Vui”, luôn trở nên “Sứ điệp của niềm hy vọng”. Đó chính là cuộc sống của chính Chúa Kitô, của các vị Tông Đồ và của những ai đã hơn một lần được Ngài chinh phục và gọi mời tiếp bước trong cuộc hành trình loan báo Tin Mừng. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Từ một ngày bận rộn của Chúa Giêsu:
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một “chương trình dày đặt” trong một ngày làm việc của Chúa: Ngài rao giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (35); các tông đồ đến tâu trình lên Chúa những người đến gặp Chúa (36); Ngài lại ra đi rao giảng và trừ quỷ (39)…
Cũng trong ý nghĩa đó, gần gũi hơn, Tin Mừng hôm nay còn giới thiệu cho chúng ta nhân vật khác; bà Nhạc vợ của Tông Đồ Phêrô: Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể Phêrô như thế nào, nhưng sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”.(1Pr 4,10-11).
Như thế, chúng ta có thể nhận ra dụng ý của sứ điệp Lời Chúa hôm nay đó chính là: hãy biến cuộc đời thành khí cụ phục vụ và loan báo Tin Mừng; hãy nhiệt tâm làm việc thiện để cọng tác với Thiên Chúa mà đẩy lùi sự dữ và tội lỗi. Chúng ta không cần phải quá lý tưởng để luôn do dự và cũng chẳng có lý do gì quá thận trọng để lần lữa đợi chờ. Thế giới đang biến đổi từng giây phút. Tin Mừng của Chúa Kitô cũng phải được “dậy men” trong mọi nẻo đời thường và mọi phút giây của cuộc sống.
Trong nhịp sống của Hội Thánh suốt 2000 năm nay, đã không thiếu những mẫu gương Tông Đồ hưởng ứng lời mời gọi của Đức Kitô, dấn thân phục vụ trên muôn nẻo đường nhân loại để Tin Mừng của Chúa thấm sâu vào mãnh đất tâm hồn của bao ức triệu con người.
Trong những giai thoại, chuyện kể về gương tông đồ của các linh mục Việt nam trong thời bách hại, có câu chuyện “linh mục gánh nước thuê” thường được giáo dân truyền tụng:
Vào thời vua Tự Đức cấm đạo gắt gao, có một linh mục tên “cụ Thanh” cải trang đi gánh nước thuê tại chợ Đông Ba, kinh đô Huế. Ban ngày lam lủ tất bật tối về phố Gia Hội ngụ nơi nhà bà Tham. Nhờ gánh nước thuê mà cụ Thanh tiếp xúc được với nhiều giáo dân, trao ban các bí tích, nhất là bí tích giải tội cho các phạm nhân trong tù và những anh chị em Kitô hữu sắp ra pháp trường để lãnh triều thiên tử đạo.
Khi linh mục Đặng Đức Tuấn, gốc địa sở Gia Hựu thuộc tỉnh Bình Định, bị bắt đưa về kinh đô Huế để xử, có được một thời gian tại ngoại thong dong để viết điều trần. Trong những ngày tháng ấy, cha Tuấn hay ghé lại thăm nhà bà Tham và được một người đầy tớ hầu hạ cơm nước tử tế. Sau nhiều lần gặp mặt, cha Tuấn linh cảm người đầy tớ nầy có nét thân quen, nên một hôm đã thẵng thừng hỏi: “Phải mầy không Thanh”. Người đầy tớ ấy đã trả lời: “Thưa phải”. Cha Tuấn sững sờ reo lên: “Trời đất ! Vậy mà bao nhiêu tháng nay tao nhìn không ra”. Nói đoạn, hai người ôm nhau niềm vui dâng lên trong nước mắt chan hòa… Thì ra đây là hai linh mục cùng học một thời tại chủng viện Penang (Malaysia), sau bao năm xa cách giờ mới gặp lại nhau !...
Rồi Cụ Thanh lại tiếp tục nghề gánh nước thuê…Cho đến một ngày, triều đình ban bố sắc lệnh tha đạo, Đức Cha Bình (Sohier) ra mắt công khai và chọn ngày cử hành lễ tạ ơn trọng thể tại Kim Long, nơi đặt Tòa Giám Mục. Đông đảo giáo dân tụ hội. Có cả quan viên trong triều đình và bà con bên lương vùng kinh đô cũng đến quan chiêm. Chính trong thánh lễ trọng thể ấy, vị chủ tế không phải là Đức Giám Mục Sohier mà lại là…”cụ Thanh gánh nước”. Giáo dân ngỡ ngàng, người lương ngạc nhiên trong tiếng trầm trồ khen ngợi: “Ngỡ là ai, hóa ra cụ Thanh gánh nước thuê ở chợ Đông Ba. Không ngờ ông ta giữ chức vụ to đến thế. Ông ta ca Latinh thật hay, mà cả ông Tây cũng phải quỳ chầu nữa…” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 116-117)
Đời sống chứng nhân qua đôi gánh nước của cha Thanh phải chăng là một chứng từ rõ nét và hiệu quả của cuộc sống Tông Đồ thời bách hại; nhưng cũng là mẫu gương và lời gọi mời rõ nét để tất cả chúng ta tìm được những phương pháp tông đồ thích hợp cho thời đại mình, môi trường sống của mình, dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Linh.
2. Để lo việc Chúa phải biến đổi chính mình:
Tuy nhiên, để có được cảm nhận và rồi hành động tích cực trong công tác gieo trồng hy vọng và loan báo Tin Vui, điều cần thiết đầu tiên là “hãy biến đổi chính mình”, hay như cách nói của Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận trong taqcs phẩm Đường hy Vọng:
Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông Đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên mặt, Chúa Kitô trong miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai…Tóm tắt là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho người khác Chúa Kitô.(ĐHV 292).
Và để áp dụng cụ thể vào chiều kích nhân bản của việc dấn thân cho công tác Tông Đồ, Đức cố Hồng Y lại khuyên:
Đừng nói nhiều mà làm ít.
Đừng hoạt động dài mà cầu nguyện ngắn.
Đừng nhận rộng rãi mà cho hẹp hòi.
Đừng khoan dung cho mình mà khắt khe với người khác. (ĐHV 304)
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, chúng ta có thể đọc lại cảm nghiệm của một nhà hiền triết về lời cầu nguyện qua các giai đoạn cuộc đời:
Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế gian này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: “Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những con người tiếp xúc hằng ngày thôi”. Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình qúa cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con”. Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích” (Trích “Mỗi ngày một niềm vui”).
3. Đôi chân Tông đồ với con tim thinh lặng:
Lời Chúa đòi hỏi là như thế, Chúa Giêsu làm gương và gọi mời như thế, nhưng thực tế đời thường không luôn dễ dàng thực hiện. Quả thật, cuộc đời của mỗi chúng ta, không sớm thì muộn, không ít thì nhiều đều phải trãi qua những đêm dài tăm tối, chán nản, buồn tênh…mà có lẽ tâm sự của ông thánh Gióp trong những tháng ngày bị Chúa thử thách đã nói lên tất cả như trong bài đọc 1 hôm nay:
…Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (BĐ 1).
Cho dù đời thường có phải trãi qua những đêm tối như thế, những ngày buồn như thế, thì Lời Chúa lại không cho phép chúng ta đầu hàng, bỏ cuộc hay tìm cách bám trụ để tìm một nơi trú ẩn an toàn. Đức Kitô cho dù biết trước con đường lên Giêrusalem sẽ dẫn tới đau thương và khổ nạn, nhưng Ngài vẫn hiên ngang mạnh mẽ dẫn đầu các Tông đồ ra đi và tiến lên phía trước…cho đến khi uống cạn chén đắng. Cho dù Ngài có thể ở lại đâu đó trong thành Caphanaum để được dân chúng tung hô và tự hào với những thành quả rao giảng và làm phép lạ chữa lành cho vô số bệnh nhân…thì Ngài lại vẫn cứ thanh thản ra đi đến với các con chiên lạc, với những thành, những làng chưa nghe đến Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
Tổng thống De Gasperi của Cộng hòa Italia từ năm 1945-1954, một nhân vật chính trị lừng danh của Âu Châu sau thời đệ nhị thế chiến, đã lèo lái công cuộc phục hưng quốc gia Italia sau những hoang tàn đổ nát của chiến tranh. Lúc ông mất (1954), người ta khám phá ra trong phòng ông có hai rương đầy ắp giấy tờ. Kiểm tra kỹ, thì toàn là những bài nguyện gẫm mỗi ngày do chính tay ông ta viết ra từ năm nầy qua năm nọ…Ai nấy đều ngạc nhiên và thán phục quý mến một nhà chính trị khéo léo nhưng đồng thời là một tông đồ thánh thiện, hy sinh cả cuộc đời cho dân cho nước. Vừa tận tụy với với công việc đời thường vẫn không bỏ qua những phút giây sống nội tâm nguyện cầu. (Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 114)
Vâng, cuộc sống của những người Kitô hữu hôm nay, những tông đồ của thời đại mới, phải là những bước chân ra đi, phải là những cuộc lên đường dấn thân cho sứ vụ tông đồ và truyền giáo đầy mạnh mẽ nhiệt tình như lời tuyên bố quyết liệt của thánh Phaolô trong thư Côrintô trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. (BĐ 2). Nhưng để có những “đôi chân Tông Đồ” như thế, thì trước tiên luôn phải có những tâm hồn thinh lặng, nguyện cầu như ước nguyện của Mẹ Á Thánh Têrêsa Cacutta, Vị Tông đồ vĩ đại của thế kỷ 20:
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
Trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
Biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
Biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
Để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
Để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng trong miệng lưỡi,
Để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
Tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
Để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng, xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
Để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
Để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen
Và đó cũng chính là những lời nguyện chúng ta dành cho nhau và cho chính mình trong thánh lễ hôm nay.
Bước chân Tông Đồ qua đôi gánh nước
Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa ông bà và anh chị em,
Những ngày Tết rộn ràng đã trôi qua, và cái tưng bừng náo nhiệt đón Xuân cũng đã dần dần lắng dịu để nhường chỗ cho cuộc sống đời thường với lo toan vất vả, với tất bật ngược xuôi đang từ từ đi tới. Sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật hôm nay muốn chúng ta hãy biến cuộc sống mỗi ngày, cho dù đơn điệu nhàm chán, cho dù vất vả nhọc mệt, cho dù ẩn khuất nghèo hèn…luôn trở thành “Lời loan báo Tin Vui”, luôn trở nên “Sứ điệp của niềm hy vọng”. Đó chính là cuộc sống của chính Chúa Kitô, của các vị Tông Đồ và của những ai đã hơn một lần được Ngài chinh phục và gọi mời tiếp bước trong cuộc hành trình loan báo Tin Mừng. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Từ một ngày bận rộn của Chúa Giêsu:
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một “chương trình dày đặt” trong một ngày làm việc của Chúa: Ngài rao giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (35); các tông đồ đến tâu trình lên Chúa những người đến gặp Chúa (36); Ngài lại ra đi rao giảng và trừ quỷ (39)…
Cũng trong ý nghĩa đó, gần gũi hơn, Tin Mừng hôm nay còn giới thiệu cho chúng ta nhân vật khác; bà Nhạc vợ của Tông Đồ Phêrô: Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể Phêrô như thế nào, nhưng sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”.(1Pr 4,10-11).
Như thế, chúng ta có thể nhận ra dụng ý của sứ điệp Lời Chúa hôm nay đó chính là: hãy biến cuộc đời thành khí cụ phục vụ và loan báo Tin Mừng; hãy nhiệt tâm làm việc thiện để cọng tác với Thiên Chúa mà đẩy lùi sự dữ và tội lỗi. Chúng ta không cần phải quá lý tưởng để luôn do dự và cũng chẳng có lý do gì quá thận trọng để lần lữa đợi chờ. Thế giới đang biến đổi từng giây phút. Tin Mừng của Chúa Kitô cũng phải được “dậy men” trong mọi nẻo đời thường và mọi phút giây của cuộc sống.
Trong nhịp sống của Hội Thánh suốt 2000 năm nay, đã không thiếu những mẫu gương Tông Đồ hưởng ứng lời mời gọi của Đức Kitô, dấn thân phục vụ trên muôn nẻo đường nhân loại để Tin Mừng của Chúa thấm sâu vào mãnh đất tâm hồn của bao ức triệu con người.
Trong những giai thoại, chuyện kể về gương tông đồ của các linh mục Việt nam trong thời bách hại, có câu chuyện “linh mục gánh nước thuê” thường được giáo dân truyền tụng:
Vào thời vua Tự Đức cấm đạo gắt gao, có một linh mục tên “cụ Thanh” cải trang đi gánh nước thuê tại chợ Đông Ba, kinh đô Huế. Ban ngày lam lủ tất bật tối về phố Gia Hội ngụ nơi nhà bà Tham. Nhờ gánh nước thuê mà cụ Thanh tiếp xúc được với nhiều giáo dân, trao ban các bí tích, nhất là bí tích giải tội cho các phạm nhân trong tù và những anh chị em Kitô hữu sắp ra pháp trường để lãnh triều thiên tử đạo.
Khi linh mục Đặng Đức Tuấn, gốc địa sở Gia Hựu thuộc tỉnh Bình Định, bị bắt đưa về kinh đô Huế để xử, có được một thời gian tại ngoại thong dong để viết điều trần. Trong những ngày tháng ấy, cha Tuấn hay ghé lại thăm nhà bà Tham và được một người đầy tớ hầu hạ cơm nước tử tế. Sau nhiều lần gặp mặt, cha Tuấn linh cảm người đầy tớ nầy có nét thân quen, nên một hôm đã thẵng thừng hỏi: “Phải mầy không Thanh”. Người đầy tớ ấy đã trả lời: “Thưa phải”. Cha Tuấn sững sờ reo lên: “Trời đất ! Vậy mà bao nhiêu tháng nay tao nhìn không ra”. Nói đoạn, hai người ôm nhau niềm vui dâng lên trong nước mắt chan hòa… Thì ra đây là hai linh mục cùng học một thời tại chủng viện Penang (Malaysia), sau bao năm xa cách giờ mới gặp lại nhau !...
Rồi Cụ Thanh lại tiếp tục nghề gánh nước thuê…Cho đến một ngày, triều đình ban bố sắc lệnh tha đạo, Đức Cha Bình (Sohier) ra mắt công khai và chọn ngày cử hành lễ tạ ơn trọng thể tại Kim Long, nơi đặt Tòa Giám Mục. Đông đảo giáo dân tụ hội. Có cả quan viên trong triều đình và bà con bên lương vùng kinh đô cũng đến quan chiêm. Chính trong thánh lễ trọng thể ấy, vị chủ tế không phải là Đức Giám Mục Sohier mà lại là…”cụ Thanh gánh nước”. Giáo dân ngỡ ngàng, người lương ngạc nhiên trong tiếng trầm trồ khen ngợi: “Ngỡ là ai, hóa ra cụ Thanh gánh nước thuê ở chợ Đông Ba. Không ngờ ông ta giữ chức vụ to đến thế. Ông ta ca Latinh thật hay, mà cả ông Tây cũng phải quỳ chầu nữa…” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 116-117)
Đời sống chứng nhân qua đôi gánh nước của cha Thanh phải chăng là một chứng từ rõ nét và hiệu quả của cuộc sống Tông Đồ thời bách hại; nhưng cũng là mẫu gương và lời gọi mời rõ nét để tất cả chúng ta tìm được những phương pháp tông đồ thích hợp cho thời đại mình, môi trường sống của mình, dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Linh.
2. Để lo việc Chúa phải biến đổi chính mình:
Tuy nhiên, để có được cảm nhận và rồi hành động tích cực trong công tác gieo trồng hy vọng và loan báo Tin Vui, điều cần thiết đầu tiên là “hãy biến đổi chính mình”, hay như cách nói của Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận trong taqcs phẩm Đường hy Vọng:
Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông Đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên mặt, Chúa Kitô trong miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai…Tóm tắt là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho người khác Chúa Kitô.(ĐHV 292).
Và để áp dụng cụ thể vào chiều kích nhân bản của việc dấn thân cho công tác Tông Đồ, Đức cố Hồng Y lại khuyên:
Đừng nói nhiều mà làm ít.
Đừng hoạt động dài mà cầu nguyện ngắn.
Đừng nhận rộng rãi mà cho hẹp hòi.
Đừng khoan dung cho mình mà khắt khe với người khác. (ĐHV 304)
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, chúng ta có thể đọc lại cảm nghiệm của một nhà hiền triết về lời cầu nguyện qua các giai đoạn cuộc đời:
Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế gian này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: “Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những con người tiếp xúc hằng ngày thôi”. Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình qúa cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con”. Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích” (Trích “Mỗi ngày một niềm vui”).
3. Đôi chân Tông đồ với con tim thinh lặng:
Lời Chúa đòi hỏi là như thế, Chúa Giêsu làm gương và gọi mời như thế, nhưng thực tế đời thường không luôn dễ dàng thực hiện. Quả thật, cuộc đời của mỗi chúng ta, không sớm thì muộn, không ít thì nhiều đều phải trãi qua những đêm dài tăm tối, chán nản, buồn tênh…mà có lẽ tâm sự của ông thánh Gióp trong những tháng ngày bị Chúa thử thách đã nói lên tất cả như trong bài đọc 1 hôm nay:
…Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (BĐ 1).
Cho dù đời thường có phải trãi qua những đêm tối như thế, những ngày buồn như thế, thì Lời Chúa lại không cho phép chúng ta đầu hàng, bỏ cuộc hay tìm cách bám trụ để tìm một nơi trú ẩn an toàn. Đức Kitô cho dù biết trước con đường lên Giêrusalem sẽ dẫn tới đau thương và khổ nạn, nhưng Ngài vẫn hiên ngang mạnh mẽ dẫn đầu các Tông đồ ra đi và tiến lên phía trước…cho đến khi uống cạn chén đắng. Cho dù Ngài có thể ở lại đâu đó trong thành Caphanaum để được dân chúng tung hô và tự hào với những thành quả rao giảng và làm phép lạ chữa lành cho vô số bệnh nhân…thì Ngài lại vẫn cứ thanh thản ra đi đến với các con chiên lạc, với những thành, những làng chưa nghe đến Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
Tổng thống De Gasperi của Cộng hòa Italia từ năm 1945-1954, một nhân vật chính trị lừng danh của Âu Châu sau thời đệ nhị thế chiến, đã lèo lái công cuộc phục hưng quốc gia Italia sau những hoang tàn đổ nát của chiến tranh. Lúc ông mất (1954), người ta khám phá ra trong phòng ông có hai rương đầy ắp giấy tờ. Kiểm tra kỹ, thì toàn là những bài nguyện gẫm mỗi ngày do chính tay ông ta viết ra từ năm nầy qua năm nọ…Ai nấy đều ngạc nhiên và thán phục quý mến một nhà chính trị khéo léo nhưng đồng thời là một tông đồ thánh thiện, hy sinh cả cuộc đời cho dân cho nước. Vừa tận tụy với với công việc đời thường vẫn không bỏ qua những phút giây sống nội tâm nguyện cầu. (Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 114)
Vâng, cuộc sống của những người Kitô hữu hôm nay, những tông đồ của thời đại mới, phải là những bước chân ra đi, phải là những cuộc lên đường dấn thân cho sứ vụ tông đồ và truyền giáo đầy mạnh mẽ nhiệt tình như lời tuyên bố quyết liệt của thánh Phaolô trong thư Côrintô trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. (BĐ 2). Nhưng để có những “đôi chân Tông Đồ” như thế, thì trước tiên luôn phải có những tâm hồn thinh lặng, nguyện cầu như ước nguyện của Mẹ Á Thánh Têrêsa Cacutta, Vị Tông đồ vĩ đại của thế kỷ 20:
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
Trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
Biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
Biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
Để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
Để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng trong miệng lưỡi,
Để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
Tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
Để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng, xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
Để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
Để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen
Và đó cũng chính là những lời nguyện chúng ta dành cho nhau và cho chính mình trong thánh lễ hôm nay.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Hoa Kỳ phản đối thuế vụ để tài trợ cho việc phá thai
Bùi Hữu Thư
02:13 07/02/2009
Các Giám Mục Hoa Kỳ phản đối thuế vụ để tài trợ cho việc phá thai
Yêu cầu Quốc Hội duy trì luật bảo vệ sự sống hiện hành
Hoa Thịnh Đốn ngày 6, tháng 2, 2009 (Zenit.org).- Hoa Kỳ có một vài chính sách “tương đối và hợp lý” được cả nhóm ủng hộ sự sống lẫn bênh vực quyền phá thai yểm trợ, và một giới chức của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đang yêu cầu Quốc Hội bảo vệ.
Lời kêu gọi này được gửi đi trong một lá thư do Đức Hồng Y Justin Rigali, chủ tịch Uỷ Ban các Hoạt Động Bảo Vệ Đời Sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, viết ngày 5 tháng 2, 2009.
Đức Hồng Y Justin Rigali |
Ngài ghi nhận rằng một trong các tiết mục đầu tiên được Quốc Hội đem ra thảo luận trong khóa họp này là duyệt xét các đạo luật để tiếp tục tài trợ cho các chương trình của chính phủ Liên Bang, và trong thể thức này, Đức Hồng Y lưu ý không nên huỷ bỏ các điều luật chống phá thai.
Ghi nhận việc thiếu yểm trợ rộng rãi cho Đạo Luật Tự Do Lựa Chọn (Freedom of Choice Act), ngài lưu ý: "Trong khi một đề nghị quá khích như FOCA có thể hủy bỏ ngay lập tức hàng trăm các đạo luật phò đời sống, chúng tôi cũng quan tâm đến sự kiện các đạo luật này có thể bị loại bỏ từ từ trong thể thức phân phối ngân khoản của Quốc Hội."
Đức Hồng Y tiếp: "Các nhà lập pháp không đồng ý về tình trạng pháp lý của việc phá thai từ lâu đã thỏa thuận rằng người dân Hoa Kỳ sẽ không bị chính phủ ép buộc yểm trợ hay tham gia vào việc phá thai nghịch với ý muốn của họ. Các nỗ lực áp chế lương tâm kiểu này vi phạm bất cứ định nghiã nào về ‘phò đời sống,’ và có hại cho truyền thống lâu đời của quốc gia này là tôn trọng lương tâm cá nhân và quyền tự do tôn giáo."
Hợp lý
Đức Hồng Y Rigali cũng liệt kê một danh sách rất nhiều tu chính để bảo vệ, và các đạo luật, từ ngăn không cho tiền thuế vụ Hoa Kỳ được dùng để tài trợ cho các vụ phá thai cho đến việc bảo vệ quyền hành xử lương tâm của các giới chức lo về y tế.
Đức Hồng Y khẳng định, "Các đạo luật này và các đạo luật tương tự đã được lưu hành từ nhiều năm qua, dù bất kể đảng nào đang kiểm xoát Quốc Hội hay Tòa Bạch Ốc, vì chúng là những chính sách tương đối và hợp lý đã được rất nhiều người yểm trợ, kể cả những kẻ bất đồng ý kiến về tình trạng pháp lý của việc phá thai. Trong một xã hội thường có vẻ bị chia rẽ giữa các giá trị của việc ‘cho phép lựa chọn’ và ‘phò đời sống’, người ta rất dễ thoả thuận rằng chúng ta phải tôn trọng lương tâm của các phụ nữ có thai và lương tâm của các giới chức y tế muốn lựa chọn đời sống.
Tôn Giáo Thời Liên Mạng
Vũ Văn An
04:05 07/02/2009
Tôn Giáo Thời Liên Mạng
Dịp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới bàn về Lời Chúa vừa qua, đã có lời đề nghị Đức Bênêđíctô XVI nên thiết lập một “tư trang” (blog) để giao tiếp trên mạng. Điều ấy cho thấy Liên mạng được coi là quan trọng như thế nào trong việc phúc âm hóa xã hội ngày nay. Và điều ấy càng đúng khi Đức Đương Kim Giáo Hoàng thực hiện lời đề nghị ấy.
Theo thông tấn xã ANSA của Ý ngày 28 tháng Mười năm 2008, điều cũng đáng ghi nhận là ngay sau khi đề nghị trên được nêu ra, Đức Tổng Giám Mục của Naples là Đức HY Crescenzio Sepe đã thiết lập một “hồ sơ chân tướng” (profile) trên hệ thống liên mạng xã hội Facebook. Đức Hồng Y cho hay: “Mỗi ngày tôi có thêm 200 bạn mới. Bạn phải tới chỗ người ta năng lui tới. Nên nếu người ta năng lui tới Facebook, thì bạn phải năng tới đó”.
Lời nhận định của Đức Hồng Y Sepe về nhu cầu cần phải tới nơi người trẻ năng lui tới được các dữ kiện của một cuộc thăm dò tại Mỹ hỗ trợ mạnh mẽ. Cuộc thăm dò này cho thấy trong nhóm người trẻ sinh sau 1984, chỉ vào khoảng 33% chịu đi nhà thờ vào một ngày cuối tuần nào đó. Cuộc thăm dò này được Nhóm Nghiên Cứu Barna thực hiện năm 2006, và được tờ New York Times trích dẫn trong một bài báo đăng ngày 26 tháng Mười vừa qua. Bài bào này xem sét cách các giáo hội sử dụng các kỹ thuật truyền thông ra sao để lôi cuốn giới trẻ. So sánh ra, khoảng 49% thế hệ “bùng nổ con nít” (babyboomer) chịu đi nhà thờ vào những ngày cuối tuần. Tờ báo này gợi ý rằng nhiều vị giảng thuyết đã đưa các nguồn truyền thông đa chiều vào thừa tác vụ hay vào việc giảng thuyết của mình, như trích đoạn phim, các bản nhạc hiện đại hay cách dùng lối trình bầy “powerpoint”.
Hệ Thống Kết Liên Trên Mạng
Các giáo hội cũng đã và đang tạo ra các hồ sơ chân tướng trên các trang mạng liên kết xã hội như Facebook hay MySpace, cũng như trên các trang mạng liên kết của Kitô Giáo. Hiện nay, nhiều giáo hội cũng đang có những trang mạng riêng trên hệ thống liên mạng (internet) với nhiều trích đoạn video, podcast (truyền thanh truyền hình liên mạng) hay tư trang. Một trong các giáo hội ấy đã được khảo sát trong một bài báo ngày 9 tháng Tư năm 2008 đăng trên tờ USA Today. Mục sư Bruce Walker giảng thuyết cho một cộng đoàn không tới 100 tín hữu tại Greenville, Nam Carolina, nhưng người ta có thể nghe và xem được các bài giảng của ông qua hệ thống truyền thanh truyền hình liên mạng phát đi khắp thế giới.
Cũng theo bài báo trên, một cuộc thăm dò vào năm ngoái của cơ sở Pew Internet & American Life Project đã khám ra rằng con số những người sử dụng liên mạng để tìm tòi các tín liệu về tôn giáo và linh đạo nhiều hơn là con số những người truy cập âm nhạc, dự đấu giá hay coi các trang mạng dành cho người lớn. Mục sư Walker đã đăng tải các bài giảng của ông trên một trang mạng có tên là SermonAudio.com. Theo tờ USA Today, hơn một triệu lượt người đã vào trang mạng ấy mỗi tháng.
Người ta không chỉ chuyển tải các bài giảng lên liên mạng. Bên Ái Nhĩ Lan, một trong các quốc gia làm tuần cửu nhật nhiều nhất trên thế giới, do các cha Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức hàng năm tại tu viện Đồi Thánh Anphong tại Limerick, năm nay, lần đầu tiên, người ta đã trực tiếp ‘truyền hình’ các tuần cửu nhật đó trên liên mạng. Theo tường trình ngày 12 tháng Sáu vừa qua của CatholicIreland.net, trang mạng www.novena.ie đã giúp người ta trực tiếp coi các biến cố kia suốt 24 giờ một ngày qua ‘Ống kính liên mạng’ (Webcam).
Năm ngoái, một sáng kiến tương tự dành cho tuần cửu nhật tại một nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế khác, tức tu viện Clonard ở Belfast, đã ghi nhận được 50,000 luợt người vào thăm. Năm nay, theo CatholicIreland.net, một cộng đoàn Ái Nhĩ Lan khác là Nhà Thờ Thánh Augustinô ở Cork cũng bắt đầu truyền hình một tuần cửu nhật.
Video trên liên mạng
Cũng năm ngoái, nhà thờ trên, tức trung tâm của cộng đồng Ba Lan tại Cork, bắt đầu cho tải lên mạng các thánh lễ và các nghi lễ khác. Cha Pat Moran cho hay: “Tôi nghe nói có bà kia ở Ba Lan, hết sức vui mừng thấy chồng mình dự thánh lễ 10 giờ hôm Giáng Sinh và tiến lên rước lễ… Từ lúc chương trình này bắt đầu, đã có tới 18,000 lượt người từ khắp 32 quốc gia vào thăm”.
Các trích đoạn video là phương cách bình dân để truyền thông trên liên mạng. Nhờ thế, GodTube, tương tự như YouTube, đã nhận được nhiều đầu tư trong năm nay. Theo tờ The Guardian ngày 13 tháng Năm, một qũy có trụ sở tại Luân Đôn tên là GLG Partners tuyên bố rằng họ đang đầu tư gần 30 triệu đôla vào Godtube.
Vào lúc bài báo này được đăng tải, từ ngày được phát động vào hồi tháng Tám năm ngoái, GodTube đã chuyển tải hơn 100,000 video lên mạng, tất cả đều có hơi hướng với chủ đề tôn giáo. Khoảng 40 công nhân được sử dụng để duyệt xét các video trước khi chuyển tải chúng. Godtube cũng cho chuyển tải các bài giảng trực tiếp, lại có cả các “bức tường cầu nguyện” để người sử dụng có thể ghi các lời cầu xin của họ lên đó.
Gửi các lời cầu nguyện lên mạng là một việc khá phổ thông, và theo tờ Sydney Morning Herald ngày 20 tháng Tư, vào đầu năm 2008, cơ sở Bill Tikos ở Sydney đã thiết lập một gia trang để người ta dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa. Trong tuần lễ đầu kể từ ngày phát động, Dear-god.net đã nhận được 63,000 lượt người vào thăm và hàng trăm lời bình luận về các lời cầu nguyện của người ta.
Phúc âm hóa
Các khả thể dùng liên mạng làm phương tiện phúc âm hóa đã được khảo sát trong một bài đăng ngày 21 tháng Sáu vừa qua trên gia trang InsideCatholic.com.
Jennifer Fulwiler diễn tả việc cô từ vô thần trở lại đạo Công Giáo và biện luận rằng liên mạng quả có giúp người ta khám phá ra chân lý tôn giáo dễ dàng hơn bất cứ phương tiện nào khác. Việc cô trở lại là do kết quả tò mò đi tìm tòi trên mạng để lấy tín liệu về một số vấn nạn triết học. Chính việc tìm hiểu qua lại ấy trên mạng đã khiến niềm tin vô thần của cô bắt đầu lung lay. Chính các lời bình luận về các chất liệu đăng tải và các cuộc tranh luận trên mạng đã mở cho cô thấy quan điểm của Kitô Giáo: “Trước đây tôi vẫn nghĩ tôi có nhiều vấn nạn hay dành cho người Kitô hữu, và quả tôi có những vấn nạn ấy thật. Nhưng kết cục, các vấn nạn ấy lại trở thành các vấn nạn hay cho chính tôi nữa”. Tính cởi mở và thời gian trả lời nhanh ở trên mạng cũng là những đặc điểm được Cô cho là có lợi cho tôn giáo. “Quyền lực của giai cấp ưu tú trong việc kiểm soát tín liệu đã qua hẳn rồi. Điều ấy có nghĩa: càng ngày càng có nhiều ý tưởng, câu hỏi, và câu trả lời nhanh hơn được gọt dũa theo từng quan tâm của mỗi con người”
Các nguy hiểm và cơ may
Tuy nhiên, liên mạng là sự hỗn hợp của cơ may và nguy hiểm. Điều này đã được nhìn nhận trong một thư luân lưu của các vị giám mục Công Giáo Úc Đại Lợi, công bố ngày 27 tháng Tư năm 2008, về An Toàn Liên Mạng, kèm theo một video chuyển tải lên YouTube.
Bức thư này chủ yếu nói với các bậc cha mẹ, ông bà và thầy cô bên trong Cộng Đồng Giáo Hội, còn cuốn video trên YouTube thì trực tiếp nói với giới trẻ về sự an toàn trên mạng.
Bức thư cho rằng: nhờ liên mạng, sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô đã được chuyên chở tới con người khắp nơi trên thế giới trong các phương cách mà các vị rao giảng phúc âm tiên khởi chưa bao giờ dám mơ ước tới. Tuy nhiên, bản văn cũng cảnh giới rằng chúng ta cần phân biệt rõ điều mình đọc và gặp trên mạng.
Dựa vào một số trích đoạn của Đức Gioan Phaolô II và của Đức Bênêđíctô XVI, bức thư này nhận định rằng Giáo Hội tích cực coi liên mạng là cơ may rất tốt cho việc phúc âm hóa. Tuy nhiên, bên cạnh việc cung cấp cho ta rất nhiều tín liệu quý giá, nó cũng có thể xem thường nhiều giá trị và hạ thấp nhân phẩm con người. Cũng cần phải bảo vệ trẻ em và các gia đình chống lại các nội dung nguy hiểm và có tính phá hoại.
Đối với các vị giám mục này, “Trong tư cách Kitô Hữu, ta được mời gọi chia sẻ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô với mọi người… Ta hãy dùng liên mạng bằng đức tin, niềm hứng khởi và sự khôn ngoan, khi sống ơn gọi chung của chúng ta trong thời đại liên mạng”.
Niềm hứng khởi đối với liên mạng cũng đã được Vatican chia sẻ. Hồi tháng Chín, Đức Tổng Giám Mục Claudio Celli, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, công bố rằng chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội năm 2009 sẽ là “Các Kỹ Thuật Mới, Các Liên Hệ Mới. Cổ vũ một Nền Văn Hóa biết Tôn Trọng, Đối Thoại và Thân Hữu”. Ngài giải thích: “Tiến bộ về phương tiện không phải đơn giản bao hàm bước tiến về phía trước, nhưng luôn mang theo các điều kiện và khả thể mà nhân loại có thể sử dụng và đầu tư cho ích chung và biến chúng thành căn bản cho việc phát triển văn hóa cách đầy đủ và rộng khắp”.
Đức Tổng Giám Mục Celli cũng công bố rằng một cuộc hội họp của các giám mục đã được dự trù tổ chức vào tháng Ba năm 2009 để qui tụ tất cả các vị giáo phẩm hiện đang phụ trách ngành truyền thông và các chuyên viên truyền thông.
Ngày đầu trên YouTube
Toà thánh phát động một kênh trên YouTube vào ngày 23 tháng 1 năm 2009 tại địa chỉ
www.youtube.com/vatican. Theo Cha Lombardi, Đức Thánh Cha là người đầu tiên ủng hộ sáng kiến này. Dự án đã được chuẩn bị hơn một năm rưỡi kể từ lúc Trung Tâm Truyền Thanh và Truyền Hình Vatican bắt đầu công bố các trích đoạn video trên các trang mạng của mình để cho các đài truyền hình và các trang mạng sử dụng.
Theo cha, khắp nơi trên thế giới, có những người chú tâm tới các sứ điệp và các đề nghị của một thẩm quyền cao về luân lý, như Đức Giáo Hoàng và nói chung Giáo Hội Công Giáo chẳng hạn, liên quan tới các vấn đề lớn lao của thời đại. Đó chính là lý do khiến ta chọn YouTube làm một cái bục thích đáng để hiện diện trên Mạng, trong một đồi Areopagus vĩ đại [nơi Thánh Phaolô giảng Đạo tại Athens] của ngành truyền thông thế giới hiện nay, và hiện diện cách thường xuyên, đem lại một điểm quy chiếu đáng tin, và tiếp tục vượt qua những rời rạc đầy rẫy trong cách thông tin về Đức Giáo Hoàng và Tòa Thánh ở trên mạng, vuợt qua một cách nhẹ nhàng, không trịnh trọng.
Kênh này cũng giúp người ta khả năng gửi điện thư tới Tòa Thánh. Các điện thư này sẽ được văn phòng của Cha Lombardi tiếp nhận. Ngài cũng cho biết việc phát động kênh truyền thông này mới chỉ là bước đầu. Với sự cộng tác của Google, Toà Thánh còn dự trù nhiều khai triển và cải thiện khác cả về nội dung lẫn kỹ thuật.
Thời đại kỹ thuật số
Trong khi đó, ngày 23 tháng 1 năm 2009, trong một cuộc họp báo để công bố sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế Giới lần thứ 43 của Đức Bênêđíctô XVI, Đức Ông Paul Tighe, thư ký Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, cho hay: các kỹ thuật mới của thời đại kỹ thuật số không những tác động trên các phương tiện truyền thông mà chúng còn cách mạng hóa cách người ta chia sẻ tín liệu và tư tưởng, tạo nhóm và sở đắc nhận thức nữa.
Đức ông cho hay sứ điệp của Đức Thánh Cha chủ yếu đề cập tới “thế hệ kỹ thuật số”, nghĩa là những người sử dụng các kỹ thuật mới một cách “tự phát và hầu như theo trực giác” và bước vào thời đại máy vi tính, điện thoại di động, gửi lời nhắn tức khắc, mở trang mạng riêng, các bục video, các phòng tán gẫu liên mạng và các hệ lưới liên lạc xã hội.
Theo Đức Ông Tighe, các thay đổi trong thời đại kỹ thuật số không phải chỉ có tính kỹ thuật, chúng còn cách mạng hóa cả chính nền văn hóa truyền thông nữa. Chúng thay đổi các phương cách người ta truyền thông với nhau, các phương cách họ liên kết và thành lập các cộng đoàn, các phương cách họ học hỏi về thế giới, các phương cách họ tham gia các tổ chức chính trị và thương mãi.
Đức Ông cho hay: trong dĩ vãng, truyền thông là diễn trình một chiều, trong đó, truyền thông chuyển giao tín liệu cho một cử tọa thụ động. Ngày nay, ta có một cử tọa biết lọc lựa và tương tác trên nhiều lãnh vực của truyền thông. “Luận lý của truyền thông đã thay đổi một cách triệt để, tập chú vào truyền thông đã bị thay thế bởi tập chú vào cử tọa, một cử tọa ngày càng tự chủ và biện bác hơn trong việc tiêu thụ truyền thông”
Đức Ông nhấn mạnh rằng sứ điệp Ngày Truyền Thông của Đức Bênêđictô XVI cũng mời gọi những người có can dự với ngành truyền thông mới hãy quan tâm tới nội dung họ đang đưa ra, đang chia sẻ hay đang kéo chú ý của người khác. Sứ điệp ấy mời gọi họ tránh việc tạo ra và phân phối các ngôn từ hay hình ảnh có tính xúc phạm hay thiếu tôn kính đối với phẩm giá hay giá trị người khác. Đức Ông cũng lưu ý người sử dụng phải khôn ngoan trong những điều mình chuyển tải lên mạng, vì những điều này không dễ dàng xóa khỏi liên mạng và không ai muốn sống mà lúc nào cũng phải nhớ tới các thái quá của tuổi trẻ cũng như những ngôn từ thiếu suy nghĩ.
Theo Đức Ông, các kỹ thuật mới vốn nhằm mục đích giữ cho con người nối kết với nhau, nhưng trên thực tế đôi khi xâm phạm cả vào đời tư của họ. Và oái oăm hơn nữa, đôi lúc chúng được sử dụng để “cô lập hóa con người khỏi mọi hình thức tương tác có tính xã hội với gia đình, bè bạn và đồng nghiệp”.
Tuy nhiên, Đức Ông nói rằng sứ điệp của Đức Giáo Hoàng cũng chú ý tới khía cạnh tích cực: sứ điệp này nêu lên chủ đề bằng hữu, làm điểm giao tiếp giữa mọi con người có thiện chí. Nó ca ngợi khả năng của các kỹ thuật mới trong việc cổ vũ và hỗ trợ các mối liên hệ tốt đẹp và lành mạnh cũng như nhiều hình thức liên đới khác nhau. Nó nại tới tình bằng hữu, lấy nó làm động lực để đảm bảo rằng mọi người đều có thể tham dự vào thế giới mới của kỹ thuật số. Nó cho rằng trong tình bằng hữu, ta gặp được điểm quy chiếu chung với toàn thể nhân loại, một điểm quy chiếu làm cơ sở cho lời mời gọi hãy cổ vũ một nền văn hóa trong đó, mọi người đều được kính trọng và được mời gọi lên đường đi tìm sự thật qua đối thoại.
Thiên Chúa trong địa giới truyền thông
Cuối tuần trước, tổ chức Tân Phúc Âm Hóa Nước Mỹ đã tổ chức một cuộc hội nghị kéo dài từ Thứ Sáu qua Chúa Nhật tại Dallas. Nhân dịp này, Đức Tổng Giám Mục Claudio Celli, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội đã nói truyện trước hội nghị với đề tài “Vai Trò Của Truyền Thông Đại Chúng trong Việc Phúc Âm Hóa”. Theo ngài, Thiên Chúa có vai trò trong truyền thông, và Giáo Hội nên có tiếng nói trong việc phúc âm hóa các linh hồn bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.
Đức Tổng Giám Mục Celli đề cập tới bản chất tương quan lẫn nhau của Thiên Chúa Ba Ngôi, dùng làm căn bản thần học để hiểu được tầm quan trọng của truyền thông. Ngài nhấn mạnh rằng “truyền thông không phải chỉ là một sinh hoạt khác của Giáo Hội nhưng là chính yếu tính của cuộc sống Giáo Hội. Thông truyền tin mừng về tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người, như đã được phát biểu qua cuộc đời, cái chết và việc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là điều sẽ kết hợp và làm cho mọi khía cạnh khác trong sinh hoạt của Giáo Hội trở thành có nghĩa”.
Vị giáo phẩm này quả quyết rằng không có truyền thông, sẽ không có phúc âm hóa, và ta phải sử dụng ngành truyền thông đại chúng mới xuất hiện kia vào mục đích phúc âm hóa đó. Ngài nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc phải chuẩn bị cả về phương diện kỹ thuật lẫn phương diện văn hóa để đảm nhiệm trách vụ này.
Hai chía khóa
Theo Đức Tổng Giám Mục Celli, về ý thức văn hóa, ta thấy có hai chiều kích. Chiều kích đầu quan trọng ở chỗ: nhà truyền thông hay nhà rao giảng tin mừng phải nắm vững nền văn hóa phổ thông của cử tọa mình có ý định nói với: nắm vững điều họ lo lắng, quan tâm, điều họ lo sợ và hy vọng; chiều kích kia hệ ở việc nhà truyền thông phải rành rẽ các thách đố văn hóa đặc thù do môi trường tân truyền thông mang tới, trong đó các thay đổi có ý nghĩa về mẫu mực tiêu thụ truyền thông đã được các thay đổi về kỹ thuật đem lại.
Đối diện với ngữ cảnh văn hóa, ngài nhấn mạnh đến niềm hy vọng của mình, một niềm hy vọng từng đặt cơ sở trên sự kiện này là con người vốn được dựng nên theo hình ảnh và hoạ ảnh Thiên Chúa, dù điều đó có được thừa nhận hay không. Vì được dựng nên theo hình ảnh và hoạ ảnh Thiên Chúa, nên từ gốc rễ bản nhiên con người, ai trong chúng ta cũng muốn được yêu thương và yêu thương. Cái nhìn thông sáng ấy khiến ta tin tưởng tuyệt đối rằng cốt lõi sứ điệp của Phúc Âm sẽ tiếp tục được vang lên trong trái tim con người nhân bản.
Đức Tổng Giám Mục cho rằng: “Sứ mệnh của chúng ta là đem tin mừng về tình yêu vô tận của Thiên Chúa dành cho mọi người đến với anh chị em mình như một phục dịch vĩ đại nhất ta có thể làm được cho họ. Việc phúc âm hóa của ta không bao giờ nhằm gia tăng con số hay gia tăng ảnh hưởng nhưng luôn luôn quan tâm đến việc giải thoát con người khỏi tà thần là những thứ rất dễ và rất âm thầm xâm chiếm cuộc sống con người”.
Một thành phần của điệp khúc
Về cuộc cách mạng hiện đang diễn ra trong các kỹ thuật truyền thông, Đức TGM Celli nhấn mạnh đến việc ta phải để ý tới nền văn hóa đặc thù của truyền thông. Theo ngài, luận lý của truyền thông đã và đang thay đổi một cách triệt để. Cũng như Đức Ông Tighe trên đây, Đức TGM celli cho rằng: tập chú vào truyền thông đã bị tập chú vào cử tọa thay thế. Cử toạ này càng ngày càng tự chủ và biện bác hơn trong việc họ tiêu thụ truyền thông. Do đó, ngài khuyên ta phải nghiên cứu các mẫu mực mới trong việc sử dụng truyền thông, các hiệu quả đối với công chúng, và việc khai triển các hình thức đối thoại trong việc giảng dạy và trình bày.
Một điểm khác được Đức TGM Celli ghi nhận là việc nhiều cộng đoàn và hệ thống liên lạc đã được thành hình nhờ liên mạng, do đó, đã tạo ra cả một “lục địa kỹ thuật số” trong đó “gần một phần ba nhân loại” đến với nhau để “tìm tín liệu, phát biểu quan điểm và tăng tiến hiểu biết”. Ngài nói thêm: “Thiên Chúa và tôn giáo không bị loại khỏi địa giới truyền thông này (mediasphere); ngược lại, cả hai đều có vai trò xã hội mới trong đó, và đều là chủ đề để được bàn cãi trong một thứ cố gắng hoàn cầu “đi tìm ý nghĩa”. Giáo Hội là một thành phần của điệp khúc trên, là một tiếng nói giữa các tiếng nói khác, nhằm công bố hình ảnh Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm.
Mài dũa chiến thuật
Đức TGM Celli nhìn nhận sự hiện diện của Giáo Hội trên lục địa này, qua trang mạng của các cơ quan và giáo phận Công Giáo, các tư trang của các linh mục và tu sĩ, và rất nhiều các hệ thống kết liên khác nhau. Nhưng ngài cho hay: ta cần phải khai triển một sự hiện diện có tính chiến thuật và đồng bộ nhiều hơn. Ta phải cùng nhau tiến về phía trước để bảo cảm có được một sự trình bày Tin Mừng hữu hiệu, lưu loát và gắn bó hơn. Ta phải thăng tiến sự hiệp thông giữa hàng ngàn các sáng kiến khác nhau đang xuất hiện cùng lúc. Mỗi một sáng kiến ấy đều có đặc sủng và biện lý riêng, nhưng tất cả đều được mời gọi cùng phản ảnh sứ mệnh phổ quát của Giáo Hội.
Đức TGM Celli nhân dịp này nhấn mạnh đến một dự án mới đang được Hội Đồng Giáo Hoàng do ngài làm chủ tịch khai triển, đó là một hệ thống dữ kiện (database) liên mạng gồm các nhà phát tuyến và sản xuất truyền thanh và truyền hình Công Giáo, đặt tên là Intermirifica.net. Ngài cho hay: “Cũng hy vọng sẽ mở rộng hệ thống dữ kiện này để bao gồm các cơ sở tiểu phát hình liên mạng (podcast), các hãng tin, các nhật báo và các phân khoa truyền thông của các đại học Công Giáo”.
Đức TGM Celli sau đó nhắc đến gương sáng của Thánh Phaolô “mà cam kết loan báo Tin Mừng cho mọi người đã dẫn ngài không những đi du hành liên lỉ không biết mệt mà còn quên mình cố gắng thấu hiểu những người ngài muốn phúc âm hóa cho… Cam kết vươn tới người khác đòi ta phải sẵn sàng thay đổi để trở thành các nhân chứng hùng biện và chân chính hơn đối với niềm tin ta loan báo”.
Tài liệu: Hãng tin Zenit
Dịp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới bàn về Lời Chúa vừa qua, đã có lời đề nghị Đức Bênêđíctô XVI nên thiết lập một “tư trang” (blog) để giao tiếp trên mạng. Điều ấy cho thấy Liên mạng được coi là quan trọng như thế nào trong việc phúc âm hóa xã hội ngày nay. Và điều ấy càng đúng khi Đức Đương Kim Giáo Hoàng thực hiện lời đề nghị ấy.
Theo thông tấn xã ANSA của Ý ngày 28 tháng Mười năm 2008, điều cũng đáng ghi nhận là ngay sau khi đề nghị trên được nêu ra, Đức Tổng Giám Mục của Naples là Đức HY Crescenzio Sepe đã thiết lập một “hồ sơ chân tướng” (profile) trên hệ thống liên mạng xã hội Facebook. Đức Hồng Y cho hay: “Mỗi ngày tôi có thêm 200 bạn mới. Bạn phải tới chỗ người ta năng lui tới. Nên nếu người ta năng lui tới Facebook, thì bạn phải năng tới đó”.
Lời nhận định của Đức Hồng Y Sepe về nhu cầu cần phải tới nơi người trẻ năng lui tới được các dữ kiện của một cuộc thăm dò tại Mỹ hỗ trợ mạnh mẽ. Cuộc thăm dò này cho thấy trong nhóm người trẻ sinh sau 1984, chỉ vào khoảng 33% chịu đi nhà thờ vào một ngày cuối tuần nào đó. Cuộc thăm dò này được Nhóm Nghiên Cứu Barna thực hiện năm 2006, và được tờ New York Times trích dẫn trong một bài báo đăng ngày 26 tháng Mười vừa qua. Bài bào này xem sét cách các giáo hội sử dụng các kỹ thuật truyền thông ra sao để lôi cuốn giới trẻ. So sánh ra, khoảng 49% thế hệ “bùng nổ con nít” (babyboomer) chịu đi nhà thờ vào những ngày cuối tuần. Tờ báo này gợi ý rằng nhiều vị giảng thuyết đã đưa các nguồn truyền thông đa chiều vào thừa tác vụ hay vào việc giảng thuyết của mình, như trích đoạn phim, các bản nhạc hiện đại hay cách dùng lối trình bầy “powerpoint”.
Hệ Thống Kết Liên Trên Mạng
Các giáo hội cũng đã và đang tạo ra các hồ sơ chân tướng trên các trang mạng liên kết xã hội như Facebook hay MySpace, cũng như trên các trang mạng liên kết của Kitô Giáo. Hiện nay, nhiều giáo hội cũng đang có những trang mạng riêng trên hệ thống liên mạng (internet) với nhiều trích đoạn video, podcast (truyền thanh truyền hình liên mạng) hay tư trang. Một trong các giáo hội ấy đã được khảo sát trong một bài báo ngày 9 tháng Tư năm 2008 đăng trên tờ USA Today. Mục sư Bruce Walker giảng thuyết cho một cộng đoàn không tới 100 tín hữu tại Greenville, Nam Carolina, nhưng người ta có thể nghe và xem được các bài giảng của ông qua hệ thống truyền thanh truyền hình liên mạng phát đi khắp thế giới.
Cũng theo bài báo trên, một cuộc thăm dò vào năm ngoái của cơ sở Pew Internet & American Life Project đã khám ra rằng con số những người sử dụng liên mạng để tìm tòi các tín liệu về tôn giáo và linh đạo nhiều hơn là con số những người truy cập âm nhạc, dự đấu giá hay coi các trang mạng dành cho người lớn. Mục sư Walker đã đăng tải các bài giảng của ông trên một trang mạng có tên là SermonAudio.com. Theo tờ USA Today, hơn một triệu lượt người đã vào trang mạng ấy mỗi tháng.
Người ta không chỉ chuyển tải các bài giảng lên liên mạng. Bên Ái Nhĩ Lan, một trong các quốc gia làm tuần cửu nhật nhiều nhất trên thế giới, do các cha Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức hàng năm tại tu viện Đồi Thánh Anphong tại Limerick, năm nay, lần đầu tiên, người ta đã trực tiếp ‘truyền hình’ các tuần cửu nhật đó trên liên mạng. Theo tường trình ngày 12 tháng Sáu vừa qua của CatholicIreland.net, trang mạng www.novena.ie đã giúp người ta trực tiếp coi các biến cố kia suốt 24 giờ một ngày qua ‘Ống kính liên mạng’ (Webcam).
Năm ngoái, một sáng kiến tương tự dành cho tuần cửu nhật tại một nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế khác, tức tu viện Clonard ở Belfast, đã ghi nhận được 50,000 luợt người vào thăm. Năm nay, theo CatholicIreland.net, một cộng đoàn Ái Nhĩ Lan khác là Nhà Thờ Thánh Augustinô ở Cork cũng bắt đầu truyền hình một tuần cửu nhật.
Video trên liên mạng
Cũng năm ngoái, nhà thờ trên, tức trung tâm của cộng đồng Ba Lan tại Cork, bắt đầu cho tải lên mạng các thánh lễ và các nghi lễ khác. Cha Pat Moran cho hay: “Tôi nghe nói có bà kia ở Ba Lan, hết sức vui mừng thấy chồng mình dự thánh lễ 10 giờ hôm Giáng Sinh và tiến lên rước lễ… Từ lúc chương trình này bắt đầu, đã có tới 18,000 lượt người từ khắp 32 quốc gia vào thăm”.
Các trích đoạn video là phương cách bình dân để truyền thông trên liên mạng. Nhờ thế, GodTube, tương tự như YouTube, đã nhận được nhiều đầu tư trong năm nay. Theo tờ The Guardian ngày 13 tháng Năm, một qũy có trụ sở tại Luân Đôn tên là GLG Partners tuyên bố rằng họ đang đầu tư gần 30 triệu đôla vào Godtube.
Vào lúc bài báo này được đăng tải, từ ngày được phát động vào hồi tháng Tám năm ngoái, GodTube đã chuyển tải hơn 100,000 video lên mạng, tất cả đều có hơi hướng với chủ đề tôn giáo. Khoảng 40 công nhân được sử dụng để duyệt xét các video trước khi chuyển tải chúng. Godtube cũng cho chuyển tải các bài giảng trực tiếp, lại có cả các “bức tường cầu nguyện” để người sử dụng có thể ghi các lời cầu xin của họ lên đó.
Gửi các lời cầu nguyện lên mạng là một việc khá phổ thông, và theo tờ Sydney Morning Herald ngày 20 tháng Tư, vào đầu năm 2008, cơ sở Bill Tikos ở Sydney đã thiết lập một gia trang để người ta dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa. Trong tuần lễ đầu kể từ ngày phát động, Dear-god.net đã nhận được 63,000 lượt người vào thăm và hàng trăm lời bình luận về các lời cầu nguyện của người ta.
Phúc âm hóa
Các khả thể dùng liên mạng làm phương tiện phúc âm hóa đã được khảo sát trong một bài đăng ngày 21 tháng Sáu vừa qua trên gia trang InsideCatholic.com.
Jennifer Fulwiler diễn tả việc cô từ vô thần trở lại đạo Công Giáo và biện luận rằng liên mạng quả có giúp người ta khám phá ra chân lý tôn giáo dễ dàng hơn bất cứ phương tiện nào khác. Việc cô trở lại là do kết quả tò mò đi tìm tòi trên mạng để lấy tín liệu về một số vấn nạn triết học. Chính việc tìm hiểu qua lại ấy trên mạng đã khiến niềm tin vô thần của cô bắt đầu lung lay. Chính các lời bình luận về các chất liệu đăng tải và các cuộc tranh luận trên mạng đã mở cho cô thấy quan điểm của Kitô Giáo: “Trước đây tôi vẫn nghĩ tôi có nhiều vấn nạn hay dành cho người Kitô hữu, và quả tôi có những vấn nạn ấy thật. Nhưng kết cục, các vấn nạn ấy lại trở thành các vấn nạn hay cho chính tôi nữa”. Tính cởi mở và thời gian trả lời nhanh ở trên mạng cũng là những đặc điểm được Cô cho là có lợi cho tôn giáo. “Quyền lực của giai cấp ưu tú trong việc kiểm soát tín liệu đã qua hẳn rồi. Điều ấy có nghĩa: càng ngày càng có nhiều ý tưởng, câu hỏi, và câu trả lời nhanh hơn được gọt dũa theo từng quan tâm của mỗi con người”
Các nguy hiểm và cơ may
Tuy nhiên, liên mạng là sự hỗn hợp của cơ may và nguy hiểm. Điều này đã được nhìn nhận trong một thư luân lưu của các vị giám mục Công Giáo Úc Đại Lợi, công bố ngày 27 tháng Tư năm 2008, về An Toàn Liên Mạng, kèm theo một video chuyển tải lên YouTube.
Bức thư này chủ yếu nói với các bậc cha mẹ, ông bà và thầy cô bên trong Cộng Đồng Giáo Hội, còn cuốn video trên YouTube thì trực tiếp nói với giới trẻ về sự an toàn trên mạng.
Bức thư cho rằng: nhờ liên mạng, sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô đã được chuyên chở tới con người khắp nơi trên thế giới trong các phương cách mà các vị rao giảng phúc âm tiên khởi chưa bao giờ dám mơ ước tới. Tuy nhiên, bản văn cũng cảnh giới rằng chúng ta cần phân biệt rõ điều mình đọc và gặp trên mạng.
Dựa vào một số trích đoạn của Đức Gioan Phaolô II và của Đức Bênêđíctô XVI, bức thư này nhận định rằng Giáo Hội tích cực coi liên mạng là cơ may rất tốt cho việc phúc âm hóa. Tuy nhiên, bên cạnh việc cung cấp cho ta rất nhiều tín liệu quý giá, nó cũng có thể xem thường nhiều giá trị và hạ thấp nhân phẩm con người. Cũng cần phải bảo vệ trẻ em và các gia đình chống lại các nội dung nguy hiểm và có tính phá hoại.
Đối với các vị giám mục này, “Trong tư cách Kitô Hữu, ta được mời gọi chia sẻ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô với mọi người… Ta hãy dùng liên mạng bằng đức tin, niềm hứng khởi và sự khôn ngoan, khi sống ơn gọi chung của chúng ta trong thời đại liên mạng”.
Niềm hứng khởi đối với liên mạng cũng đã được Vatican chia sẻ. Hồi tháng Chín, Đức Tổng Giám Mục Claudio Celli, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, công bố rằng chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội năm 2009 sẽ là “Các Kỹ Thuật Mới, Các Liên Hệ Mới. Cổ vũ một Nền Văn Hóa biết Tôn Trọng, Đối Thoại và Thân Hữu”. Ngài giải thích: “Tiến bộ về phương tiện không phải đơn giản bao hàm bước tiến về phía trước, nhưng luôn mang theo các điều kiện và khả thể mà nhân loại có thể sử dụng và đầu tư cho ích chung và biến chúng thành căn bản cho việc phát triển văn hóa cách đầy đủ và rộng khắp”.
Đức Tổng Giám Mục Celli cũng công bố rằng một cuộc hội họp của các giám mục đã được dự trù tổ chức vào tháng Ba năm 2009 để qui tụ tất cả các vị giáo phẩm hiện đang phụ trách ngành truyền thông và các chuyên viên truyền thông.
Ngày đầu trên YouTube
Toà thánh phát động một kênh trên YouTube vào ngày 23 tháng 1 năm 2009 tại địa chỉ
www.youtube.com/vatican. Theo Cha Lombardi, Đức Thánh Cha là người đầu tiên ủng hộ sáng kiến này. Dự án đã được chuẩn bị hơn một năm rưỡi kể từ lúc Trung Tâm Truyền Thanh và Truyền Hình Vatican bắt đầu công bố các trích đoạn video trên các trang mạng của mình để cho các đài truyền hình và các trang mạng sử dụng.
Theo cha, khắp nơi trên thế giới, có những người chú tâm tới các sứ điệp và các đề nghị của một thẩm quyền cao về luân lý, như Đức Giáo Hoàng và nói chung Giáo Hội Công Giáo chẳng hạn, liên quan tới các vấn đề lớn lao của thời đại. Đó chính là lý do khiến ta chọn YouTube làm một cái bục thích đáng để hiện diện trên Mạng, trong một đồi Areopagus vĩ đại [nơi Thánh Phaolô giảng Đạo tại Athens] của ngành truyền thông thế giới hiện nay, và hiện diện cách thường xuyên, đem lại một điểm quy chiếu đáng tin, và tiếp tục vượt qua những rời rạc đầy rẫy trong cách thông tin về Đức Giáo Hoàng và Tòa Thánh ở trên mạng, vuợt qua một cách nhẹ nhàng, không trịnh trọng.
Kênh này cũng giúp người ta khả năng gửi điện thư tới Tòa Thánh. Các điện thư này sẽ được văn phòng của Cha Lombardi tiếp nhận. Ngài cũng cho biết việc phát động kênh truyền thông này mới chỉ là bước đầu. Với sự cộng tác của Google, Toà Thánh còn dự trù nhiều khai triển và cải thiện khác cả về nội dung lẫn kỹ thuật.
Thời đại kỹ thuật số
Trong khi đó, ngày 23 tháng 1 năm 2009, trong một cuộc họp báo để công bố sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế Giới lần thứ 43 của Đức Bênêđíctô XVI, Đức Ông Paul Tighe, thư ký Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, cho hay: các kỹ thuật mới của thời đại kỹ thuật số không những tác động trên các phương tiện truyền thông mà chúng còn cách mạng hóa cách người ta chia sẻ tín liệu và tư tưởng, tạo nhóm và sở đắc nhận thức nữa.
Đức ông cho hay sứ điệp của Đức Thánh Cha chủ yếu đề cập tới “thế hệ kỹ thuật số”, nghĩa là những người sử dụng các kỹ thuật mới một cách “tự phát và hầu như theo trực giác” và bước vào thời đại máy vi tính, điện thoại di động, gửi lời nhắn tức khắc, mở trang mạng riêng, các bục video, các phòng tán gẫu liên mạng và các hệ lưới liên lạc xã hội.
Theo Đức Ông Tighe, các thay đổi trong thời đại kỹ thuật số không phải chỉ có tính kỹ thuật, chúng còn cách mạng hóa cả chính nền văn hóa truyền thông nữa. Chúng thay đổi các phương cách người ta truyền thông với nhau, các phương cách họ liên kết và thành lập các cộng đoàn, các phương cách họ học hỏi về thế giới, các phương cách họ tham gia các tổ chức chính trị và thương mãi.
Đức Ông cho hay: trong dĩ vãng, truyền thông là diễn trình một chiều, trong đó, truyền thông chuyển giao tín liệu cho một cử tọa thụ động. Ngày nay, ta có một cử tọa biết lọc lựa và tương tác trên nhiều lãnh vực của truyền thông. “Luận lý của truyền thông đã thay đổi một cách triệt để, tập chú vào truyền thông đã bị thay thế bởi tập chú vào cử tọa, một cử tọa ngày càng tự chủ và biện bác hơn trong việc tiêu thụ truyền thông”
Đức Ông nhấn mạnh rằng sứ điệp Ngày Truyền Thông của Đức Bênêđictô XVI cũng mời gọi những người có can dự với ngành truyền thông mới hãy quan tâm tới nội dung họ đang đưa ra, đang chia sẻ hay đang kéo chú ý của người khác. Sứ điệp ấy mời gọi họ tránh việc tạo ra và phân phối các ngôn từ hay hình ảnh có tính xúc phạm hay thiếu tôn kính đối với phẩm giá hay giá trị người khác. Đức Ông cũng lưu ý người sử dụng phải khôn ngoan trong những điều mình chuyển tải lên mạng, vì những điều này không dễ dàng xóa khỏi liên mạng và không ai muốn sống mà lúc nào cũng phải nhớ tới các thái quá của tuổi trẻ cũng như những ngôn từ thiếu suy nghĩ.
Theo Đức Ông, các kỹ thuật mới vốn nhằm mục đích giữ cho con người nối kết với nhau, nhưng trên thực tế đôi khi xâm phạm cả vào đời tư của họ. Và oái oăm hơn nữa, đôi lúc chúng được sử dụng để “cô lập hóa con người khỏi mọi hình thức tương tác có tính xã hội với gia đình, bè bạn và đồng nghiệp”.
Tuy nhiên, Đức Ông nói rằng sứ điệp của Đức Giáo Hoàng cũng chú ý tới khía cạnh tích cực: sứ điệp này nêu lên chủ đề bằng hữu, làm điểm giao tiếp giữa mọi con người có thiện chí. Nó ca ngợi khả năng của các kỹ thuật mới trong việc cổ vũ và hỗ trợ các mối liên hệ tốt đẹp và lành mạnh cũng như nhiều hình thức liên đới khác nhau. Nó nại tới tình bằng hữu, lấy nó làm động lực để đảm bảo rằng mọi người đều có thể tham dự vào thế giới mới của kỹ thuật số. Nó cho rằng trong tình bằng hữu, ta gặp được điểm quy chiếu chung với toàn thể nhân loại, một điểm quy chiếu làm cơ sở cho lời mời gọi hãy cổ vũ một nền văn hóa trong đó, mọi người đều được kính trọng và được mời gọi lên đường đi tìm sự thật qua đối thoại.
Thiên Chúa trong địa giới truyền thông
Cuối tuần trước, tổ chức Tân Phúc Âm Hóa Nước Mỹ đã tổ chức một cuộc hội nghị kéo dài từ Thứ Sáu qua Chúa Nhật tại Dallas. Nhân dịp này, Đức Tổng Giám Mục Claudio Celli, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội đã nói truyện trước hội nghị với đề tài “Vai Trò Của Truyền Thông Đại Chúng trong Việc Phúc Âm Hóa”. Theo ngài, Thiên Chúa có vai trò trong truyền thông, và Giáo Hội nên có tiếng nói trong việc phúc âm hóa các linh hồn bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.
Đức Tổng Giám Mục Celli đề cập tới bản chất tương quan lẫn nhau của Thiên Chúa Ba Ngôi, dùng làm căn bản thần học để hiểu được tầm quan trọng của truyền thông. Ngài nhấn mạnh rằng “truyền thông không phải chỉ là một sinh hoạt khác của Giáo Hội nhưng là chính yếu tính của cuộc sống Giáo Hội. Thông truyền tin mừng về tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người, như đã được phát biểu qua cuộc đời, cái chết và việc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là điều sẽ kết hợp và làm cho mọi khía cạnh khác trong sinh hoạt của Giáo Hội trở thành có nghĩa”.
Vị giáo phẩm này quả quyết rằng không có truyền thông, sẽ không có phúc âm hóa, và ta phải sử dụng ngành truyền thông đại chúng mới xuất hiện kia vào mục đích phúc âm hóa đó. Ngài nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc phải chuẩn bị cả về phương diện kỹ thuật lẫn phương diện văn hóa để đảm nhiệm trách vụ này.
Hai chía khóa
Theo Đức Tổng Giám Mục Celli, về ý thức văn hóa, ta thấy có hai chiều kích. Chiều kích đầu quan trọng ở chỗ: nhà truyền thông hay nhà rao giảng tin mừng phải nắm vững nền văn hóa phổ thông của cử tọa mình có ý định nói với: nắm vững điều họ lo lắng, quan tâm, điều họ lo sợ và hy vọng; chiều kích kia hệ ở việc nhà truyền thông phải rành rẽ các thách đố văn hóa đặc thù do môi trường tân truyền thông mang tới, trong đó các thay đổi có ý nghĩa về mẫu mực tiêu thụ truyền thông đã được các thay đổi về kỹ thuật đem lại.
Đối diện với ngữ cảnh văn hóa, ngài nhấn mạnh đến niềm hy vọng của mình, một niềm hy vọng từng đặt cơ sở trên sự kiện này là con người vốn được dựng nên theo hình ảnh và hoạ ảnh Thiên Chúa, dù điều đó có được thừa nhận hay không. Vì được dựng nên theo hình ảnh và hoạ ảnh Thiên Chúa, nên từ gốc rễ bản nhiên con người, ai trong chúng ta cũng muốn được yêu thương và yêu thương. Cái nhìn thông sáng ấy khiến ta tin tưởng tuyệt đối rằng cốt lõi sứ điệp của Phúc Âm sẽ tiếp tục được vang lên trong trái tim con người nhân bản.
Đức Tổng Giám Mục cho rằng: “Sứ mệnh của chúng ta là đem tin mừng về tình yêu vô tận của Thiên Chúa dành cho mọi người đến với anh chị em mình như một phục dịch vĩ đại nhất ta có thể làm được cho họ. Việc phúc âm hóa của ta không bao giờ nhằm gia tăng con số hay gia tăng ảnh hưởng nhưng luôn luôn quan tâm đến việc giải thoát con người khỏi tà thần là những thứ rất dễ và rất âm thầm xâm chiếm cuộc sống con người”.
Một thành phần của điệp khúc
Về cuộc cách mạng hiện đang diễn ra trong các kỹ thuật truyền thông, Đức TGM Celli nhấn mạnh đến việc ta phải để ý tới nền văn hóa đặc thù của truyền thông. Theo ngài, luận lý của truyền thông đã và đang thay đổi một cách triệt để. Cũng như Đức Ông Tighe trên đây, Đức TGM celli cho rằng: tập chú vào truyền thông đã bị tập chú vào cử tọa thay thế. Cử toạ này càng ngày càng tự chủ và biện bác hơn trong việc họ tiêu thụ truyền thông. Do đó, ngài khuyên ta phải nghiên cứu các mẫu mực mới trong việc sử dụng truyền thông, các hiệu quả đối với công chúng, và việc khai triển các hình thức đối thoại trong việc giảng dạy và trình bày.
Một điểm khác được Đức TGM Celli ghi nhận là việc nhiều cộng đoàn và hệ thống liên lạc đã được thành hình nhờ liên mạng, do đó, đã tạo ra cả một “lục địa kỹ thuật số” trong đó “gần một phần ba nhân loại” đến với nhau để “tìm tín liệu, phát biểu quan điểm và tăng tiến hiểu biết”. Ngài nói thêm: “Thiên Chúa và tôn giáo không bị loại khỏi địa giới truyền thông này (mediasphere); ngược lại, cả hai đều có vai trò xã hội mới trong đó, và đều là chủ đề để được bàn cãi trong một thứ cố gắng hoàn cầu “đi tìm ý nghĩa”. Giáo Hội là một thành phần của điệp khúc trên, là một tiếng nói giữa các tiếng nói khác, nhằm công bố hình ảnh Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm.
Mài dũa chiến thuật
Đức TGM Celli nhìn nhận sự hiện diện của Giáo Hội trên lục địa này, qua trang mạng của các cơ quan và giáo phận Công Giáo, các tư trang của các linh mục và tu sĩ, và rất nhiều các hệ thống kết liên khác nhau. Nhưng ngài cho hay: ta cần phải khai triển một sự hiện diện có tính chiến thuật và đồng bộ nhiều hơn. Ta phải cùng nhau tiến về phía trước để bảo cảm có được một sự trình bày Tin Mừng hữu hiệu, lưu loát và gắn bó hơn. Ta phải thăng tiến sự hiệp thông giữa hàng ngàn các sáng kiến khác nhau đang xuất hiện cùng lúc. Mỗi một sáng kiến ấy đều có đặc sủng và biện lý riêng, nhưng tất cả đều được mời gọi cùng phản ảnh sứ mệnh phổ quát của Giáo Hội.
Đức TGM Celli nhân dịp này nhấn mạnh đến một dự án mới đang được Hội Đồng Giáo Hoàng do ngài làm chủ tịch khai triển, đó là một hệ thống dữ kiện (database) liên mạng gồm các nhà phát tuyến và sản xuất truyền thanh và truyền hình Công Giáo, đặt tên là Intermirifica.net. Ngài cho hay: “Cũng hy vọng sẽ mở rộng hệ thống dữ kiện này để bao gồm các cơ sở tiểu phát hình liên mạng (podcast), các hãng tin, các nhật báo và các phân khoa truyền thông của các đại học Công Giáo”.
Đức TGM Celli sau đó nhắc đến gương sáng của Thánh Phaolô “mà cam kết loan báo Tin Mừng cho mọi người đã dẫn ngài không những đi du hành liên lỉ không biết mệt mà còn quên mình cố gắng thấu hiểu những người ngài muốn phúc âm hóa cho… Cam kết vươn tới người khác đòi ta phải sẵn sàng thay đổi để trở thành các nhân chứng hùng biện và chân chính hơn đối với niềm tin ta loan báo”.
Tài liệu: Hãng tin Zenit
Phaolô Miki và những vị Tử Đạo tiên khởi Nhật Bản
Lưu Minh Gần
11:59 07/02/2009
Những ngày đầu tháng 2 năm 1597, một đoàn phạm nhân bị dẫn đi rảo qua các thành phố của Nhật Bản, ở những nơi có đông người công giáo sinh sống. Đoàn phạm nhân này là những người bất tuân lệnh truyền của Hoàng đế trong chiếu chỉ cấm đạo. Nhà cầm quyền dùng những người này trong kế hoạch hăm dọa và răn đe những người công giáo cứng đầu, là những người không chịu bỏ đạo.Thế nhưng kế hoạch này dừng như hoàn toàn thất bại. Niềm vui của các vị tử đạo khi cái chết đến gần lại thể hiện quá rõ nét, đến nỗi hàng trăm người ngoại giáo khác bị đánh động và tin theo cái tôn giáo mà những chứng nhân này đã can đảm tuyên xưng.
Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn thường được đeo bởi các Samurai quý tộc.
Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi, cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm 1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản.
Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của họ.
Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần, và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60 vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.
Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.
Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki.
Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng hát và kinh nguyện.
Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống như Người, con tim tôi sẽ bị xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân danh Người.”
Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao giọng với bài hát Laudate Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua con tim của họ.
Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh ngày 8.7.1862.
Phaolô Miki
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh: 1564 - tại Tokushima, Nhật Bản
Tử đạo: 05.02.1597 - tại Nagasaki, Nhật Bản
Lễ mừng ngày 06.02
Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn thường được đeo bởi các Samurai quý tộc.
Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi, cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm 1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản.
Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của họ.
Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần, và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60 vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.
Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.
Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki.
Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng hát và kinh nguyện.
Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống như Người, con tim tôi sẽ bị xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân danh Người.”
Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao giọng với bài hát Laudate Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua con tim của họ.
Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh ngày 8.7.1862.
Phaolô Miki
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh: 1564 - tại Tokushima, Nhật Bản
Tử đạo: 05.02.1597 - tại Nagasaki, Nhật Bản
Lễ mừng ngày 06.02
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2009
+ ĐGH Benedictô XVI
16:29 07/02/2009
VATICAN.- ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi cộng đồng Giáo Hội và xã hội động viên để giúp đỡ các trẻ em bị bệnh tật và thương tích trong thân xác và tinh thần.
Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 7-2-2009, nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 17 sẽ được cử hành vào ngày 11-2-2009, lễ Đức Mẹ Lộ Đức.
Khác với 16 lần trước đây, lần này ĐTC không chỉ định một Đền Thánh riêng biệt nào để cử hành Ngày Thế Giới các bệnh nhân và mỗi giáo phận tùy tiện cử hành.
Tại Vatican, chiều ngày thứ tư, 11-2-2009, ĐHY Javier Lozano Barragán, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, sẽ chủ sự thánh lễ cho các anh chị em bệnh nhân và những người săn sóc họ, tại Đền thờ Thánh Phêrô. Cuối thánh lễ, ĐTC sẽ đến chào thăm và ban huấn dụ cho mọi người. Sau đây là nguyên văn Sứ Điệp của ĐTC.
Nguyên văn Sứ Điệp
Anh chị em thân mến,
Ngày Thế Giới các bệnh nhân, cử hành vào ngày 11-2 tới đây, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, sẽ thấy các cộng đoàn giáo phận quây quần cầu nguyện quanh các Giám Mục của mình, để suy tư và quyết định về những sáng kiến nhắm gây ý thức về thực tại đau khổ. Năm Thánh Phaolô mà chúng ta đang cử hành là dịp thích hợp để dừng lại suy niệm với thánh Phaolô Tông Đồ về sự kiện ” như đau khổ của Chúa Kitô dồi dào trong chúng ta, thì nhờ Chúa Kitô ơn an ủi cho chúng ta cũng được tràn đầy ” (2 Cr 1,5). Ngoài ra, mối liên hệ tinh thần với Lộ Đức cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta mối quan tâm từ mẫu của Mẹ Chúa Giêsu đối với những người em của Con Đức Mẹ, ”đang trên đường lữ hành và sống giữa những nguy hiểm và cơ cực, cho đến khi họ được dẫn vào quê hương hạnh phúc” (Ánh sáng muôn dân, 62).
Năm nay, chúng ta đặc biệt chú ý đến các trẻ em, những thụ tạo yếu đuối và vô phương thế tự vệ nhất, và trong số này, có các trẻ em bệnh tật và đau khổ. Có những em đang mang trong thân xác những hậu quả của bệnh làm cho tàn tật, có những em khác đang chiến đấu chống lại những căn bệnh mà ngày nay người ta vẫn không chữa được, mặc dù có những tiến bộ của y khoa và sự trợ lực của những nghiên cứu gia và chuyên gia tài giỏi về y tế. Có những em bị thương tích trong thân xác và tâm hồn vì những cuộc xung đột và chiến tranh, có những em khác là nạn nhân vô tội của oán thù vô nghĩa lý của người lớn. Có những trẻ em 'bụi đời', thiếu hơi ấm của gia đình và bị bỏ rơi, những thiếu niên bị những người đáng kinh tởm xâm phạm sự thơ ngây trong trắng của các em, tạo cho các em một thương tích tâm lý, ảnh hưởng trên trọn cuộc đời còn lại của các em. Chúng ta cũng không thể quên vô số các trẻ em chết vì đói khát, vì thiếu săn sóc y tế, cũng như những trẻ em phải di tản và tị nạn, rời bỏ quê hương với cha mẹ để đi tìm những điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn. Từ tất cả các trẻ em ấy đang vang lên một tiếng kêu đau đớn âm thần, gọi hỏi lương tâm chúng ta trong tư cách là con người và là tín hữu.
Cộng đồng Kitô giáo không thể dửng dưng đứng trước những tình trạng thê thảm như thế, và cảm thấy nghĩa vụ thúc bách phải can thiệp. Thực vậy, như tôi đã viết trong thông điệp ”Thiên Chúa là tình thương”, Giáo Hội là ”gia đình của Thiên Chúa trong thế giới. Trong gia đình này, không thể có người nào phải chịu đau khổ vì thiếu những điều cần thiết” (25,b). Vì thế, tôi cũng mong ước rằng Ngày Thế Giới các bệnh nhân là dịp để các cộng đoàn giáo xứ và giáo phận ngày càng ý thức mình là ”gia đình của Thiên Chúa” và khuyến khích họ hãy làm cho tình thương của Chúa được cảm nghiệm cụ thể trong các làng mạc, khu xóm, và thành thị, tình yêu ấy của Chúa đòi hỏi rằng trong Giáo Hội, với tư cách là một gia đình, không một phần tử nào phải chịu đau khổ vì thiếu thốn” (ibid.). Chứng tá bác ái là điều thuộc về chính đời sống của mỗi cộng đoàn Kitô. Và ngay từ đầu, Giáo Hội đã diễn tả các nguyên tắc Tin Mừng qua những cử chỉ cụ thể, như chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ công vụ. Ngày nay, vì những điều kiện trợ giúp y khoa đã thay đổi, chúng ta thấy cần có sự cộng tác chặt chẽ hơn giữa các chuyên gia y tế đang hoạt động tại các nhà thương và trung tâm y tế với các cộng đoàn Giáo Hội hiện diện trong lãnh thổ địa phương. Trong viễn tượng này, một tổ chức có liên hệ với Tòa Thánh được xác nhận trọn vẹn giá trị, đó là Nhà Thương Nhi Đồng Chúa Hài Đồng Giêsu, năm nay đang kỷ niệm 140 năm thành lập.
Cũng cần nói thêm. Vì trẻ em bệnh nhân thuộc về một gia đình và gia đình này cũng chịu đau khổ với em và thường phải chịu nhiều khó khăn và cơ cực, nên các cộng đồng Kitô không thể không giúp đỡ các gia đình đang phải mang gánh nặng vì người con đau yếu của mình. Theo gương người Samaritano nhân lành, chúng ta cần cúi mình xuống trên những người đang bị thử thách nặng nề, và nâng đỡ họ bằng tình liên đới cụ thể. Như thế, việc chấp nhận và chia sẻ đau khổ được biểu lộ qua sự nâng đỡ hữu ích dành cho các gia đình có trẻ em đau yếu, kiến tạo nơi họ một bầu không khí thanh thản và hy vọng, giúp họ cảm thấy chung quanh mình một gia đình rộng lớn gồm các anh chị em trong Chúa Kitô. Sự cảm thương của Chúa Giêsu đối với những dòng lệ của bà góa thành Naim (cf Lc 7,12-17) và đối với lời cầu nguyện tha thiết của Ông Giairô (cf Lc 8,41-56) chính là những điểm tham chiếu hữu ích, trong số những điều khác nữa, để học cách chia sẻ những tình cảnh cơ cực về thể lý và tinh thần của bao nhiêu gia đình phải chịu. Tất cả những điều đó đòi phải có một tình yêu thương vô vị lợi và quảng đại, phản ánh và là dấu chỉ lòng từ bi yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài trong thử thách, nhưng luôn tái cung cấp cho họ những nguồn lực tuyệt vời trong tâm trí để có thể đương đầu thích hợp với những khó khăn trong cuộc sống.
”Sự tận tụy hằng ngày và dấn thân không ngừng để phục vụ các trẻ em bệnh tật chính là một chứng tá hùng hồn về lòng yêu mến sự sống con người, đặc biệt là đối với sự sống của người yếu đuối, hoàn toàn tùy thuộc người khác. Thực vậy, cần mạnh mẽ khẳng định phẩm giá tuyệt đối và cao cả của mọi sinh mạng con người. Qua dòng thời gian, giáo huấn của Giáo Hội vẫn không thay đổi, đó là sự sống con người thật là đẹp và phải được sống sung mãn, cả khi sự sống ấy suy yếu và bị mầu nhiệm đau khổ bao phủ. Chúng ta cần hướng nhìn về Chúa Giêsu chịu đóng đanh: khi chịu chết trên thập giá, Ngài đã muốn chia sẻ đau khổ của toàn thể nhân loại. Trong đau khổ vì yêu thương của Chúa, chúng ta thấy có sự đồng cảm tột cùng với những đau khổ của các trẻ em bệnh nhân và cha mẹ các em. Vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Gioan Phaolô 2, qua việc kiên nhẫn chấp nhận đau khổ đã nêu gương sáng ngời đặc biệt vào cuối đời, ngài viết: ”Trên thập giá, có Đấng Cứu Chuộc loài người”, là ”Con người của đau khổ”, đã nhận mang trên trên mình những đau khổ thể lý và tinh thần của con người thuộc mọi thời đại, để trong tình yêu, chúng ta có thể tìm được ý nghĩa cứu độ của đau khổ và và những lời giải đáp hữu hiệu cho tất cả những vấn nạn của họ” (Salvifici doloris, Khổ đau cứu độ, 31).
Ở đây tôi muốn bày tỏ lòng quí chuộng và khích lệ các Tổ chức Quốc tế và Quốc gia đang quảng đại và hy sinh chăm sóc các trẻ em bệnh nhân, đặc biệt là tại các nước nghèo, góp phần đảm bảo cho các em được chăm sóc thích đáng và với lòng yêu thương. Đồng thời tôi cũng tha thiết kêu gọi các vị hữu trách của các quốc gia hãy tăng cường các đạo luật và những biện pháp giúp đỡ các trẻ em bệnh nhân và gia đình các em. Về phần mình, nhất là khi liên hệ tới cuộc sống của các em, Giáo Hội luôn sẵn sàng đóng góp sự cộng tác hăng say với ý hướng biến đổi toàn thể nền văn minh của nhân loại thành 'nền văn minh tình thương' (cf Khổ đau cứu độ, 30).
Để kết luận, tôi muốn bày tỏ sự gần gũi tinh thần với tất cả anh chị em là những người đang chịu đau khổ vì bệnh tật. Tôi thân ái gửi lời chào thăm tất cả những người đang giúp đỡ anh chị em: các Giám Mục, các linh Mục, những người thánh hiến, các nhân viên y tế, những người thiện nguyện và tất cả những ngừơi đang xả thân trong tình yêu thương để săn sóc và thoa dịu đau khổ của những người đang bị bệnh tật. Hỡi các em nhỏ đang chịu bệnh tật và đau khổ, Cha đặc biệt chào thăm các con: Cha ôm lấy tất cả các con trong tình yêu thương phụ tử cùng với cha mẹ và những người thân của các con, và Cha cam đoan đặc biệt nhớ đến các con trong kinh nguyện, mời gọi các con hãy tín thác nơi sự phù trợ từ mẫu của Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm, Đấng mà trong lễ Giáng Sinh vừa qua, chúng ta đã chiêm ngưỡng Mẹ đang vui mừng ôm lấy Con Thiên Chúa trở thành hài nhi. Cha cầu xin Mẹ Maria Chí Thánh bảo vệ các con và mọi bệnh nhân trong tình hiền mẫu của Mẹ, là Sức Khỏe của các bệnh nhân, và Cha thành tâm ban phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho tất cả.
Vatican ngày 2-2-2009
Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(Trần Đức Anh OP chuyển ý)
Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 7-2-2009, nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 17 sẽ được cử hành vào ngày 11-2-2009, lễ Đức Mẹ Lộ Đức.
Khác với 16 lần trước đây, lần này ĐTC không chỉ định một Đền Thánh riêng biệt nào để cử hành Ngày Thế Giới các bệnh nhân và mỗi giáo phận tùy tiện cử hành.
Tại Vatican, chiều ngày thứ tư, 11-2-2009, ĐHY Javier Lozano Barragán, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, sẽ chủ sự thánh lễ cho các anh chị em bệnh nhân và những người săn sóc họ, tại Đền thờ Thánh Phêrô. Cuối thánh lễ, ĐTC sẽ đến chào thăm và ban huấn dụ cho mọi người. Sau đây là nguyên văn Sứ Điệp của ĐTC.
Nguyên văn Sứ Điệp
Anh chị em thân mến,
Ngày Thế Giới các bệnh nhân, cử hành vào ngày 11-2 tới đây, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, sẽ thấy các cộng đoàn giáo phận quây quần cầu nguyện quanh các Giám Mục của mình, để suy tư và quyết định về những sáng kiến nhắm gây ý thức về thực tại đau khổ. Năm Thánh Phaolô mà chúng ta đang cử hành là dịp thích hợp để dừng lại suy niệm với thánh Phaolô Tông Đồ về sự kiện ” như đau khổ của Chúa Kitô dồi dào trong chúng ta, thì nhờ Chúa Kitô ơn an ủi cho chúng ta cũng được tràn đầy ” (2 Cr 1,5). Ngoài ra, mối liên hệ tinh thần với Lộ Đức cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta mối quan tâm từ mẫu của Mẹ Chúa Giêsu đối với những người em của Con Đức Mẹ, ”đang trên đường lữ hành và sống giữa những nguy hiểm và cơ cực, cho đến khi họ được dẫn vào quê hương hạnh phúc” (Ánh sáng muôn dân, 62).
Năm nay, chúng ta đặc biệt chú ý đến các trẻ em, những thụ tạo yếu đuối và vô phương thế tự vệ nhất, và trong số này, có các trẻ em bệnh tật và đau khổ. Có những em đang mang trong thân xác những hậu quả của bệnh làm cho tàn tật, có những em khác đang chiến đấu chống lại những căn bệnh mà ngày nay người ta vẫn không chữa được, mặc dù có những tiến bộ của y khoa và sự trợ lực của những nghiên cứu gia và chuyên gia tài giỏi về y tế. Có những em bị thương tích trong thân xác và tâm hồn vì những cuộc xung đột và chiến tranh, có những em khác là nạn nhân vô tội của oán thù vô nghĩa lý của người lớn. Có những trẻ em 'bụi đời', thiếu hơi ấm của gia đình và bị bỏ rơi, những thiếu niên bị những người đáng kinh tởm xâm phạm sự thơ ngây trong trắng của các em, tạo cho các em một thương tích tâm lý, ảnh hưởng trên trọn cuộc đời còn lại của các em. Chúng ta cũng không thể quên vô số các trẻ em chết vì đói khát, vì thiếu săn sóc y tế, cũng như những trẻ em phải di tản và tị nạn, rời bỏ quê hương với cha mẹ để đi tìm những điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn. Từ tất cả các trẻ em ấy đang vang lên một tiếng kêu đau đớn âm thần, gọi hỏi lương tâm chúng ta trong tư cách là con người và là tín hữu.
Cộng đồng Kitô giáo không thể dửng dưng đứng trước những tình trạng thê thảm như thế, và cảm thấy nghĩa vụ thúc bách phải can thiệp. Thực vậy, như tôi đã viết trong thông điệp ”Thiên Chúa là tình thương”, Giáo Hội là ”gia đình của Thiên Chúa trong thế giới. Trong gia đình này, không thể có người nào phải chịu đau khổ vì thiếu những điều cần thiết” (25,b). Vì thế, tôi cũng mong ước rằng Ngày Thế Giới các bệnh nhân là dịp để các cộng đoàn giáo xứ và giáo phận ngày càng ý thức mình là ”gia đình của Thiên Chúa” và khuyến khích họ hãy làm cho tình thương của Chúa được cảm nghiệm cụ thể trong các làng mạc, khu xóm, và thành thị, tình yêu ấy của Chúa đòi hỏi rằng trong Giáo Hội, với tư cách là một gia đình, không một phần tử nào phải chịu đau khổ vì thiếu thốn” (ibid.). Chứng tá bác ái là điều thuộc về chính đời sống của mỗi cộng đoàn Kitô. Và ngay từ đầu, Giáo Hội đã diễn tả các nguyên tắc Tin Mừng qua những cử chỉ cụ thể, như chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ công vụ. Ngày nay, vì những điều kiện trợ giúp y khoa đã thay đổi, chúng ta thấy cần có sự cộng tác chặt chẽ hơn giữa các chuyên gia y tế đang hoạt động tại các nhà thương và trung tâm y tế với các cộng đoàn Giáo Hội hiện diện trong lãnh thổ địa phương. Trong viễn tượng này, một tổ chức có liên hệ với Tòa Thánh được xác nhận trọn vẹn giá trị, đó là Nhà Thương Nhi Đồng Chúa Hài Đồng Giêsu, năm nay đang kỷ niệm 140 năm thành lập.
Cũng cần nói thêm. Vì trẻ em bệnh nhân thuộc về một gia đình và gia đình này cũng chịu đau khổ với em và thường phải chịu nhiều khó khăn và cơ cực, nên các cộng đồng Kitô không thể không giúp đỡ các gia đình đang phải mang gánh nặng vì người con đau yếu của mình. Theo gương người Samaritano nhân lành, chúng ta cần cúi mình xuống trên những người đang bị thử thách nặng nề, và nâng đỡ họ bằng tình liên đới cụ thể. Như thế, việc chấp nhận và chia sẻ đau khổ được biểu lộ qua sự nâng đỡ hữu ích dành cho các gia đình có trẻ em đau yếu, kiến tạo nơi họ một bầu không khí thanh thản và hy vọng, giúp họ cảm thấy chung quanh mình một gia đình rộng lớn gồm các anh chị em trong Chúa Kitô. Sự cảm thương của Chúa Giêsu đối với những dòng lệ của bà góa thành Naim (cf Lc 7,12-17) và đối với lời cầu nguyện tha thiết của Ông Giairô (cf Lc 8,41-56) chính là những điểm tham chiếu hữu ích, trong số những điều khác nữa, để học cách chia sẻ những tình cảnh cơ cực về thể lý và tinh thần của bao nhiêu gia đình phải chịu. Tất cả những điều đó đòi phải có một tình yêu thương vô vị lợi và quảng đại, phản ánh và là dấu chỉ lòng từ bi yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài trong thử thách, nhưng luôn tái cung cấp cho họ những nguồn lực tuyệt vời trong tâm trí để có thể đương đầu thích hợp với những khó khăn trong cuộc sống.
”Sự tận tụy hằng ngày và dấn thân không ngừng để phục vụ các trẻ em bệnh tật chính là một chứng tá hùng hồn về lòng yêu mến sự sống con người, đặc biệt là đối với sự sống của người yếu đuối, hoàn toàn tùy thuộc người khác. Thực vậy, cần mạnh mẽ khẳng định phẩm giá tuyệt đối và cao cả của mọi sinh mạng con người
Ở đây tôi muốn bày tỏ lòng quí chuộng và khích lệ các Tổ chức Quốc tế và Quốc gia đang quảng đại và hy sinh chăm sóc các trẻ em bệnh nhân, đặc biệt là tại các nước nghèo, góp phần đảm bảo cho các em được chăm sóc thích đáng và với lòng yêu thương. Đồng thời tôi cũng tha thiết kêu gọi các vị hữu trách của các quốc gia hãy tăng cường các đạo luật và những biện pháp giúp đỡ các trẻ em bệnh nhân và gia đình các em. Về phần mình, nhất là khi liên hệ tới cuộc sống của các em, Giáo Hội luôn sẵn sàng đóng góp sự cộng tác hăng say với ý hướng biến đổi toàn thể nền văn minh của nhân loại thành 'nền văn minh tình thương' (cf Khổ đau cứu độ, 30).
Để kết luận, tôi muốn bày tỏ sự gần gũi tinh thần với tất cả anh chị em là những người đang chịu đau khổ vì bệnh tật. Tôi thân ái gửi lời chào thăm tất cả những người đang giúp đỡ anh chị em: các Giám Mục, các linh Mục, những người thánh hiến, các nhân viên y tế, những người thiện nguyện và tất cả những ngừơi đang xả thân trong tình yêu thương để săn sóc và thoa dịu đau khổ của những người đang bị bệnh tật. Hỡi các em nhỏ đang chịu bệnh tật và đau khổ, Cha đặc biệt chào thăm các con: Cha ôm lấy tất cả các con trong tình yêu thương phụ tử cùng với cha mẹ và những người thân của các con, và Cha cam đoan đặc biệt nhớ đến các con trong kinh nguyện, mời gọi các con hãy tín thác nơi sự phù trợ từ mẫu của Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm, Đấng mà trong lễ Giáng Sinh vừa qua, chúng ta đã chiêm ngưỡng Mẹ đang vui mừng ôm lấy Con Thiên Chúa trở thành hài nhi. Cha cầu xin Mẹ Maria Chí Thánh bảo vệ các con và mọi bệnh nhân trong tình hiền mẫu của Mẹ, là Sức Khỏe của các bệnh nhân, và Cha thành tâm ban phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho tất cả.
Vatican ngày 2-2-2009
Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(Trần Đức Anh OP chuyển ý)
Truyền thông Mã Lai mở chiến dịch lăng mạ tờ tạp chí Công Giáo Herald
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
16:42 07/02/2009
Kuala Lumpur (AsiaNews) - Tờ tạp chí Công Giáo của Giáo Phận Kuala Lumpur, tờ Herald đang phải chịu đựng một chiến dịch lăng mạ và chỉ trích vì sử lụng từ “Allah”. Cuộc tấn công đang diễn ra đến từ nhiều tờ báo của Mã Lai, đặc biệt là Utusan Malaysia, tờ báo quốc gia. Mới đây, từ ngày 01/02, Utusan đã cho đăng các bài báo hằng ngày để lăng mạ tờ tạp chí Công Giáo và cáo buộc cải đạo, cố khuấy động sự xúc phạm trong người Hồi giáo qua việc sử dụng từ “Allah” khi đề cập đến Thiên Chúa Kitô giáo cũng như cáo buộc việc xuất bản muốn làm tổn hại đến đất nước.
Đức Cha Murphy Nicholas Xavier Pakiam, Tổng Giám Mục thủ đô, đã đưa ra một tuyên bố trong đó nói rằng giáo phận và tạp chí “sẽ không đưa ra bất kỳ bình luận nào” về chiến dịch trên báo chí cho đến khi “phán quyết của Tối cao Pháp Viện sẽ được đưa ra vào thời điểm thích hợp”.
Việc ngăn cấm sử dụng từ “Allah” được đưa ra hơn một năm trước, và Herald có nguy cơ bị đóng cửa nếu tờ này không tuân theo phán quyết của Bộ An Ninh Nội Địa, họ cho rằng việc sử dụng từ này là có khả năng là nguồn gốc gây nhầm lẫn cho người Hồi giáo và làm xung đột giữa hai cộng đồng.
Giáo phận đã kiện chính phủ và đang chờ tuyên án từ Tối Cao Pháp Viện vì cho rằng lệnh cấm vi phạm tự do tôn giáo và tự do tư tưởng được Hiến pháp bảo đảm.
Theo các quan sát viên, chiến dịch truyền thông chống lại Herald nhằm mục đích khiêu khích các Kitô hữu để tạo ra căng thẳng và xung đột để ủng hộ lập trường của Bộ An Ninh Nội Địa.
Các viện sĩ hàn lâm và các chính trị gia đã nhắc lại lưu ý rằng việc sử dụng từ “Allah” trong bộ phận các Kitô hữu có từ lâu trước cả thời Mohammed, và ở Indônêsia, một quốc gia đa số người Hồi giáo láng giềng, đã sử dụng từ này trong nhiều thế kỷ để đề cập đến Thiên Chúa Kitô giáo mà không gây ra bất kỳ phẫn nộ nào.
Đức Cha Murphy Nicholas Xavier Pakiam, Tổng Giám Mục thủ đô, đã đưa ra một tuyên bố trong đó nói rằng giáo phận và tạp chí “sẽ không đưa ra bất kỳ bình luận nào” về chiến dịch trên báo chí cho đến khi “phán quyết của Tối cao Pháp Viện sẽ được đưa ra vào thời điểm thích hợp”.
Việc ngăn cấm sử dụng từ “Allah” được đưa ra hơn một năm trước, và Herald có nguy cơ bị đóng cửa nếu tờ này không tuân theo phán quyết của Bộ An Ninh Nội Địa, họ cho rằng việc sử dụng từ này là có khả năng là nguồn gốc gây nhầm lẫn cho người Hồi giáo và làm xung đột giữa hai cộng đồng.
Giáo phận đã kiện chính phủ và đang chờ tuyên án từ Tối Cao Pháp Viện vì cho rằng lệnh cấm vi phạm tự do tôn giáo và tự do tư tưởng được Hiến pháp bảo đảm.
Theo các quan sát viên, chiến dịch truyền thông chống lại Herald nhằm mục đích khiêu khích các Kitô hữu để tạo ra căng thẳng và xung đột để ủng hộ lập trường của Bộ An Ninh Nội Địa.
Các viện sĩ hàn lâm và các chính trị gia đã nhắc lại lưu ý rằng việc sử dụng từ “Allah” trong bộ phận các Kitô hữu có từ lâu trước cả thời Mohammed, và ở Indônêsia, một quốc gia đa số người Hồi giáo láng giềng, đã sử dụng từ này trong nhiều thế kỷ để đề cập đến Thiên Chúa Kitô giáo mà không gây ra bất kỳ phẫn nộ nào.
Vatican công nhận Dòng Linh Mục Thừa Sai Á Châu đầu tiên
Bùi Hữu Thư
19:31 07/02/2009
Vatican công nhận Dòng Linh Mục Thừa Sai Á Châu đầu tiên
Được thành lập năm 1965; đang hoạt động tại 13 quốc gia
MANILA, Phi Luật Tân, ngày 6 tháng 2, 2009 (Zenit.org).- Tòa Thánh công nhận Dòng Truyền Giáo Phi Luật Tân, một dòng linh mục thừa sai đầu tiên được thành lập tại Á Châu, và hiện nay đang hiện diện tại 13 quốc gia.
Cơ quan truyền thông Á Châu AsiaNews thông báo là Đức Hồng Y Ivan Dias, bộ trưởng Thánh Bộ Rao Giảng Tin Mừng đã ký sắc lệnh Tòa Thánh.
Đức Hồng Y Ivan Dias |
Dòng Truyền Giáo Phi Luật Tân (MSP) được các giám mục quốc gia này thành lập năm 1965, vào năm kỷ niệm 400 năm quốc gia này được truyền giáo. Mục đích của họ là để “bầy tỏ một cách cụ thể lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho họ ân sủng đức tin, và chia sẻ đức tin này cho các dân nước Á Châu và toàn thế giới."
Với sự công nhận này được công bố ngày 30 tháng 1, 2009, trong phiên họp khoáng đại lần thứ bẩy cuả hội dòng MSP, họ đã trở nên một “Hội Dòng Đời Sống Tông Đồ cho Sứ Vụ Muôn Dân dưới Quyền Tòa Thánh (Society of Apostolic Life for mission ad gentes of Pontifical Right) dưới quyền cai quản của Tòa Thánh thay vì các giám mục sở tại.
Theo luật dòng này, sứ mệnh của MSP nhắm trực tiếp vào các làng mạc Á Châu, tới những vùng không được Kitô hóa, nơi các Giáo Hội trẻ trung mới mẻ cần được giúp đỡ nhiều nhất.
Một trong các mục tiêu khác là làm cho các người di dân Phi Luật Tân ý thức được ơn gọi truyền giáo của họ, để giúp họ tham gia và trở nên những công cụ truyền giáo.
Hội dòng MSP có trên 70 thành viên đang hoạt động tại các quốc gia Á Châu: Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, và Nam Hàn, cũng như tại Hoa Kỳ, Úc, Hòa Lan, và Anh.
Tại Á Châu có năm hội dòng tương tự, mặc dầu dưới quyền của các Giáo Hội điạ phương: có một hội dòng khác tại Phi Luật Tân, một hội dòng tại Nam Hàn và Thái Lan, và hai hội dòng khác tại Ấn Độ.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Họ Tầm Ngân - Giáo xứ Sông Pha – Xuân Phước lộc
LM Hải Sông Pha
06:17 07/02/2009
NHA TRANG - Để cho niềm vui xuân Kỷ Sửu được trọn vẹn, lúc 9 giờ 30, thứ Bảy 31.01.2009 nhằm ngày mồng 6 Tết, Cha Hạt Trưởng Ninh Thuận Giuse Võ Quý đã thay mặt hai Đức Cha giáo phận đến thăm Tết, làm phép sân phơi nông sản cho buôn làng, khánh thành nhà xứ, nhà trẻ đồng thời cử hành nghi thức động thổ và chúc lành cho công trình xây dựng nhà thờ giáo họ Tầm Ngân thuộc giáo xứ Sông Pha, hạt Ninh Thuận giáo phận Nha Trang.
Mặc dù trời vùng cao khá lạnh nhưng từ sáng sớm bà con buôn làng Tầm Ngân đã tề tựu tại chân cầu treo đầy ấn tượng vùng sâu để chào đón Cha Hạt Trưởng, Quý Cha trong vùng Ninh Sơn, Quý Ân nhân và quan khách.
Bầu khí đón tiếp thật long trọng và nhộn nhịp với sự góp mặt của Đội Kèn Đồng Giáo xứ Lạc Viên, hạt Đơn Dương, giáo phận Đà Lạt.
Qua bao năm nhọc nhằn, hai Cha chính và phó, đặc biệt Cha chính Xứ, đã đem hết tâm sức chạy chỗ nầy, tìm chỗ nọ để nhờ tình Chúa thương qua bàn tay rộng mở của các ân nhân mà hôm nay buôn làng Tầm Ngân hoàn thành được nhà xứ, nhà trẻ và sân phơi nông sản, hứa hẹn một cuộc sống đạo đời thắm đượm tình Chúa ình người…
Mặc dù trời vùng cao khá lạnh nhưng từ sáng sớm bà con buôn làng Tầm Ngân đã tề tựu tại chân cầu treo đầy ấn tượng vùng sâu để chào đón Cha Hạt Trưởng, Quý Cha trong vùng Ninh Sơn, Quý Ân nhân và quan khách.
Bầu khí đón tiếp thật long trọng và nhộn nhịp với sự góp mặt của Đội Kèn Đồng Giáo xứ Lạc Viên, hạt Đơn Dương, giáo phận Đà Lạt.
Qua bao năm nhọc nhằn, hai Cha chính và phó, đặc biệt Cha chính Xứ, đã đem hết tâm sức chạy chỗ nầy, tìm chỗ nọ để nhờ tình Chúa thương qua bàn tay rộng mở của các ân nhân mà hôm nay buôn làng Tầm Ngân hoàn thành được nhà xứ, nhà trẻ và sân phơi nông sản, hứa hẹn một cuộc sống đạo đời thắm đượm tình Chúa ình người…
Hội đồng hương Dinh Cát ( Quảng Trị ) họp mặt truyền thống lần thứ XXI.
LM Anrê Lê Văn Hải
15:39 07/02/2009
Trời cuối đông hiu hắt nhè nhẹ mưa
Gió đầu xuân man mác khe khẻ đưa,
Nhớ quê cũ lấy chi đền đáp đủ
Thấm tình xưa làm sao nói cho vừa!
Sáng Chúa Nhật 07 tháng Giêng Kỷ Sửu ( 01. 02. 2009) người đồng hương Công giáo Quảng Trị từ Ninh Thuận trở vào Tp HCM và các tỉnh miền nam lại hội tụ với nhau tại nhà thờ Fatima, giáo xứ Bình Triệu, hạt Thủ Đức, Tp HCM để hướng về cội nguồn Quảng Trị, luyến nhớ Mẹ La Vang, hồi tưởng công đức tiền nhân, tri ân bậc sinh thành, sẻ chia tình đồng hương, chung vui niềm xuân mới…
Khoảng 9 giờ, trên 200 bà con gốc Dinh Cát hội tụ tại hội trường lộ thiên của nhà thờ Fatima, tay bắt mặt mừng cùng với muôn cung giọng chốn xưa: này eng, này ả… mô, tê, mần chi, răng rứa, chi ri… thật là đận đà bản sắc Quảng trị…
Hiện diện trong dịp này cũng như mọi năm,có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, gốc Thạch Hản, Giám mục Phụ tá giáo phận Bùi Chu. Cha Giacôbê Bùi Chung, cha Anrê Lê Văn Hải, gốc Trí Bưu. Cha Gioan. B Nguyễn Vinh, Cha Giuse Trần Văn Lộc và các bậc cao niên như cụ Lê Thị Lành 99 tuổi gốc Trí Bưu, cụ Lê Cơ 88 tuổi, gốc Thạch Hản cùng mọi thành phần tuổi tác từ bậc đáng kính đến trẻ ấu thơ chưa một lần nghe nói đến danh xưng Quảng trị hay cội nguồn Dinh Cát…10 giờ, mọi người vào nhà thờ cùng hiệp thông với đoàn đồng tế do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ sự nghi thức kính nhớ tổ tiên theo truyền thống dân tộc và dâng Thánh lễ nhớ về quê cũ chốn xưa đồng thời cầu bình an cho mọi người cùng một cội nguồn Dinh Cát, Quảng trị đang tha hương trên mọi miền đất nước cũng như ở hải ngoại.
11 giờ người người, nhà nhà chung chia tiệc vui xuân với đủ màu sắc Hái lộc đầu xuân, xen kẻ những tiết mục văn nghệ đơn ca, song ca, tam ca, vũ múa chào xuân của cha Nguyễn Vinh, nhạc sĩ Nguyễn An, các đệ tử thuộc cộng đoàn Con Đức Mẹ Đi Viếng Bình Triệu – Huế đột xuất phục vụ đầy hứng khởi, hoặc những mẫu chuyện hài hước, những lời bình luận dí dỏm được Đức cha Phêrô, cha Anrê Lê Văn Hải và các anh trong ban tổ chức: Lê Cần, Lê Phi, Lê văn Chương, Lê Viết Tòa… bộc bạch chân tình làm cho tình đồng hương thêm nồng ấm, rôm rã tiếng vui cười như tiếng pháo năm nao !!! Trong tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” người người rộng tay lỳ xì cho chương trình “Ơn Gọi Linh Mục,Tu sĩ nam nữ”để mong phần nào vơi bớt nỗi trăn trở bao năm xa quê âu cũng là cách làm đẹp cho chốn cũ Dinh Cát được hồi sinh và triển nở trên mọi miền đất nước…
13 giờ cùng ngày, mọi người chia tay trong tâm tình luyến tiếc đồng thời hẹn nhau ngày tái ngộ vào xuân Canh Dần mồng 8 tháng Giêng ( 21/2/2010). LM Anrê Lê Văn Hải (anrehai@gmail.com)
Gió đầu xuân man mác khe khẻ đưa,
Nhớ quê cũ lấy chi đền đáp đủ
Thấm tình xưa làm sao nói cho vừa!
Sáng Chúa Nhật 07 tháng Giêng Kỷ Sửu ( 01. 02. 2009) người đồng hương Công giáo Quảng Trị từ Ninh Thuận trở vào Tp HCM và các tỉnh miền nam lại hội tụ với nhau tại nhà thờ Fatima, giáo xứ Bình Triệu, hạt Thủ Đức, Tp HCM để hướng về cội nguồn Quảng Trị, luyến nhớ Mẹ La Vang, hồi tưởng công đức tiền nhân, tri ân bậc sinh thành, sẻ chia tình đồng hương, chung vui niềm xuân mới…
Khoảng 9 giờ, trên 200 bà con gốc Dinh Cát hội tụ tại hội trường lộ thiên của nhà thờ Fatima, tay bắt mặt mừng cùng với muôn cung giọng chốn xưa: này eng, này ả… mô, tê, mần chi, răng rứa, chi ri… thật là đận đà bản sắc Quảng trị…
Hiện diện trong dịp này cũng như mọi năm,có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, gốc Thạch Hản, Giám mục Phụ tá giáo phận Bùi Chu. Cha Giacôbê Bùi Chung, cha Anrê Lê Văn Hải, gốc Trí Bưu. Cha Gioan. B Nguyễn Vinh, Cha Giuse Trần Văn Lộc và các bậc cao niên như cụ Lê Thị Lành 99 tuổi gốc Trí Bưu, cụ Lê Cơ 88 tuổi, gốc Thạch Hản cùng mọi thành phần tuổi tác từ bậc đáng kính đến trẻ ấu thơ chưa một lần nghe nói đến danh xưng Quảng trị hay cội nguồn Dinh Cát…10 giờ, mọi người vào nhà thờ cùng hiệp thông với đoàn đồng tế do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ sự nghi thức kính nhớ tổ tiên theo truyền thống dân tộc và dâng Thánh lễ nhớ về quê cũ chốn xưa đồng thời cầu bình an cho mọi người cùng một cội nguồn Dinh Cát, Quảng trị đang tha hương trên mọi miền đất nước cũng như ở hải ngoại.
11 giờ người người, nhà nhà chung chia tiệc vui xuân với đủ màu sắc Hái lộc đầu xuân, xen kẻ những tiết mục văn nghệ đơn ca, song ca, tam ca, vũ múa chào xuân của cha Nguyễn Vinh, nhạc sĩ Nguyễn An, các đệ tử thuộc cộng đoàn Con Đức Mẹ Đi Viếng Bình Triệu – Huế đột xuất phục vụ đầy hứng khởi, hoặc những mẫu chuyện hài hước, những lời bình luận dí dỏm được Đức cha Phêrô, cha Anrê Lê Văn Hải và các anh trong ban tổ chức: Lê Cần, Lê Phi, Lê văn Chương, Lê Viết Tòa… bộc bạch chân tình làm cho tình đồng hương thêm nồng ấm, rôm rã tiếng vui cười như tiếng pháo năm nao !!! Trong tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” người người rộng tay lỳ xì cho chương trình “Ơn Gọi Linh Mục,Tu sĩ nam nữ”để mong phần nào vơi bớt nỗi trăn trở bao năm xa quê âu cũng là cách làm đẹp cho chốn cũ Dinh Cát được hồi sinh và triển nở trên mọi miền đất nước…
13 giờ cùng ngày, mọi người chia tay trong tâm tình luyến tiếc đồng thời hẹn nhau ngày tái ngộ vào xuân Canh Dần mồng 8 tháng Giêng ( 21/2/2010). LM Anrê Lê Văn Hải (anrehai@gmail.com)
Hữu Tiệm “trình làng” trong tư cách là tân giáo xứ
Nguyên Vũ
15:52 07/02/2009
KIẾN XƯƠNG, Thái Bình – Một cuộc rước “Sắc phong” hoành tráng và Thánh lễ Tạ ơn được tổ chức long trọng để ra mắt với làng nước trong vị thế mới. Hữu Tiệm như muốn trình với muôn dân rằng: Tôi thật diễm phúc, từ nay người ta sẽ gọi tôi là một giáo xứ.
Hữu Tiệm là một trong 5 giáo họ vừa được Đức giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang ban sắc nâng lên hàng giáo xứ theo Giáo Luật hôm 21/1/2009, dịp lễ bế mạc năm Hồng Đào và khai mạc năm Giáo dục Gia đình Kitô giáo tại Nhà thờ Chính Toà ở Thành phố Thái Bình.
Sau 10 ngày chuẩn bị cho buổi ra mắt, hôm nay 31/1/2009, Tân giáo xứ Hữu Tiệm đã hân hoan đón mừng sắc phong. Mừng vì được nâng lên vị thế ngang hàng với giáo xứ mẹ Cao Mại và với tất cả các giáo xứ trong toàn Giáo phận. Như lời thơ mừng của Lm xứ Cao Mại Hier.Nguyễn Văn Đạo:
“Kỷ Sửu xuân sang đẹp đất trời,
Cờ bay điện sáng khắp nơi nơi,
Giáo dân phấn khởi không quên được,
Hội Thánh vinh quang lớn mạnh rồi,
Hữu Tiệm nay lên tân giáo xứ,
Quê nhà Cao Mại sống yên vui”
Sắc phong được Đức Giám mục giáo phận trao cho Cha chánh xứ Cao Mại và đại diện Tân giáo xứ Hữu Tiệm tại Nhà thờ Chính Toà. Mở đầu cho sự kiện trọng đại này, giáo xứ đã tổ chức một cuộc rước kiệu hình ảnh Lòng Chúa Thương Xót và bản sắc phong từ Nhà thờ Cao Mại đến Nhà thờ Tân giáo xứ Hữu Tiệm. Đoàn rước kiệu kéo dài khoảng 500 mét, bao gồm các đoàn thể công giáo tiến hành, trống, kèn,… Mỗi người đi trong đoàn rước đều cầm trên tay một bông hoa dơn. Đường rước vòng vèo lượn quanh dài khoảng 2km, đi qua cánh đồng, khu dân cư đông đúc, trường học, trạm xá, đình chùa, chợ, cầu và con đường làng quen thuộc của người dân.
Thánh lễ diễn ra tại sân khấu tượng đài Đức Mẹ ở cuối Nhà thờ Hữu Tiệm, mọi người quây quần xung quanh, giữa ánh nắng xuân chiếu nhẹ, đủ làm ấm và hồng má các em thơ và gương mặt trẻ trung của các thiếu nữ. Đến tham dự buổi lễ có đủ mọi thành phần tham dự. Ngoài số lượng đông đảo của cộng đoàn dân Chúa xa gần, còn có cả các Tăng ni Phật tử, các vị hiệu trưởng của các trường phổ thông tại địa phương, quý vị đại diện đình làng và chính quyền các cấp. Quý khách đã mang theo những lãng hoa tươi thắm để chúc mừng Tân giáo xứ, họ cũng ngồi tham dự cho đến hết Thánh lễ và sau đó cùng dự tiệc mừng với Tân giáo xứ.
Cha Hier.Nguyễn Văn Đạo, chánh xứ Cao Mại và quản nhiệm Tân giáo xứ, đã giới thiệu và chúc mừng bằng một bài thơ do chính ngài sáng tác. Sau đó, Thánh lễ được bắt đầu do Cha Đaminh Đặng Văn Cầu, Tổng đại diện Giáo phận chủ tế cùng với 10 Linh mục đồng tế.
Trong lời mời gọi đầu Thánh lễ, Cha Tổng đại diện nói: tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, không phân biệt tôn giáo và đẳng cấp xã hội. Bởi vì chúng ta cùng được hưởng chung ánh nắng, cùng hít thở chung một bầu không khí của Đấng Tối Cao ban tặng, Đấng đó chính là Thượng Đế. Cha cũng nguyện chúc cho Tân giáo xứ và tất cả mọi người được đoàn kết, yêu thương nhau, chung tay xây dựng quê hương đất nước ngày càng tươi đẹp hơn. Chia sẻ trong thánh lễ là Đức Ông Hier.Nguyễn Phúc Hạnh, nguyên Tổng đại diện giáo phận. Đức Ông nhấn mạnh rằng: mối quan hệ tình làng nghĩa xóm của chúng ta sẽ vững bền và cao trọng hơn khi chúng ta là đồng bào, là anh chị em với nhau trong Đức Giêsu Kitô. Bởi chỉ trong Người, chúng ta mới có tình yêu đích thực.
Tân giáo xứ Hữu Tiệm toạ lạc tại thôn Nam Tiến, xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nhà thờ Hữu Tiệm cách Toà Giám mục Thái Bình khoảng 18km về hướng đông nam, và cách Nhà thờ xứ mẹ Cao Mại khoảng 1km về phía đông bắc.
Hữu Tiệm không chỉ là vùng đất màu mỡ để người dân canh tác nông nghiệp, mà còn là mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin Mừng gieo vào và mọc lên tươi tốt. Thời kỳ đầu, khi mảnh đất này mới đón nhận Tin Mừng, số tín hữu còn rất ít; nhưng chỉ một thời gian sau, số giáo dân ở đây đã gia tăng nhanh chóng và cho đến hôm nay, Hữu Tiệm đã trở thành một cộng đoàn lớn mạnh với số nhân danh là 840 người.
Theo sách Kỷ yếu Giáo phận Thái Bình, giáo họ Hữu Tiệm được thành lập năm 1692 thuộc về giáo xứ Cao Mại. Giáo họ nhận song thân của Đức Trinh Nữ Maria là hai thánh Gioakim và Anna làm thánh quan thầy, với số tín hữu lúc đó là 314 người. Năm 1885, ngôi nhà thờ đầu tiên được dựng bằng gỗ lim, năm 1906 được đại tu lại. Nhà thờ thứ hai được xây dựng vào năm1994 trên nền nhà thờ cũ, năm 2008, được mở rộng và đại tu nhà thờ để đáp ứng cho nhu cầu của cộng đoàn.
Ông Gioakim Phạm Văn Chương, trùm chánh Tân giáo xứ Hữu Tiệm, cho biết trong bữa tiệc mừng này, mỗi gia đình trong giáo xứ cử một người đại diện để tham dự. Ông nói, Hội đồng Mục Vụ đã bỏ nhiều thời gian trước Tết để đi đến tận nơi làm ăn của những người con quê hương giáo xứ đang sinh sống và làm việc ở khắp các tỉnh thành trong cả nước để mời về dự lễ. Ông còn cho biết, để chuẩn bị về mặt thiêng liêng, giáo xứ đã tổ chức chầu Thánh Thể, vận động mọi người xưng tội rước lễ để đón mừng ngày lễ, và mỗi gia đình dựng một cột cờ Hội Thánh để hiệp mừng.
Anh Gioakim Phạm Văn Thiệp đang làm ăn sinh sống ở Hà Nội đã về mừng lễ và cộng tác trong việc tổ chức ngày trọng đại này. Anh cho biết, trong giáo xứ có 150 thanh niên nam nữ đang làm ăn ở nơi xa cũng như tại quê nhà đã đóng góp được 30 triệu đồng để chi phí cho sự kiện này. Cũng chính thanh niên trong giáo xứ đứng ra lo trang trí, dựng cột cờ, căng khẩu hiệu. Vào buổi tối hôm trước, giới trẻ giáo xứ đã tổ chức chương trình văn nghệ gây quỹ trùng tu nhà thờ, và để thể hiện sự vui mừng của mình, họ đã cho thả tới 300 chiếc đèn trời. Cũng với giọng đầy vẻ phấn chấn, anh Gioakim Thiệp nói tiếp: “Để đón mừng sự kiện lịch sử này của Tân giáo xứ, những người đi làm ăn xa như chúng tôi đều về đông đủ, không thiếu một ai”.
Hữu Tiệm là một trong 5 giáo họ vừa được Đức giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang ban sắc nâng lên hàng giáo xứ theo Giáo Luật hôm 21/1/2009, dịp lễ bế mạc năm Hồng Đào và khai mạc năm Giáo dục Gia đình Kitô giáo tại Nhà thờ Chính Toà ở Thành phố Thái Bình.
Sau 10 ngày chuẩn bị cho buổi ra mắt, hôm nay 31/1/2009, Tân giáo xứ Hữu Tiệm đã hân hoan đón mừng sắc phong. Mừng vì được nâng lên vị thế ngang hàng với giáo xứ mẹ Cao Mại và với tất cả các giáo xứ trong toàn Giáo phận. Như lời thơ mừng của Lm xứ Cao Mại Hier.Nguyễn Văn Đạo:
“Kỷ Sửu xuân sang đẹp đất trời,
Cờ bay điện sáng khắp nơi nơi,
Giáo dân phấn khởi không quên được,
Hội Thánh vinh quang lớn mạnh rồi,
Hữu Tiệm nay lên tân giáo xứ,
Quê nhà Cao Mại sống yên vui”
Sắc phong được Đức Giám mục giáo phận trao cho Cha chánh xứ Cao Mại và đại diện Tân giáo xứ Hữu Tiệm tại Nhà thờ Chính Toà. Mở đầu cho sự kiện trọng đại này, giáo xứ đã tổ chức một cuộc rước kiệu hình ảnh Lòng Chúa Thương Xót và bản sắc phong từ Nhà thờ Cao Mại đến Nhà thờ Tân giáo xứ Hữu Tiệm. Đoàn rước kiệu kéo dài khoảng 500 mét, bao gồm các đoàn thể công giáo tiến hành, trống, kèn,… Mỗi người đi trong đoàn rước đều cầm trên tay một bông hoa dơn. Đường rước vòng vèo lượn quanh dài khoảng 2km, đi qua cánh đồng, khu dân cư đông đúc, trường học, trạm xá, đình chùa, chợ, cầu và con đường làng quen thuộc của người dân.
Thánh lễ diễn ra tại sân khấu tượng đài Đức Mẹ ở cuối Nhà thờ Hữu Tiệm, mọi người quây quần xung quanh, giữa ánh nắng xuân chiếu nhẹ, đủ làm ấm và hồng má các em thơ và gương mặt trẻ trung của các thiếu nữ. Đến tham dự buổi lễ có đủ mọi thành phần tham dự. Ngoài số lượng đông đảo của cộng đoàn dân Chúa xa gần, còn có cả các Tăng ni Phật tử, các vị hiệu trưởng của các trường phổ thông tại địa phương, quý vị đại diện đình làng và chính quyền các cấp. Quý khách đã mang theo những lãng hoa tươi thắm để chúc mừng Tân giáo xứ, họ cũng ngồi tham dự cho đến hết Thánh lễ và sau đó cùng dự tiệc mừng với Tân giáo xứ.
Cha Hier.Nguyễn Văn Đạo, chánh xứ Cao Mại và quản nhiệm Tân giáo xứ, đã giới thiệu và chúc mừng bằng một bài thơ do chính ngài sáng tác. Sau đó, Thánh lễ được bắt đầu do Cha Đaminh Đặng Văn Cầu, Tổng đại diện Giáo phận chủ tế cùng với 10 Linh mục đồng tế.
Trong lời mời gọi đầu Thánh lễ, Cha Tổng đại diện nói: tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, không phân biệt tôn giáo và đẳng cấp xã hội. Bởi vì chúng ta cùng được hưởng chung ánh nắng, cùng hít thở chung một bầu không khí của Đấng Tối Cao ban tặng, Đấng đó chính là Thượng Đế. Cha cũng nguyện chúc cho Tân giáo xứ và tất cả mọi người được đoàn kết, yêu thương nhau, chung tay xây dựng quê hương đất nước ngày càng tươi đẹp hơn. Chia sẻ trong thánh lễ là Đức Ông Hier.Nguyễn Phúc Hạnh, nguyên Tổng đại diện giáo phận. Đức Ông nhấn mạnh rằng: mối quan hệ tình làng nghĩa xóm của chúng ta sẽ vững bền và cao trọng hơn khi chúng ta là đồng bào, là anh chị em với nhau trong Đức Giêsu Kitô. Bởi chỉ trong Người, chúng ta mới có tình yêu đích thực.
Tân giáo xứ Hữu Tiệm toạ lạc tại thôn Nam Tiến, xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nhà thờ Hữu Tiệm cách Toà Giám mục Thái Bình khoảng 18km về hướng đông nam, và cách Nhà thờ xứ mẹ Cao Mại khoảng 1km về phía đông bắc.
Hữu Tiệm không chỉ là vùng đất màu mỡ để người dân canh tác nông nghiệp, mà còn là mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin Mừng gieo vào và mọc lên tươi tốt. Thời kỳ đầu, khi mảnh đất này mới đón nhận Tin Mừng, số tín hữu còn rất ít; nhưng chỉ một thời gian sau, số giáo dân ở đây đã gia tăng nhanh chóng và cho đến hôm nay, Hữu Tiệm đã trở thành một cộng đoàn lớn mạnh với số nhân danh là 840 người.
Theo sách Kỷ yếu Giáo phận Thái Bình, giáo họ Hữu Tiệm được thành lập năm 1692 thuộc về giáo xứ Cao Mại. Giáo họ nhận song thân của Đức Trinh Nữ Maria là hai thánh Gioakim và Anna làm thánh quan thầy, với số tín hữu lúc đó là 314 người. Năm 1885, ngôi nhà thờ đầu tiên được dựng bằng gỗ lim, năm 1906 được đại tu lại. Nhà thờ thứ hai được xây dựng vào năm1994 trên nền nhà thờ cũ, năm 2008, được mở rộng và đại tu nhà thờ để đáp ứng cho nhu cầu của cộng đoàn.
Ông Gioakim Phạm Văn Chương, trùm chánh Tân giáo xứ Hữu Tiệm, cho biết trong bữa tiệc mừng này, mỗi gia đình trong giáo xứ cử một người đại diện để tham dự. Ông nói, Hội đồng Mục Vụ đã bỏ nhiều thời gian trước Tết để đi đến tận nơi làm ăn của những người con quê hương giáo xứ đang sinh sống và làm việc ở khắp các tỉnh thành trong cả nước để mời về dự lễ. Ông còn cho biết, để chuẩn bị về mặt thiêng liêng, giáo xứ đã tổ chức chầu Thánh Thể, vận động mọi người xưng tội rước lễ để đón mừng ngày lễ, và mỗi gia đình dựng một cột cờ Hội Thánh để hiệp mừng.
Anh Gioakim Phạm Văn Thiệp đang làm ăn sinh sống ở Hà Nội đã về mừng lễ và cộng tác trong việc tổ chức ngày trọng đại này. Anh cho biết, trong giáo xứ có 150 thanh niên nam nữ đang làm ăn ở nơi xa cũng như tại quê nhà đã đóng góp được 30 triệu đồng để chi phí cho sự kiện này. Cũng chính thanh niên trong giáo xứ đứng ra lo trang trí, dựng cột cờ, căng khẩu hiệu. Vào buổi tối hôm trước, giới trẻ giáo xứ đã tổ chức chương trình văn nghệ gây quỹ trùng tu nhà thờ, và để thể hiện sự vui mừng của mình, họ đã cho thả tới 300 chiếc đèn trời. Cũng với giọng đầy vẻ phấn chấn, anh Gioakim Thiệp nói tiếp: “Để đón mừng sự kiện lịch sử này của Tân giáo xứ, những người đi làm ăn xa như chúng tôi đều về đông đủ, không thiếu một ai”.
Mong ước về một ngôi nhà thờ khang trang hơn cho làng phong cùi Vân Môn ở Thái Bình
Cát Sạn
15:59 07/02/2009
VŨ THƯ, Thái Bình -- Mỗi mùa xuân về, cả giáo phận Thái Bình có thói quen cùng hướng về anh chị em bệnh nhân ở khu điều trị phong Vân Môn. Đến hẹn lại lên, dòng người từ các ngả đường đi về đây như điểm hẹn, mang theo trái tim hồng để trao ban, để chia sẻ niềm đau, cầu nguyện cho các bệnh nhân và hiệp thông với nỗi khát khao của họ về một ngôi nhà thờ khang trang rộng lớn hơn.
Thánh lễ đầu năm Kỷ Sửu 2009 đã diễn ra hôm 29-1, tức ngày mồng 4 Tết tại nhà thờ giáo họ Đông Thọ, giáo họ của làng phong cùi tồn tại hàng trăm năm qua. Nếu tôi không lầm thì đây là lần đầu tiên Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, giám mục Thái Bình, chủ sự Thánh lễ đồng tế ở bên trong ngôi nhà thờ nhỏ bé và chật hẹp này. Có 18 linh mục, đông đảo nam nữ Tu sĩ trong cũng như ngoài giáo phận và hàng ngàn Giáo dân đến hiệp dâng Thánh lễ với các bệnh nhân ở đây.
Thói quen tốt lành dâng lễ đầu năm tại trại phong Vân Môn là sáng kiến của Đức cha Sang kể từ khi ngài về coi sóc Giáo phận Thái Bình năm 1991. Từ đó đến nay, không năm nào ngài lại không mời gọi mọi người và chính ngài cũng đích thân đến dâng lễ. Hầu hết Thánh lễ mọi năm đều diễn ra ở bên ngoài nhà thờ vì lượng người tham dự khá đông, mặc cho thời tiết gió rét. Tuy nhiên, năm nay vì trùng với đợt không khí lạnh tăng cường, kéo theo mưa phùn, chính vì thế mà không có cuộc rước và Thánh lễ không thể diễn ra ở ngoài trời được.
Các ban kèn và nhiều đoàn hội của các xứ họ lân cận đều ngồi ngoài sân dưới trời mưa phùn và gió rét. Các ban trống dự định đến để đi rước nhưng phải bỏ kế hoạch vì sợ gió mưa làm hỏng mặt trống. Mặc dù ban tổ chức đã dựng rạp và che bạt nhưng vẫn không thể che chắn được những luồng gió đông buốt giá.
Khu điều trị bệnh phong nay là Bệnh viện Phong da liễu Vân Môn, do các thừa sai Pháp thành lập cách đây 108 năm (1901), tổng diện tích gần 70 héc-ta. Tại đây, các ngài đã xây dựng 3 nhà thờ Công Giáo và một ngôi chùa Phật Giáo. Do thời gian và chiến tranh, nhà thờ Giáp Nam đã bị sụp đổ hoàn toàn; nhà thờ Giáp Tây bị hư hỏng nặng nhưng đã được Cha quản nhiệm Giuse Mai Trần Huynh đại tu năm 2008; còn nhà thờ Giáp Đông (hay còn gọi là nhà thờ họ giáo Đông Thọ thuộc giáo xứ Thái Sa) cũng bị hư hỏng nặng. Ngôi thánh đường này đã được Cha Huynh nhiều lần sửa chữa, nhưng vì toạ lạc ở ven sông Hồng, chịu ảnh hưởng nhiều của gió bão và lũ lụt, nhà thờ Đông Thọ nay đã xuống cấp một cách trầm trọng.
Lòng nhà thờ Đông Thọ chỉ có thể chứa được không đầy 300 người, vậy nên, mỗi khi có dịp lễ lớn như thế này, người ta phải ngồi bên ngoài nhà thờ để tham dự Thánh lễ. Gian cung thánh cũng quá chật hẹp, không đủ chỗ ngồi cho các Linh mục đồng tế. Nhiều phái đoàn từ thiện có các cha đi cùng về dâng lễ cũng đã từng chứng kiến tình cảnh này. Với những lý do và hoàn cảnh như thế, người ta mong ước sớm khởi công xây dựng một nhà thờ rộng lớn hơn để đáp ứng cho nhu cầu mục vụ ở làng bệnh phong Vân Môn.
Nhân dịp này, ban bác ái xã hội đã đón nhận 48.850.000 đồng tiền mặt, 116 kg đường và một số bánh cáy của mọi cá nhân và tập thể có lòng hảo tâm. Cha Huynh, đặc trách Ban Bác ái xã hội của Giáo phận cho biết, trong tổng số tiền trên đây, có 10 triệu đồng của Đức Cha giáo phận. Trước dịp Tết Nguyên Đán vừa qua, cha Huynh đã phát cho các bệnh nhân để ăn Tết, số tiền còn lại sẽ phân chia cho các bệnh nhân vào sau Thánh lễ 10h ngày mồng 5 Tết tại nhà thờ Giáp Tây (Nhà thờ nhỏ hơn nằm ở bên cạnh bệnh nhân).
Cha Huynh làm mục vụ và thực thi bác ái tại trại phong này từ khi ngài về làm chánh xứ Trà Vy, kiêm nhiệm giáo xứ Thái Sa từ năm 1992 cho đến nay cho biết, ngài cho bệnh nhân ăn Tết từ ngày 15 tháng Chạp, mỗi người được phát cho một bánh chưng, một gói bánh bích-quy và 1kg đường, với tổng số tiền là 35.000 đồng/bệnh nhân.
Mặc dù đang đặc trách Ban Bác ái xã hội của giáo phận và phải trông coi hai giáo xứ, và bản thân cha Huynh (năm nay 62 tuổi), cũng đang mắc chứng bệnh tiểu đường khá nặng, phải thường xuyên có sự can thiệp của các phương tiện y tế, nhưng ngài vẫn không ngừng chăm lo cho các bệnh nhân phong. Đặc biệt trong năm 2008, năm Hồng Đào của giáo phận Thái Bình vừa qua, mỗi tháng ngài phát cho mỗi bệnh nhân một lít nước mắm, 7 lạng thịt, tương đương với 5 USD. Tháng 10-2008 Cha Huynh cho đại tu lại nhà giặt là và phơi quần áo, mua 3 máy giặt để phục vụ cho bệnh nhân, tổng trị giá khoảng 400 triệu đồng VN. Nguồn tài chính thực hiện dự án trên chủ yếu do hội “Bạn người phong Ca-li (Hoa Kỳ)” tài trợ.
Được biết, trại phong Vân Môn dưới sự điều hành và quản lý của nhà nước, trong những năm gần đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Linh mục và Tu sĩ tới phục vụ và giúp đỡ trực tiếp cho gần 600 bệnh nhân nội trú trong trại. Ngoài ra, Cha Huynh còn chăm lo cho 276 bệnh nhân phong ngoại trú ở 8 huyện thị và thành phố trong tỉnh Thái Bình. Cha động viên tinh thần, giúp đỡ vật chất cũng như xây dựng nhà tình nghĩa cho họ.
Nói về ngôi nhà thờ Đông Thọ mới, cũng theo lời cha Huynh, hiện nay đã có đất để xây dựng ra một vị trí riêng biệt mà vẫn giữ được nguyên vẹn nhà thờ cũ. Có được ngôi thánh đường mới khang trang hơn, rộng rãi hơn là niềm mong mỏi không chỉ của Cha Huynh và các bệnh nhân mà chắc chắn còn của cả các đấng bậc, quý chính quyền, quý vị ân nhân và nhân dân trong vùng nữa.
Ngày đầu xuân, người ta thường ước mong những điều tốt đẹp trong năm mới Cá nhân người viết bài này cũng ngong ngóng đợi chờ về một ngày gần đây, khu điều trị bênh nhân Phong Vân Môn sẽ có một ngôi thánh đường mới, xứng đáng là nơi Chúa ngự, nơi chủ chăn và đoàn chiên quây quần bên nhau dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người đau khổ vì bệnh tật.
Thánh lễ đầu năm Kỷ Sửu 2009 đã diễn ra hôm 29-1, tức ngày mồng 4 Tết tại nhà thờ giáo họ Đông Thọ, giáo họ của làng phong cùi tồn tại hàng trăm năm qua. Nếu tôi không lầm thì đây là lần đầu tiên Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, giám mục Thái Bình, chủ sự Thánh lễ đồng tế ở bên trong ngôi nhà thờ nhỏ bé và chật hẹp này. Có 18 linh mục, đông đảo nam nữ Tu sĩ trong cũng như ngoài giáo phận và hàng ngàn Giáo dân đến hiệp dâng Thánh lễ với các bệnh nhân ở đây.
Thói quen tốt lành dâng lễ đầu năm tại trại phong Vân Môn là sáng kiến của Đức cha Sang kể từ khi ngài về coi sóc Giáo phận Thái Bình năm 1991. Từ đó đến nay, không năm nào ngài lại không mời gọi mọi người và chính ngài cũng đích thân đến dâng lễ. Hầu hết Thánh lễ mọi năm đều diễn ra ở bên ngoài nhà thờ vì lượng người tham dự khá đông, mặc cho thời tiết gió rét. Tuy nhiên, năm nay vì trùng với đợt không khí lạnh tăng cường, kéo theo mưa phùn, chính vì thế mà không có cuộc rước và Thánh lễ không thể diễn ra ở ngoài trời được.
Các ban kèn và nhiều đoàn hội của các xứ họ lân cận đều ngồi ngoài sân dưới trời mưa phùn và gió rét. Các ban trống dự định đến để đi rước nhưng phải bỏ kế hoạch vì sợ gió mưa làm hỏng mặt trống. Mặc dù ban tổ chức đã dựng rạp và che bạt nhưng vẫn không thể che chắn được những luồng gió đông buốt giá.
Khu điều trị bệnh phong nay là Bệnh viện Phong da liễu Vân Môn, do các thừa sai Pháp thành lập cách đây 108 năm (1901), tổng diện tích gần 70 héc-ta. Tại đây, các ngài đã xây dựng 3 nhà thờ Công Giáo và một ngôi chùa Phật Giáo. Do thời gian và chiến tranh, nhà thờ Giáp Nam đã bị sụp đổ hoàn toàn; nhà thờ Giáp Tây bị hư hỏng nặng nhưng đã được Cha quản nhiệm Giuse Mai Trần Huynh đại tu năm 2008; còn nhà thờ Giáp Đông (hay còn gọi là nhà thờ họ giáo Đông Thọ thuộc giáo xứ Thái Sa) cũng bị hư hỏng nặng. Ngôi thánh đường này đã được Cha Huynh nhiều lần sửa chữa, nhưng vì toạ lạc ở ven sông Hồng, chịu ảnh hưởng nhiều của gió bão và lũ lụt, nhà thờ Đông Thọ nay đã xuống cấp một cách trầm trọng.
Lòng nhà thờ Đông Thọ chỉ có thể chứa được không đầy 300 người, vậy nên, mỗi khi có dịp lễ lớn như thế này, người ta phải ngồi bên ngoài nhà thờ để tham dự Thánh lễ. Gian cung thánh cũng quá chật hẹp, không đủ chỗ ngồi cho các Linh mục đồng tế. Nhiều phái đoàn từ thiện có các cha đi cùng về dâng lễ cũng đã từng chứng kiến tình cảnh này. Với những lý do và hoàn cảnh như thế, người ta mong ước sớm khởi công xây dựng một nhà thờ rộng lớn hơn để đáp ứng cho nhu cầu mục vụ ở làng bệnh phong Vân Môn.
Nhân dịp này, ban bác ái xã hội đã đón nhận 48.850.000 đồng tiền mặt, 116 kg đường và một số bánh cáy của mọi cá nhân và tập thể có lòng hảo tâm. Cha Huynh, đặc trách Ban Bác ái xã hội của Giáo phận cho biết, trong tổng số tiền trên đây, có 10 triệu đồng của Đức Cha giáo phận. Trước dịp Tết Nguyên Đán vừa qua, cha Huynh đã phát cho các bệnh nhân để ăn Tết, số tiền còn lại sẽ phân chia cho các bệnh nhân vào sau Thánh lễ 10h ngày mồng 5 Tết tại nhà thờ Giáp Tây (Nhà thờ nhỏ hơn nằm ở bên cạnh bệnh nhân).
Cha Huynh làm mục vụ và thực thi bác ái tại trại phong này từ khi ngài về làm chánh xứ Trà Vy, kiêm nhiệm giáo xứ Thái Sa từ năm 1992 cho đến nay cho biết, ngài cho bệnh nhân ăn Tết từ ngày 15 tháng Chạp, mỗi người được phát cho một bánh chưng, một gói bánh bích-quy và 1kg đường, với tổng số tiền là 35.000 đồng/bệnh nhân.
Mặc dù đang đặc trách Ban Bác ái xã hội của giáo phận và phải trông coi hai giáo xứ, và bản thân cha Huynh (năm nay 62 tuổi), cũng đang mắc chứng bệnh tiểu đường khá nặng, phải thường xuyên có sự can thiệp của các phương tiện y tế, nhưng ngài vẫn không ngừng chăm lo cho các bệnh nhân phong. Đặc biệt trong năm 2008, năm Hồng Đào của giáo phận Thái Bình vừa qua, mỗi tháng ngài phát cho mỗi bệnh nhân một lít nước mắm, 7 lạng thịt, tương đương với 5 USD. Tháng 10-2008 Cha Huynh cho đại tu lại nhà giặt là và phơi quần áo, mua 3 máy giặt để phục vụ cho bệnh nhân, tổng trị giá khoảng 400 triệu đồng VN. Nguồn tài chính thực hiện dự án trên chủ yếu do hội “Bạn người phong Ca-li (Hoa Kỳ)” tài trợ.
Được biết, trại phong Vân Môn dưới sự điều hành và quản lý của nhà nước, trong những năm gần đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Linh mục và Tu sĩ tới phục vụ và giúp đỡ trực tiếp cho gần 600 bệnh nhân nội trú trong trại. Ngoài ra, Cha Huynh còn chăm lo cho 276 bệnh nhân phong ngoại trú ở 8 huyện thị và thành phố trong tỉnh Thái Bình. Cha động viên tinh thần, giúp đỡ vật chất cũng như xây dựng nhà tình nghĩa cho họ.
Nói về ngôi nhà thờ Đông Thọ mới, cũng theo lời cha Huynh, hiện nay đã có đất để xây dựng ra một vị trí riêng biệt mà vẫn giữ được nguyên vẹn nhà thờ cũ. Có được ngôi thánh đường mới khang trang hơn, rộng rãi hơn là niềm mong mỏi không chỉ của Cha Huynh và các bệnh nhân mà chắc chắn còn của cả các đấng bậc, quý chính quyền, quý vị ân nhân và nhân dân trong vùng nữa.
Ngày đầu xuân, người ta thường ước mong những điều tốt đẹp trong năm mới Cá nhân người viết bài này cũng ngong ngóng đợi chờ về một ngày gần đây, khu điều trị bênh nhân Phong Vân Môn sẽ có một ngôi thánh đường mới, xứng đáng là nơi Chúa ngự, nơi chủ chăn và đoàn chiên quây quần bên nhau dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người đau khổ vì bệnh tật.
Pháp luật cần được thực thi cho giáo xứ Tam Tòa hồi sinh
Tân Lập
16:08 07/02/2009
VINH - Ngày 2/2/2009, lần thứ hai kể từ khi giáo xứ Tam Toà chính thức được chuyển từ Tổng giáo phận Huế về cho Giáo phận Vinh, Đức Giám Mục Phaolô Maria Cao Đình Thuyên chủ sự thánh lễ cầu bằng yên năm mới tại khuôn viên nhà thờ Tam Toà, Đồng Hới. Cùng đồng tế còn có Lm Fx Võ Thanh Tâm, tổng đại diện giáo phận Vinh và 14 linh mục trong giáo phận cùng sự tham dự của hơn 1000 người cả giáo dân và lương dân Quảng Bình. Nhân sự kiện này, chúng tôi xin nhắc lại một số vấn đề liên quan đến nhà thờ Tam Toà và quan điểm pháp lý theo Giáo Luật, nhất là theo pháp luật Việt Nam.
SỰ THẬT LỊCH SỬ (*)
Giáo xứ Tam Tòa ( có nhà thờ tọa lạc tại đường Nguyễn Du, thành phố Đồng Hới hiện nay) được thành lập khoảng năm 1631 với tên gọi xứ đạo Đông Hải, còn gọi là Họ Lũy.
Năm 1774 (có tài liệu ghi là năm 1798), sau khi lực lượng Chúa Trịnh chiếm được Đàng Trong và san bằng lũy Thầy, nhà thờ này được chuyển về khu vực Cầu Ngắn, nay thuộc phường Phú Hải, và được gọi là giáo xứ Sáo Bùn. Khoảng năm 1886, Sáo Bùn có khoảng 200 nóc nhà với khoảng 1200 giáo hữu. Ở đây có Viện Dục Anh để giúp nuôi trẻ em nghèo và có tu viện dòng Mến Thánh Giá phục vụ từ thiện và giáo dục.
Năm 1886, Quân Văn Thân đột kích giáo xứ Sáo Bùn, giết chết 52 giáo dân, đốt phá nhà thờ Sáo Bùn, nên số giáo dân chạy về Đông Hới lánh nạn. Sau khi được sự cho phép của chính quyền bảo hộ và các cơ quan hữu trách, Cha sở lúc này là cố Claude Bonin và giáo dân Tam Tòa chuyển nhà thờ về ở rẻo đất bên bờ sông Nhật Lệ sát cửa thành thuộc đất làng Mỹ Lệ và đổi tên thành giáo xứ Tam Tòa, cho đến hôm nay. Năm 1850, khi giáo phận Huế được thành lập, Tam Tòa thuộc sự quản lý của Giáo phận Huế.
Nhà thờ Tam Tòa lần đầu tiên được xây dựng năm 1887, do linh mục Clause Bonin (cố Ninh). Đến năm 1940, linh mục René Morineau (cố Trung) tái thiết lại khang trang và hoàn chỉnh hơn.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, hầu hết giáo dân Tam Tòa, cùng với rất nhiều dân cư ở đây và giáo dân các xứ thuộc hạt Nam Quảng Bình di cư vào Đà Nẵng sinh sống; thành lập giáo xứ Tam Toà ở Đà Nẵng. Từ đó, số giáo dân còn lại ở đây được coi sóc bởi 2 linh mục Trần Quang Nghiêm và Lương Minh Thể. Đến năm 1962, cha Thể qua đời, và năm 1964, chiến tranh lại bùng phát, cha Nghiêm rời Tam Tòa cho đến nay không có linh mục coi sóc.
Năm 1968, nhà thờ Tam Tòa bị máy bay Mỹ oanh kích, đổ nát và duy trì như vậy cho đến ngày nay. Mặc dầu số giáo dân còn lại quá ít ỏi, không đủ khả năng tái thiết, nhưng Tổng giáo phận Huế cũng như bà con Tam Tòa vẫn luôn ước mong tái thiết nhà thờ mà Cha Ông họ đã dày công xây dựng.
Ngày 26/3/1997, UBND tỉnh Quảng Bình tự động ra quyết định đưa nhà thờ Tam Tòa vào danh mục di tích lịch sử, là một di chứng tội ác chiến tranh, không thông qua ý kiến của chủ sở hữu là Tổng giáo phận Huế và bà con giáo dân giáo xứ Tam Tòa.
Đến ngày 15/5/2006, Tổng giáo phận Huế chuyển giáo hạt Nam Quảng Bình cho giáo phận Vinh, trong đó có giáo xứ Tam Tòa. Ngay sau đó, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, giám mục giáo phận Vinh bổ nhiệm linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng về quản xứ Làng Sen, kiêm xứ Tam Tòa, có hơn 1000 giáo dân sinh sống tại địa bàn thành phố Đồng Hới, quanh nhà thờ Tam Toà.
Hiện nhà thờ cũ đổ nát, mọi sinh hoạt tôn giáo đang phải nhờ nhà của một giáo dân tại đường Nguyễn Du, cách nền nhà thờ Tam Tòa khoảng 100m về phía Tây Bắc.
Vì thế, giáo phận Vinh đang làm thủ tục lấy lại đất này, xây dựng nhà thờ Tam Tòa, đảm bảo quyền lợi thực tế chính đáng của công dân. Đây là điều hoàn toàn có căn cứ lịch sử và cơ sở pháp lý.
CƠ SỞ PHÁP LÝ
Trước hết, chúng ta phải khẳng định việc Giáo phận Vinh tái thiết giáo xứ Tam Tòa là cần thiết và hợp pháp, đáp ứng nhu cầu thực tế của công dân, không cần phải xin cấp phép lại. Theo nội dung trên, giáo xứ Tam Tòa được thành lập và hoạt động hợp pháp từ rất sớm, năm 1631. Ngay cả khi vì hoàn cảnh lịch sử, giáo dân phải di cư đi nơi khác, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá, số còn lại không đủ điều kiện tái thiết, Tam Tòa vẫn luôn luôn là một giáo xứ thuộc Tổng giáo phận Huế, nay thuộc giáo phận Vinh.
Theo hiến pháp Việt Nam: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hay không theo một tôn giáo nào" (Điều 70). Điều đó được cụ thể hóa tại điều 5 pháp lệnh tôn giáo 2005 "Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của Pháp luật". Điều này hiện nay đã được chính quyền tỉnh Quảng Bình, thành phố Đồng Hới tạo điều kiện thuận lợi cho bà con giáo dân sinh hoạt tôn giáo tại nhà riêng của một giáo dân, chờ xây dựng lại nhà thờ mới. Đặc biệt, ngày 13/2/2008,và gần nhất là ngày 2/2/2009, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thuân lợi cho Đức giám mục Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, cha tổng đại diện Phanxico Xavier Võ Thanh Tâm và đông đảo các linh mục cùng với hàng ngàn giáo dân tổ chức thánh lễ cầu bằng yên đầu năm mới trên nền nhà thờ Tam Tòa này.
Thứ hai, việc Giáo phận Vinh yêu cầu UBND tỉnh Quảng Bình trả lại khuôn viên nhà thờ Tam Tòa, để xây dựng lại, phục vụ nhu cầu của đông đảo giáo dân ở đây là điều chính đáng, đúng pháp luật. Tại sao?
Bộ giáo luật 1983 quy định: Tòa giám mục, đứng đầu là Giám mục giáo phận, là người trực tiếp đứng chủ, quản lý, sử dụng mọi tài sản của Giáo hội tại địa phương (Điều 1279). Theo đó, đất và nhà thờ Tam Tòa là tài sản của Giáo hội Công Giáo Việt Nam, do tòa tổng giám mục Huế trực tiếp đứng chủ, quản lý và sử dụng, trước sau không thay đổi.
Địa bàn quản lý của tổng giáo phận Huế trước và sau hiệp định Senève (1954) vẫn bao gồm cả hạt Nam Quảng Bình. Trong đó, nhà thờ Tam Tòa cũng thuộc sự quản lý đó cả trên lý thuyết và thực tiễn. Việc giáo dân Tam Tòa, vì hoàn cảnh lịch sử phải di cư đi nơi khác làm ăn sinh sống, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá nặng nề, số còn lại không có khả năng tái thiết để đưa vào sinh hoạt, hoàn toàn không làm thay đổi chủ sở hữu nhà thờ và đất đó, là tòa tổng giám mục Huế. Điều này cũng giống như một người cha có một thửa đất rộng. Ông ta xây nhiều ngôi nhà, giao cho các con của mình quản lý, sử dụng. Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, một trong số người con đó phải chuyển chỗ ở, ngôi nhà của người cha để trống. Cho dù thời gian có làm cho nó hư hỏng, xuống cấp, mặc cho người cha có sửa chữa hay không thì quyền sở hữu nhà đất đó vẫn thuộc về người Cha đó, không ai có quyền xâm phạm, pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Điều 70 hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ ràng rằng: "Những nơi thờ tự của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm". Điều đó đã được quy định chi tiết và cụ thể hơn tại Pháp lệnh tôn giáo năm 2005: "Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưởng tôn giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi việc xâm phạm tài sản đó" (Điều 26). Và "Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường..." (Điều 27). Nội dung này cũng đã được quy định rất chi tiết tại các Điều 220 Bộ luật dân sự và điều 9 Luật đất đai 2003.
Chính vì thế, năm 1996, UBND tỉnh Quảng Bình tự tiện chia cắt đất và đưa khuôn viên nhà thờ Tam Tòa vào danh mục di tích tội ác chiến tranh mà không thông qua ý kiến của chủ sở hữu là Tòa tổng giám mục Huế là vi phạm nghiêm trọng các quy tắc trên của pháp luật, đi ngược lại lịch sử.
Trên thực tế thì đất nhà thờ Tam Toà có từ năm 1886, cho đến năm 1997 bị UBND tỉnh Quảng bình chiếm dụng trái phép thì diện tích đất này chưa bao giờ thuộc diện bị cải tạo theo luật cải cách ruộng đất và thông tư số 73/TTg ngày 7/7/1962, cũng không hề có quyết định trưng dụng, trưng thu hay trưng mua nào hết. Do đó nó không thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
Từ những nhận định trên, chúng tôi cho rằng khuôn viên đất và nhà thờ Tam Tòa là tài sản thuộc Giáo hội công giáo Việt Nam do tổng giáo phận Huế (nay đã chuyển giao cho giáo phận Vinh) trực tiếp quản lý và sử dụng. Việc UBND tỉnh Quảng Bình đang quản lý khuôn viên này theo danh mục đất có di tích lịch sử là điều bất hợp pháp, cần áp dụng Điều 98 Luật đất đai 2003 để xử lý chuyển mục đích sử dụng, trả lại cho Giáo hội Công Giáo Việt Nam, trực tiếp là giáo phận Vinh.
Giáo phận Vinh và bà con giáo dân giáo xứ Tam Tòa có quyền đòi lại toàn bộ đất và tài sản trên đất theo hiện trạng ban đầu. Điều 256 Luật đất đai 2003 quy định: "Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó...".
Chúng tôi hy vọng rằng trong tinh thần đổi mới, khép lại quá khứ để hướng đến tương lai, UBND tỉnh Quảng Bình cũng như các cơ quan ban ngành liên quan, sớm trao trả khuôn viên nhà thờ Tam Tòa cho giáo phận Vinh, đảm bảo pháp chế và quyền lợi hợp pháp của công dân, phù hợp chính sách tự do tôn giáo của Nhà nước.
Chú thích:(*) Số liệu này chúng tôi thu thập từ các bài "Kỷ niệm 120 năm giáo xứ Tam Tòa Đồng Hới và Giáo hạt Nam Quảng Bình" của tác giả Dương Kim Sơn. Và Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình chín trăm năm nhìn lại (1075-1975), tập I, Nhật Lệ 2006.
SỰ THẬT LỊCH SỬ (*)
Giáo xứ Tam Tòa ( có nhà thờ tọa lạc tại đường Nguyễn Du, thành phố Đồng Hới hiện nay) được thành lập khoảng năm 1631 với tên gọi xứ đạo Đông Hải, còn gọi là Họ Lũy.
Năm 1774 (có tài liệu ghi là năm 1798), sau khi lực lượng Chúa Trịnh chiếm được Đàng Trong và san bằng lũy Thầy, nhà thờ này được chuyển về khu vực Cầu Ngắn, nay thuộc phường Phú Hải, và được gọi là giáo xứ Sáo Bùn. Khoảng năm 1886, Sáo Bùn có khoảng 200 nóc nhà với khoảng 1200 giáo hữu. Ở đây có Viện Dục Anh để giúp nuôi trẻ em nghèo và có tu viện dòng Mến Thánh Giá phục vụ từ thiện và giáo dục.
Năm 1886, Quân Văn Thân đột kích giáo xứ Sáo Bùn, giết chết 52 giáo dân, đốt phá nhà thờ Sáo Bùn, nên số giáo dân chạy về Đông Hới lánh nạn. Sau khi được sự cho phép của chính quyền bảo hộ và các cơ quan hữu trách, Cha sở lúc này là cố Claude Bonin và giáo dân Tam Tòa chuyển nhà thờ về ở rẻo đất bên bờ sông Nhật Lệ sát cửa thành thuộc đất làng Mỹ Lệ và đổi tên thành giáo xứ Tam Tòa, cho đến hôm nay. Năm 1850, khi giáo phận Huế được thành lập, Tam Tòa thuộc sự quản lý của Giáo phận Huế.
Nhà thờ Tam Tòa lần đầu tiên được xây dựng năm 1887, do linh mục Clause Bonin (cố Ninh). Đến năm 1940, linh mục René Morineau (cố Trung) tái thiết lại khang trang và hoàn chỉnh hơn.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, hầu hết giáo dân Tam Tòa, cùng với rất nhiều dân cư ở đây và giáo dân các xứ thuộc hạt Nam Quảng Bình di cư vào Đà Nẵng sinh sống; thành lập giáo xứ Tam Toà ở Đà Nẵng. Từ đó, số giáo dân còn lại ở đây được coi sóc bởi 2 linh mục Trần Quang Nghiêm và Lương Minh Thể. Đến năm 1962, cha Thể qua đời, và năm 1964, chiến tranh lại bùng phát, cha Nghiêm rời Tam Tòa cho đến nay không có linh mục coi sóc.
Năm 1968, nhà thờ Tam Tòa bị máy bay Mỹ oanh kích, đổ nát và duy trì như vậy cho đến ngày nay. Mặc dầu số giáo dân còn lại quá ít ỏi, không đủ khả năng tái thiết, nhưng Tổng giáo phận Huế cũng như bà con Tam Tòa vẫn luôn ước mong tái thiết nhà thờ mà Cha Ông họ đã dày công xây dựng.
Ngày 26/3/1997, UBND tỉnh Quảng Bình tự động ra quyết định đưa nhà thờ Tam Tòa vào danh mục di tích lịch sử, là một di chứng tội ác chiến tranh, không thông qua ý kiến của chủ sở hữu là Tổng giáo phận Huế và bà con giáo dân giáo xứ Tam Tòa.
Đến ngày 15/5/2006, Tổng giáo phận Huế chuyển giáo hạt Nam Quảng Bình cho giáo phận Vinh, trong đó có giáo xứ Tam Tòa. Ngay sau đó, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, giám mục giáo phận Vinh bổ nhiệm linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng về quản xứ Làng Sen, kiêm xứ Tam Tòa, có hơn 1000 giáo dân sinh sống tại địa bàn thành phố Đồng Hới, quanh nhà thờ Tam Toà.
Hiện nhà thờ cũ đổ nát, mọi sinh hoạt tôn giáo đang phải nhờ nhà của một giáo dân tại đường Nguyễn Du, cách nền nhà thờ Tam Tòa khoảng 100m về phía Tây Bắc.
Vì thế, giáo phận Vinh đang làm thủ tục lấy lại đất này, xây dựng nhà thờ Tam Tòa, đảm bảo quyền lợi thực tế chính đáng của công dân. Đây là điều hoàn toàn có căn cứ lịch sử và cơ sở pháp lý.
CƠ SỞ PHÁP LÝ
Trước hết, chúng ta phải khẳng định việc Giáo phận Vinh tái thiết giáo xứ Tam Tòa là cần thiết và hợp pháp, đáp ứng nhu cầu thực tế của công dân, không cần phải xin cấp phép lại. Theo nội dung trên, giáo xứ Tam Tòa được thành lập và hoạt động hợp pháp từ rất sớm, năm 1631. Ngay cả khi vì hoàn cảnh lịch sử, giáo dân phải di cư đi nơi khác, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá, số còn lại không đủ điều kiện tái thiết, Tam Tòa vẫn luôn luôn là một giáo xứ thuộc Tổng giáo phận Huế, nay thuộc giáo phận Vinh.
Theo hiến pháp Việt Nam: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hay không theo một tôn giáo nào" (Điều 70). Điều đó được cụ thể hóa tại điều 5 pháp lệnh tôn giáo 2005 "Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của Pháp luật". Điều này hiện nay đã được chính quyền tỉnh Quảng Bình, thành phố Đồng Hới tạo điều kiện thuận lợi cho bà con giáo dân sinh hoạt tôn giáo tại nhà riêng của một giáo dân, chờ xây dựng lại nhà thờ mới. Đặc biệt, ngày 13/2/2008,và gần nhất là ngày 2/2/2009, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thuân lợi cho Đức giám mục Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, cha tổng đại diện Phanxico Xavier Võ Thanh Tâm và đông đảo các linh mục cùng với hàng ngàn giáo dân tổ chức thánh lễ cầu bằng yên đầu năm mới trên nền nhà thờ Tam Tòa này.
Thứ hai, việc Giáo phận Vinh yêu cầu UBND tỉnh Quảng Bình trả lại khuôn viên nhà thờ Tam Tòa, để xây dựng lại, phục vụ nhu cầu của đông đảo giáo dân ở đây là điều chính đáng, đúng pháp luật. Tại sao?
Bộ giáo luật 1983 quy định: Tòa giám mục, đứng đầu là Giám mục giáo phận, là người trực tiếp đứng chủ, quản lý, sử dụng mọi tài sản của Giáo hội tại địa phương (Điều 1279). Theo đó, đất và nhà thờ Tam Tòa là tài sản của Giáo hội Công Giáo Việt Nam, do tòa tổng giám mục Huế trực tiếp đứng chủ, quản lý và sử dụng, trước sau không thay đổi.
Địa bàn quản lý của tổng giáo phận Huế trước và sau hiệp định Senève (1954) vẫn bao gồm cả hạt Nam Quảng Bình. Trong đó, nhà thờ Tam Tòa cũng thuộc sự quản lý đó cả trên lý thuyết và thực tiễn. Việc giáo dân Tam Tòa, vì hoàn cảnh lịch sử phải di cư đi nơi khác làm ăn sinh sống, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá nặng nề, số còn lại không có khả năng tái thiết để đưa vào sinh hoạt, hoàn toàn không làm thay đổi chủ sở hữu nhà thờ và đất đó, là tòa tổng giám mục Huế. Điều này cũng giống như một người cha có một thửa đất rộng. Ông ta xây nhiều ngôi nhà, giao cho các con của mình quản lý, sử dụng. Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, một trong số người con đó phải chuyển chỗ ở, ngôi nhà của người cha để trống. Cho dù thời gian có làm cho nó hư hỏng, xuống cấp, mặc cho người cha có sửa chữa hay không thì quyền sở hữu nhà đất đó vẫn thuộc về người Cha đó, không ai có quyền xâm phạm, pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Điều 70 hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ ràng rằng: "Những nơi thờ tự của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm". Điều đó đã được quy định chi tiết và cụ thể hơn tại Pháp lệnh tôn giáo năm 2005: "Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưởng tôn giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi việc xâm phạm tài sản đó" (Điều 26). Và "Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường..." (Điều 27). Nội dung này cũng đã được quy định rất chi tiết tại các Điều 220 Bộ luật dân sự và điều 9 Luật đất đai 2003.
Chính vì thế, năm 1996, UBND tỉnh Quảng Bình tự tiện chia cắt đất và đưa khuôn viên nhà thờ Tam Tòa vào danh mục di tích tội ác chiến tranh mà không thông qua ý kiến của chủ sở hữu là Tòa tổng giám mục Huế là vi phạm nghiêm trọng các quy tắc trên của pháp luật, đi ngược lại lịch sử.
Trên thực tế thì đất nhà thờ Tam Toà có từ năm 1886, cho đến năm 1997 bị UBND tỉnh Quảng bình chiếm dụng trái phép thì diện tích đất này chưa bao giờ thuộc diện bị cải tạo theo luật cải cách ruộng đất và thông tư số 73/TTg ngày 7/7/1962, cũng không hề có quyết định trưng dụng, trưng thu hay trưng mua nào hết. Do đó nó không thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
Từ những nhận định trên, chúng tôi cho rằng khuôn viên đất và nhà thờ Tam Tòa là tài sản thuộc Giáo hội công giáo Việt Nam do tổng giáo phận Huế (nay đã chuyển giao cho giáo phận Vinh) trực tiếp quản lý và sử dụng. Việc UBND tỉnh Quảng Bình đang quản lý khuôn viên này theo danh mục đất có di tích lịch sử là điều bất hợp pháp, cần áp dụng Điều 98 Luật đất đai 2003 để xử lý chuyển mục đích sử dụng, trả lại cho Giáo hội Công Giáo Việt Nam, trực tiếp là giáo phận Vinh.
Giáo phận Vinh và bà con giáo dân giáo xứ Tam Tòa có quyền đòi lại toàn bộ đất và tài sản trên đất theo hiện trạng ban đầu. Điều 256 Luật đất đai 2003 quy định: "Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó...".
Chúng tôi hy vọng rằng trong tinh thần đổi mới, khép lại quá khứ để hướng đến tương lai, UBND tỉnh Quảng Bình cũng như các cơ quan ban ngành liên quan, sớm trao trả khuôn viên nhà thờ Tam Tòa cho giáo phận Vinh, đảm bảo pháp chế và quyền lợi hợp pháp của công dân, phù hợp chính sách tự do tôn giáo của Nhà nước.
Chú thích:(*) Số liệu này chúng tôi thu thập từ các bài "Kỷ niệm 120 năm giáo xứ Tam Tòa Đồng Hới và Giáo hạt Nam Quảng Bình" của tác giả Dương Kim Sơn. Và Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình chín trăm năm nhìn lại (1075-1975), tập I, Nhật Lệ 2006.
Thăm trại tâm thần Trọng Đức
LM.Lê Quang Uy, DCCT
17:26 07/02/2009
Mùng 2, mùng 3 Tết năm nào, tôi cũng “xuất hành xa” cùng với một nhóm nhỏ mươi, mười lăm bạn trẻ. Nhiều người bảo: “Cái lũ điên ! Tết nhất ở nhà với gia đình, bạn bè, chứ ai lại đi rong như thế !” Mà kể ra thì cũng... điên thật. Bởi những nơi chúng tôi tìm đến chẳng giống ai: hầu hết là các trại phong, có năm về thăm trại Di Linh ở Lâm Đồng, có năm vào trại Êana ở Đaklak, có năm ra trại Quả Cảm ở Bắc Ninh, có năm lên đến tận trại Đồng Lệnh ở Tuyên Quang. Vậy là cũng đã điên lắm rồi đấy, nhưng năm nay, Tết Kỷ Sửu, cả bọn rủ nhau đi thăm một trại nuôi những người điên mới thật là... điên !
Hơn 1g trưa mùng 3 Tết, chúng tôi vào đến Trại Tâm Thần mang tên Trọng Đức. Tên Trọng Đức có lẽ là vì cơ sở nằm ở huyện Đức Trọng. Nhưng sau chúng tôi mới ngộ thêm một điều: Trọng Đức vừa là tên gọi xuất phát từ tên huyện Đức Trọng, nhưng cũng lại là chính tôn chỉ của những người sáng lập, họ muốn trọng cái Đức làm con người và trọng cái Đức làm con Chúa.
Trại chỉ mới được Nhà Nước công nhận cách đây ba năm là một cơ sở bảo trợ xã hội, chứ gần mười năm trước vất vả căng thẳng lắm. Khởi đầu mọi sự là từ gia đình 3 chị em ruột: bà Hằng, ông Hổ và bà Tươi, sau có thêm ông Thu, chồng bà Tươi. Đây là những người Tông Đồ Giáo Dân nhiệt thành với công việc loan báo Tin Mừng cho người dân tộc thiểu số ở vùng Đức Trọng và Lâm Hà, những khu Kinh Tế Mới nghèo thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Trong những chuyến đi sâu vào rừng tìm gặp các buôn làng K’Hor, Lạch, Mạ để giới thiệu Chúa, mấy chị em bắt gặp những cái cũi nhốt người điên, Kinh có, người thiểu số có. Gia đình những người đáng thương này có khi nhớ thì vào cho ăn, cho tắm rửa, mà lắm lúc quên hoặc... cố tình quên luôn, chết đói, chết rét giữa rừng, mà có lẽ chết vì thiếu tình thương giữa người với người.
Thế là từng người một được phá cũi đưa luôn về nhà của mấy chị em. Rõ ràng họ đói tình và rét lòng, thì đây họ đã gặp được một mái ấm gia đình thật sự, no tình và ấm lòng. Người dưng bỗng thành người thân yêu, chỉ thế thôi đã đủ để người điên bớt điên loạn, không còn tự đấm vào mặt đến gãy răng vỡ mũi, không còn xé áo xé quần hoặc đập đầu mình xuống nền đất.
Nhưng rồi mấy chị em còn phát hiện thêm một liệu pháp tuyệt vời để giảm cơn điên mà giúp hồi sinh cả một cuộc đời, đó là cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Những người còn đang nửa điên nửa tỉnh ấy, còn đang khóc khóc cười cười ấy, hình như được chữa lành dần dần khi họ ngồi gần bên gia đình họ Trần trong những giờ cầu nguyện.
Tiếng lành đồn xa, người quen dưới Sài-gòn hay trên Đà Lạt, trong nhà có kẻ bị tâm thần, cứ thế tìm đến xin gửi gấm. Bà Hằng ở độc thân “tu cạn”, ông Hổ có vợ và mười người con, vợ chồng ông Thu bà Tươi có hai con gái, cha mẹ già trong nhà, tất cả gần hai chục người, ai cũng ủng hộ việc cưu mang hằng mấy chục người khốn khổ nhếch nhác và điên loạn, cho ăn cho ngủ, cùng cầu nguyện quanh năm với gia đình. Nhưng rồi đông nữa thì phải mua đất dựng nhà cho họ. Thế là thành trại Tâm Thần, không chỉ một mà là hai trại Nam và Nữ cách nhau mấy trăm mét, khang trang rộng rãi.
Thoạt đầu, Nhà Nước thấy có “dáng đấp” đạo Công Giáo thì cũng không mặn mòi lắm đâu, nghi ngờ đủ chuyện, kiểm tra, thanh tra liên tục. Nhưng rồi có những trường hợp tâm thần quá nặng trong và ngoài tỉnh Lâm Đồng, thậm chí Nhà Thương Điên Biên Hòa đã bó tay, người nhà năn nỉ xin đưa về đây, còn nước còn tát, may ra... Thế mà may thật, họ lành bệnh. Cán bộ ngẩn ngơ, các bác sĩ tâm thần tự nhiên tin là có phép lạ. Phép lạ vì có viên thuốc nào đâu, có máy móc chuyên môn nào đâu, chỉ một bốn giờ kinh nguyện. Xin nói rõ: 4 giờ chứ không phải 4 lần đọc kinh. Chỗ này thì các Nhà Dòng chào thua, vì cộng lại cả 4 giờ Kinh Thần Vụ, ngân nga kéo dài lắm cũng chỉ được 2 giờ đồng hồ mà thôi.
Mỗi Trại có một Nhà Nguyện lớn đủ chứa hàng trăm người ngồi trên nền gạch sạch như lau như ly. Buổi sáng kinh nguyện 6g – 7g. Buổi trưa 10g30 – 11g30. Buổi chiều Lòng Thương Xót Chúa 14g30 – 15g30. Buổi tối 19g – 20g xong là đi ngủ. Họ có sách đọc kinh chung, sách hát cộng đoàn, rồi một người tỉnh nhất sẽ đọc Tin Mừng, có thinh lặng, có chiêm niệm hẳn hoi, lại hát, lại đọc kinh. Thỉnh thoảng còn có cha về dâng Thánh Lễ.
Hôm chúng tôi vào thăm Trại Nữ ( 123 người ), tặng những nhu yếu phẩm chung cho toàn trại, lại đi một vòng tặng kẹo bánh cho từng bệnh nhân xong thì vừa gặp giờ kinh “Lòng Thương Xót Chúa”, thế là Nhóm Fiat chúng tôi tản ra ngồi giữa họ, đọc kinh chung với họ. Kết thúc, họ xin tôi chúc lành cho họ, tôi nẩy ra ý, hay là thử tập cho họ một bài hát ngắn, không ngờ họ thuộc nhanh lắm, hát đúng cung đúng giọng, thậm chí có người tự động hòa bè quãng ba ngon lành, và nhất là họ hát hay là vì họ đã hát hết cả tâm hồn, hát bằng cả thân mình, miệng tròn vo, mặt trợn to, tay chân múa máy, người cứ rướn lên theo từng câu hát:
“Con xin cám ơn Cha, bao ơn lành Cha ban,
Con xin cám ơn Cha, ôi Tình Cha thương con...”
Đoạn Tin Mừng đọc chiều hôm ấy, mùng 3 Tết, là đoạn Mt 25, 14 – 30 về dụ ngôn những nén bạc được chủ giao cho từng gia nhân. Nghe họ đọc xong, ngồi thinh lặng tôi mới thấy thấm thía và giật mình sợ hãi. Ấy đấy, nén vàng Tình Yêu, nén vàng Tin Mừng Thiên Chúa đã trao cho chúng ta, coi chừng chính tôi là Linh Mục vẫn chưa đầu tư sinh lợi tối đa, thậm chí có lúc đem chôn sâu giữa những bộn bề cuộc sống, trong khi mấy chị em họ Trần và cả những người ngỡ là điên này, họ đã “xoay đồng vốn” từ một vài phân, một vài chỉ vàng cỏn con để Lời Chúa được vang lên giữa những nơi khỉ ho cò gáy như thế này, rồi cứ dội mãi vào lòng những thân phận bị bỏ rơi hoàn toàn này mà cứu họ, thương xót họ !
Chúng tôi lại sang thăm Trại Nam ( 138 người ), vẫn chỉ khơi mào bằng những cục kẹo, nhưng ở đây chúng tôi thổi bùng lên được một... hội diễn văn nghệ quần chúng tưng bừng. Các ca sĩ tranh nhau hát, đủ các thể loại nhạc: tiền chiến, phản chiến, hậu chiến, rock, bolero, dân ca... Có anh chàng Lâm Chí Vũ hơn 20 tuổi, giọng hát mượt mà và trữ tình, nhảy nhót múa may rất điệu nghệ, thỉnh thoảng hai tay quay tít thò lò chiếc mũ rách trên đầu. Có anh chàng Tuấn rất đẹp trai, quần áo chim cò, chắc chỉ khoảng 30 tuổi, chọn bài “Xuân này con không về”, đang hát thì còn cười, hát xong là khóc sướt mướt, anh bảo với tôi: “50 năm rồi, tui chưa được về thăm nhà, ông cố ơi !” Thật là hết biết !
Chúng tôi tạm biệt ra về, có ai đó trong Trại hát toáng lên:
“Vẫy tay, vẫy tay chào nhau, một lần đầu và một lần cuối...
Vẫy tay, vẫy tay chào nhau, một lần cuối và trọn cuộc đời”.
Ấy là hát thế thôi, chứ chắc đây là lần đầu mà chưa phải là lần cuối, chúng tôi sẽ còn tìm dịp để trở lại thăm nơi này. Cứ ngỡ mình là người tỉnh đi thăm người điên. Thăm xong rồi mới ngộ ra mình còn điên hơn họ. Mà thật ra họ đâu có điên, trong thế giới của họ, có lẽ họ đã vượt được lên trên nỗi đau, ngu ngơ đấy mà thành ra hồn nhiên vô ưu vô tư lự, mà thành ra chạm được đến Tin Mừng. Còn tôi, còn chúng ta, mình mới thật sự là những người quay quắt, lầy lội, điên rồ với đủ thứ trò hỉ nộ ái ố. Điên mà không biết mình điên, ấy mới là điên thật.
Ngồi trên xe về lại thành phố, tôi tự nhủ:
Từ nay mình ra đường, sẽ thôi bóp còi xe vô tội vạ, sẽ thôi, không luồn lách leo lên lề khi gặp lô cốt, sẽ không vội vàng rồ ga phóng quá nhanh...
Từ nay mình ở nhà, sẽ biết nâng niu quý trọng và trung thành hơn với những giờ kinh nguyện, những giờ đắm mình trong thinh lặng trước Thánh Thể và Thánh Ngôn...
Từ nay mình nói chuyện và làm việc với mọi người sẽ bớt nóng tính quát tháo nạt nộ và tranh hơn thua cãi cọ, tự ái eo xèo...
Từ nay mình sẽ bớt dán mắt, dán lòng vào màn hình computer, vào màn hình tivi để mất bao nhiêu thời giờ và sức khỏe cho những trò chơi, những chuyện tào lao vô duyên...
Được như vậy, chính tôi sẽ giảm điên, sẽ được hồi sinh và giúp được kẻ khác cũng hồi sinh, bớt đi được khá nhiều số người điên giữa thế giới điên, xã hội điên hôm nay...
Xin cám ơn Chúa và Mẹ Fiat đã cho chúng con một chuyến đi rất điên trong mấy ngày Tết vừa qua. Xin cám ơn chị Hằng, anh Hổ và vợ chồng chị Tươi, anh Thu, những y tá làm việc cho “bệnh viện của Chúa”. Xin cám ơn những người cứ luôn bị coi là điên mà lại chẳng điên tý nào...
Nếu có ai cũng muốn bớt điên như chúng tôi, xin lên xe trực chỉ hướng Đà Lạt, đến ngã ba Liên Khương thì rẽ trái chạy sâu vào thêm 14km, tìm hỏi Nhà Tình Thương Trọng Đức, khu 11, xã Thanh Bình 1, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Lỡ có lạc đường xin gọi anh Hổ số 0984.431.015. Thăm những người điên ở đây rồi sẽ thấy...
Hơn 1g trưa mùng 3 Tết, chúng tôi vào đến Trại Tâm Thần mang tên Trọng Đức. Tên Trọng Đức có lẽ là vì cơ sở nằm ở huyện Đức Trọng. Nhưng sau chúng tôi mới ngộ thêm một điều: Trọng Đức vừa là tên gọi xuất phát từ tên huyện Đức Trọng, nhưng cũng lại là chính tôn chỉ của những người sáng lập, họ muốn trọng cái Đức làm con người và trọng cái Đức làm con Chúa.
Trại chỉ mới được Nhà Nước công nhận cách đây ba năm là một cơ sở bảo trợ xã hội, chứ gần mười năm trước vất vả căng thẳng lắm. Khởi đầu mọi sự là từ gia đình 3 chị em ruột: bà Hằng, ông Hổ và bà Tươi, sau có thêm ông Thu, chồng bà Tươi. Đây là những người Tông Đồ Giáo Dân nhiệt thành với công việc loan báo Tin Mừng cho người dân tộc thiểu số ở vùng Đức Trọng và Lâm Hà, những khu Kinh Tế Mới nghèo thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Trong những chuyến đi sâu vào rừng tìm gặp các buôn làng K’Hor, Lạch, Mạ để giới thiệu Chúa, mấy chị em bắt gặp những cái cũi nhốt người điên, Kinh có, người thiểu số có. Gia đình những người đáng thương này có khi nhớ thì vào cho ăn, cho tắm rửa, mà lắm lúc quên hoặc... cố tình quên luôn, chết đói, chết rét giữa rừng, mà có lẽ chết vì thiếu tình thương giữa người với người.
Thế là từng người một được phá cũi đưa luôn về nhà của mấy chị em. Rõ ràng họ đói tình và rét lòng, thì đây họ đã gặp được một mái ấm gia đình thật sự, no tình và ấm lòng. Người dưng bỗng thành người thân yêu, chỉ thế thôi đã đủ để người điên bớt điên loạn, không còn tự đấm vào mặt đến gãy răng vỡ mũi, không còn xé áo xé quần hoặc đập đầu mình xuống nền đất.
Nhưng rồi mấy chị em còn phát hiện thêm một liệu pháp tuyệt vời để giảm cơn điên mà giúp hồi sinh cả một cuộc đời, đó là cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Những người còn đang nửa điên nửa tỉnh ấy, còn đang khóc khóc cười cười ấy, hình như được chữa lành dần dần khi họ ngồi gần bên gia đình họ Trần trong những giờ cầu nguyện.
Tiếng lành đồn xa, người quen dưới Sài-gòn hay trên Đà Lạt, trong nhà có kẻ bị tâm thần, cứ thế tìm đến xin gửi gấm. Bà Hằng ở độc thân “tu cạn”, ông Hổ có vợ và mười người con, vợ chồng ông Thu bà Tươi có hai con gái, cha mẹ già trong nhà, tất cả gần hai chục người, ai cũng ủng hộ việc cưu mang hằng mấy chục người khốn khổ nhếch nhác và điên loạn, cho ăn cho ngủ, cùng cầu nguyện quanh năm với gia đình. Nhưng rồi đông nữa thì phải mua đất dựng nhà cho họ. Thế là thành trại Tâm Thần, không chỉ một mà là hai trại Nam và Nữ cách nhau mấy trăm mét, khang trang rộng rãi.
Thoạt đầu, Nhà Nước thấy có “dáng đấp” đạo Công Giáo thì cũng không mặn mòi lắm đâu, nghi ngờ đủ chuyện, kiểm tra, thanh tra liên tục. Nhưng rồi có những trường hợp tâm thần quá nặng trong và ngoài tỉnh Lâm Đồng, thậm chí Nhà Thương Điên Biên Hòa đã bó tay, người nhà năn nỉ xin đưa về đây, còn nước còn tát, may ra... Thế mà may thật, họ lành bệnh. Cán bộ ngẩn ngơ, các bác sĩ tâm thần tự nhiên tin là có phép lạ. Phép lạ vì có viên thuốc nào đâu, có máy móc chuyên môn nào đâu, chỉ một bốn giờ kinh nguyện. Xin nói rõ: 4 giờ chứ không phải 4 lần đọc kinh. Chỗ này thì các Nhà Dòng chào thua, vì cộng lại cả 4 giờ Kinh Thần Vụ, ngân nga kéo dài lắm cũng chỉ được 2 giờ đồng hồ mà thôi.
Mỗi Trại có một Nhà Nguyện lớn đủ chứa hàng trăm người ngồi trên nền gạch sạch như lau như ly. Buổi sáng kinh nguyện 6g – 7g. Buổi trưa 10g30 – 11g30. Buổi chiều Lòng Thương Xót Chúa 14g30 – 15g30. Buổi tối 19g – 20g xong là đi ngủ. Họ có sách đọc kinh chung, sách hát cộng đoàn, rồi một người tỉnh nhất sẽ đọc Tin Mừng, có thinh lặng, có chiêm niệm hẳn hoi, lại hát, lại đọc kinh. Thỉnh thoảng còn có cha về dâng Thánh Lễ.
Hôm chúng tôi vào thăm Trại Nữ ( 123 người ), tặng những nhu yếu phẩm chung cho toàn trại, lại đi một vòng tặng kẹo bánh cho từng bệnh nhân xong thì vừa gặp giờ kinh “Lòng Thương Xót Chúa”, thế là Nhóm Fiat chúng tôi tản ra ngồi giữa họ, đọc kinh chung với họ. Kết thúc, họ xin tôi chúc lành cho họ, tôi nẩy ra ý, hay là thử tập cho họ một bài hát ngắn, không ngờ họ thuộc nhanh lắm, hát đúng cung đúng giọng, thậm chí có người tự động hòa bè quãng ba ngon lành, và nhất là họ hát hay là vì họ đã hát hết cả tâm hồn, hát bằng cả thân mình, miệng tròn vo, mặt trợn to, tay chân múa máy, người cứ rướn lên theo từng câu hát:
“Con xin cám ơn Cha, bao ơn lành Cha ban,
Con xin cám ơn Cha, ôi Tình Cha thương con...”
Đoạn Tin Mừng đọc chiều hôm ấy, mùng 3 Tết, là đoạn Mt 25, 14 – 30 về dụ ngôn những nén bạc được chủ giao cho từng gia nhân. Nghe họ đọc xong, ngồi thinh lặng tôi mới thấy thấm thía và giật mình sợ hãi. Ấy đấy, nén vàng Tình Yêu, nén vàng Tin Mừng Thiên Chúa đã trao cho chúng ta, coi chừng chính tôi là Linh Mục vẫn chưa đầu tư sinh lợi tối đa, thậm chí có lúc đem chôn sâu giữa những bộn bề cuộc sống, trong khi mấy chị em họ Trần và cả những người ngỡ là điên này, họ đã “xoay đồng vốn” từ một vài phân, một vài chỉ vàng cỏn con để Lời Chúa được vang lên giữa những nơi khỉ ho cò gáy như thế này, rồi cứ dội mãi vào lòng những thân phận bị bỏ rơi hoàn toàn này mà cứu họ, thương xót họ !
Chúng tôi lại sang thăm Trại Nam ( 138 người ), vẫn chỉ khơi mào bằng những cục kẹo, nhưng ở đây chúng tôi thổi bùng lên được một... hội diễn văn nghệ quần chúng tưng bừng. Các ca sĩ tranh nhau hát, đủ các thể loại nhạc: tiền chiến, phản chiến, hậu chiến, rock, bolero, dân ca... Có anh chàng Lâm Chí Vũ hơn 20 tuổi, giọng hát mượt mà và trữ tình, nhảy nhót múa may rất điệu nghệ, thỉnh thoảng hai tay quay tít thò lò chiếc mũ rách trên đầu. Có anh chàng Tuấn rất đẹp trai, quần áo chim cò, chắc chỉ khoảng 30 tuổi, chọn bài “Xuân này con không về”, đang hát thì còn cười, hát xong là khóc sướt mướt, anh bảo với tôi: “50 năm rồi, tui chưa được về thăm nhà, ông cố ơi !” Thật là hết biết !
Chúng tôi tạm biệt ra về, có ai đó trong Trại hát toáng lên:
“Vẫy tay, vẫy tay chào nhau, một lần đầu và một lần cuối...
Vẫy tay, vẫy tay chào nhau, một lần cuối và trọn cuộc đời”.
Ấy là hát thế thôi, chứ chắc đây là lần đầu mà chưa phải là lần cuối, chúng tôi sẽ còn tìm dịp để trở lại thăm nơi này. Cứ ngỡ mình là người tỉnh đi thăm người điên. Thăm xong rồi mới ngộ ra mình còn điên hơn họ. Mà thật ra họ đâu có điên, trong thế giới của họ, có lẽ họ đã vượt được lên trên nỗi đau, ngu ngơ đấy mà thành ra hồn nhiên vô ưu vô tư lự, mà thành ra chạm được đến Tin Mừng. Còn tôi, còn chúng ta, mình mới thật sự là những người quay quắt, lầy lội, điên rồ với đủ thứ trò hỉ nộ ái ố. Điên mà không biết mình điên, ấy mới là điên thật.
Ngồi trên xe về lại thành phố, tôi tự nhủ:
Từ nay mình ra đường, sẽ thôi bóp còi xe vô tội vạ, sẽ thôi, không luồn lách leo lên lề khi gặp lô cốt, sẽ không vội vàng rồ ga phóng quá nhanh...
Từ nay mình ở nhà, sẽ biết nâng niu quý trọng và trung thành hơn với những giờ kinh nguyện, những giờ đắm mình trong thinh lặng trước Thánh Thể và Thánh Ngôn...
Từ nay mình nói chuyện và làm việc với mọi người sẽ bớt nóng tính quát tháo nạt nộ và tranh hơn thua cãi cọ, tự ái eo xèo...
Từ nay mình sẽ bớt dán mắt, dán lòng vào màn hình computer, vào màn hình tivi để mất bao nhiêu thời giờ và sức khỏe cho những trò chơi, những chuyện tào lao vô duyên...
Được như vậy, chính tôi sẽ giảm điên, sẽ được hồi sinh và giúp được kẻ khác cũng hồi sinh, bớt đi được khá nhiều số người điên giữa thế giới điên, xã hội điên hôm nay...
Xin cám ơn Chúa và Mẹ Fiat đã cho chúng con một chuyến đi rất điên trong mấy ngày Tết vừa qua. Xin cám ơn chị Hằng, anh Hổ và vợ chồng chị Tươi, anh Thu, những y tá làm việc cho “bệnh viện của Chúa”. Xin cám ơn những người cứ luôn bị coi là điên mà lại chẳng điên tý nào...
Nếu có ai cũng muốn bớt điên như chúng tôi, xin lên xe trực chỉ hướng Đà Lạt, đến ngã ba Liên Khương thì rẽ trái chạy sâu vào thêm 14km, tìm hỏi Nhà Tình Thương Trọng Đức, khu 11, xã Thanh Bình 1, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Lỡ có lạc đường xin gọi anh Hổ số 0984.431.015. Thăm những người điên ở đây rồi sẽ thấy...
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Thái Hà: dấu chỉ của Chúa
Hà Thạch
06:07 07/02/2009
Thái Hà mở Năm Thánh Toàn xá. Người người các nơi tuôn về. Lời Ngôn sứ Isaia năm xưa nay ứng nghiệm:
“Dân dân lũ lượt đua nhau tới.
Nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2,2).
Những ngày này, Thái Hà quả là chốn an vui. Mấy người ngoại giáo rủ nhau tới Thái Hà – như họ nói, là để tìm một chút thanh tịnh giữa chốn đời nhiều xáo trộn và đầy bất công.
Người trong cuộc thì cảm nhận rõ nét rằng, nơi đây, Thiên Chúa tiếp tục ban ơn lành.
Nhớ lại những biến động suốt năm Mậu Tý, mới thấy bàn tay Thiên Chúa diệu kỳ. Ngài đẩy Dân Chúa vào trong mọi biến cố và đưa Dân Chúa đi trong sự an bình cho dẫu họ phải đối diện với rất nhiều bách hại. Giữa một xã hội bất công, Thái Hà trở nên như khí cụ Chúa dùng để làm rạng danh Thiên Chúa và cái bất công giờ đây là một cơ may cho Dân Chúa thể hiện đức tin của mình.
Nhiều người bảo câu chuyện Thái Hà là câu chuyện của Chúa. Thiên Chúa khởi đầu câu chuyện ấy bằng những buổi cầu nguyện của người tín hữu trên Phố Đức Bà. Dưới ánh sáng của những ngọn nến, dưới sức lan tỏa của những lời kinh, bóng tối dần bị đẩy lui làm lộ ra hình hài của một chế độ cường quyền, dối trá, thiếu sự thật.
Trong cái rủi, có cái may. Cái thất bại hoá ra lại là khởi đầu cho một niềm tin mới.
Khi dân Chúa bị đánh tan tác trên phố Thái Hà vào ngày 28 tháng 8 năm 2008, khiến nhiều người mang trên mình những vết thương và một khuôn mặt đầy máu. Cảnh tượng máu đổ làm cho tinh thần người giáo dân bấn loạn, khiến nhiều người trong số họ chùn bước. Nhưng, sau một đêm bồi hồi, sáng hôm sau, khi bình minh ló rạng, cũng là lúc dân Chúa cảm nhận được sự trợ giúp thiêng liêng từ sự khẩn cầu của Mẹ Hằng Cứu Giúp chở che.
Máu đổ.
Thiên Chúa cúi xuống đón lấy như một lễ phẩm toàn thiêu.
Và cứ thế, hàng hàng lớp lớp dân Người lên đường tới Hiệp thông với Thái Hà, cùng ca vang bài kinh cầu Hoà Bình cho Dân tộc, cho Giáo Hội. Cả một biển người đổ về Thái Hà. Cả một biển người cùng cất lời ca đẩy cả chế độ vào cơn hoảng loạn tập thể. Nỗi sợ hãi bao trùm. Chính quyền đã phải huy động cả con nghiện và đám đông “tự phát…tiền” để trấn áp tinh thần người tín hữu.
Thế rồi ngày 8 tháng 12 năm 2008, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm, vụ án oan được đưa ra xét xử tại tấng 4 Hội trường UBND phường Ô Chợ Dừa. Hàng ngàn Kitô hữu lại lên đường với niềm tin sắt son “Công lý và sự thật” sẽ chiến thắng. Phiên toà “của bóng tối và ma quỷ” đã khép lại với những bản án từ án treo tới cảnh cáo khiến giáo dân phấn khởi vui mừng. Ai ai cũng cảm nhận rằng cánh tay Thiên Chúa đang hành động. Ngài tiếp tục thi thố quyền năng nơi những ai yêu mến sự thật và lẽ công bằng.
Sự thật thì bất diệt. Sự thật lớn lao nhất mà người tín hữu cảm nhận được đó chính là cánh tay Thiên Chúa Quan Phòng. Ngài đã yêu thương sắp đặt để mọi sự vẹn nghĩa ân tình.
Việc Thái Hà được mở năm thánh cũng ở trong sự quan phòng đầy yêu thương ấy. Một lần nữa Thiên Chúa lại can thiệp để Thái Hà trở thành nơi hội tụ của những người con thảo từ khắp muôn phương, chung lòng chung sức xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Thái Hà giờ đây đã trở thành điểm hẹn, là nơi gặp gỡ của Trời và người, là nơi những con người có chung mơ ước có thể gặp nhau trên cùng một nẻo đường đức tin, đức cậy và đức mến; là nơi mà ở đó, Thiên Chúa đang tự diễn tả mình là Đấng Chạnh Thương những con người khốn khổ nghèo hèn, bị áp bức bất công, những dân oan không có tiếng nói và là nơi Ngài ban cho dân tộc một dấu chỉ của thời đại. Dấu chỉ đó là: “Sự thật sẽ giải phóng các con” (Ga 8, 32).
Do đó, về Thái Hà là về với Thiên Chúa, “Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6). Về Thái Hà là về với lời kinh, tiếng hát ca khen Thượng Đế - Đấng đã thực hiện biết bao kỳ công cho con người. Về Thái Hà là về để tìm lại cho mình và đất nước một niềm tin đã bị đánh cắp bởi sự giả dối và gian tham mà chế độ cộng sản đã gây ra cho dân tộc này. Về Thái Hà là về để cùng mang nơi mình cái khát vọng chung của dân tộc: khát vọng công lý và hòa bình.
Công lý và Sự thật sẽ chiến thắng.
Năm thánh – năm Hồng ân đã bắt đầu, hãy cùng về Thái Hà để làm chứng cho công lý và sự thật.
Thái Hà ngày 7/2/2009
“Dân dân lũ lượt đua nhau tới.
Nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2,2).
Những ngày này, Thái Hà quả là chốn an vui. Mấy người ngoại giáo rủ nhau tới Thái Hà – như họ nói, là để tìm một chút thanh tịnh giữa chốn đời nhiều xáo trộn và đầy bất công.
Người trong cuộc thì cảm nhận rõ nét rằng, nơi đây, Thiên Chúa tiếp tục ban ơn lành.
Nhớ lại những biến động suốt năm Mậu Tý, mới thấy bàn tay Thiên Chúa diệu kỳ. Ngài đẩy Dân Chúa vào trong mọi biến cố và đưa Dân Chúa đi trong sự an bình cho dẫu họ phải đối diện với rất nhiều bách hại. Giữa một xã hội bất công, Thái Hà trở nên như khí cụ Chúa dùng để làm rạng danh Thiên Chúa và cái bất công giờ đây là một cơ may cho Dân Chúa thể hiện đức tin của mình.
Nhiều người bảo câu chuyện Thái Hà là câu chuyện của Chúa. Thiên Chúa khởi đầu câu chuyện ấy bằng những buổi cầu nguyện của người tín hữu trên Phố Đức Bà. Dưới ánh sáng của những ngọn nến, dưới sức lan tỏa của những lời kinh, bóng tối dần bị đẩy lui làm lộ ra hình hài của một chế độ cường quyền, dối trá, thiếu sự thật.
Trong cái rủi, có cái may. Cái thất bại hoá ra lại là khởi đầu cho một niềm tin mới.
Khi dân Chúa bị đánh tan tác trên phố Thái Hà vào ngày 28 tháng 8 năm 2008, khiến nhiều người mang trên mình những vết thương và một khuôn mặt đầy máu. Cảnh tượng máu đổ làm cho tinh thần người giáo dân bấn loạn, khiến nhiều người trong số họ chùn bước. Nhưng, sau một đêm bồi hồi, sáng hôm sau, khi bình minh ló rạng, cũng là lúc dân Chúa cảm nhận được sự trợ giúp thiêng liêng từ sự khẩn cầu của Mẹ Hằng Cứu Giúp chở che.
Máu đổ.
Thiên Chúa cúi xuống đón lấy như một lễ phẩm toàn thiêu.
Và cứ thế, hàng hàng lớp lớp dân Người lên đường tới Hiệp thông với Thái Hà, cùng ca vang bài kinh cầu Hoà Bình cho Dân tộc, cho Giáo Hội. Cả một biển người đổ về Thái Hà. Cả một biển người cùng cất lời ca đẩy cả chế độ vào cơn hoảng loạn tập thể. Nỗi sợ hãi bao trùm. Chính quyền đã phải huy động cả con nghiện và đám đông “tự phát…tiền” để trấn áp tinh thần người tín hữu.
Thế rồi ngày 8 tháng 12 năm 2008, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm, vụ án oan được đưa ra xét xử tại tấng 4 Hội trường UBND phường Ô Chợ Dừa. Hàng ngàn Kitô hữu lại lên đường với niềm tin sắt son “Công lý và sự thật” sẽ chiến thắng. Phiên toà “của bóng tối và ma quỷ” đã khép lại với những bản án từ án treo tới cảnh cáo khiến giáo dân phấn khởi vui mừng. Ai ai cũng cảm nhận rằng cánh tay Thiên Chúa đang hành động. Ngài tiếp tục thi thố quyền năng nơi những ai yêu mến sự thật và lẽ công bằng.
Sự thật thì bất diệt. Sự thật lớn lao nhất mà người tín hữu cảm nhận được đó chính là cánh tay Thiên Chúa Quan Phòng. Ngài đã yêu thương sắp đặt để mọi sự vẹn nghĩa ân tình.
Việc Thái Hà được mở năm thánh cũng ở trong sự quan phòng đầy yêu thương ấy. Một lần nữa Thiên Chúa lại can thiệp để Thái Hà trở thành nơi hội tụ của những người con thảo từ khắp muôn phương, chung lòng chung sức xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Thái Hà giờ đây đã trở thành điểm hẹn, là nơi gặp gỡ của Trời và người, là nơi những con người có chung mơ ước có thể gặp nhau trên cùng một nẻo đường đức tin, đức cậy và đức mến; là nơi mà ở đó, Thiên Chúa đang tự diễn tả mình là Đấng Chạnh Thương những con người khốn khổ nghèo hèn, bị áp bức bất công, những dân oan không có tiếng nói và là nơi Ngài ban cho dân tộc một dấu chỉ của thời đại. Dấu chỉ đó là: “Sự thật sẽ giải phóng các con” (Ga 8, 32).
Do đó, về Thái Hà là về với Thiên Chúa, “Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6). Về Thái Hà là về với lời kinh, tiếng hát ca khen Thượng Đế - Đấng đã thực hiện biết bao kỳ công cho con người. Về Thái Hà là về để tìm lại cho mình và đất nước một niềm tin đã bị đánh cắp bởi sự giả dối và gian tham mà chế độ cộng sản đã gây ra cho dân tộc này. Về Thái Hà là về để cùng mang nơi mình cái khát vọng chung của dân tộc: khát vọng công lý và hòa bình.
Công lý và Sự thật sẽ chiến thắng.
Năm thánh – năm Hồng ân đã bắt đầu, hãy cùng về Thái Hà để làm chứng cho công lý và sự thật.
Thái Hà ngày 7/2/2009
Lộ diện thêm một bộ mặt dối trá phi nhân, sản phẩm của CSVN
Lê Sáng
15:30 07/02/2009
Tết Kỷ Sửu 2009 - Một cái tết buồn cho các dân tộc có truyền thống đón năm mới theo lịch Trăng, bởi cơn suy thoái kinh tế toàn cầu. Với dân tộc Việt Nam trong chế độ cộng sản, 80% dân chúng nghèo khó lại càng thê thảm. Không hiểu vì lòng trắc ẩn hay vì lo sợ bần cùng sinh đạo tặc mà Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng CHXHCN VN đã ra chỉ thị hỗ trợ người nghèo ăn tết bằng tiền lấy từ ngân sách tổng trị giá dự toán hơn 3800 tỉ VNĐ tương đương 224 triệu USD - Tiền này lấy từ số tiền đóng thuế của dân:
Quyết định hỗ trợ cho các hộ nghèo với mức 200.000 đồng/người, nhưng không vượt quá 1 triệu đồng/1 hộ nghèo.
Việc xác định hộ nghèo thực hiện theo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTTg, ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010.
Bộ Tài chính tạm ứng dự phòng ngân sách trung ương năm 2009 cho các địa phương, bảo đảm cho các hộ nghèo nhận được tiền hỗ trợ trước Tết Nguyên đán Kỷ Sửu - 2009; Đồng thời có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện hỗ trợ một cách kịp thời, đúng đối tượng. Dự tính, tổng mức kinh phí hỗ trợ cho các hộ nghèo nhân dịp Tết Kỷ Sửu này với mức nêu trên khoảng hơn 3.800 tỉ đồng.
Ngay sau khi chủ trương này được triển khai, cán bộ cộng sản cấp cơ sở thực hiện đã xà sẻo, ăn cắp, truyền tay sang người thân của nó vốn là những kẻ ăn trên ngồi chốc trong cộng đồng, chưa từng được liệt vào diện nghèo… đến mức báo chí bồi bút của cộng sản cũng không nhịn được mà phải la lên (*)
Không chỉ ăn cắp, ăn bớt, mà khi bị phát hiện, những cán bộ của bộ máy nhà nước cộng sản này còn bào chữa cho việc làm của mình bằng những mỹ từ rất khôi hài… Trong đó có lẽ bỉ ổi nhất là phát ngôn của tên Nguyễn Đình Tân trưởng xóm 1 thuộc xã Khánh Sơn Huyện Nam Đàn - Nghệ An (Đồng hương huyện với Hồ Chí Minh) về lý do ăn bớt 75% số tiền của dân là vì: “Sợ dân ăn tiêu hoang phí nên giữ hộ để phát dần” . Dân nghèo đến mức không có nổi một trăm USD để mua gạo ăn tết, nay được cộng sản lấy tiền chúng thu từ dân chia lại cho mỗi người không quá 12USD mà chúng sợ dân ăn tiêu hoang phí ư??? Số tiền này còn chưa mua nổi một bó hoa mà chúng mang đến tết Lê Khả Phiêu cùng bọc lớn bọc nhỏ đã được bạch hoá trên Internet vừa qua…
Đến quan chức cộng sản cũng phải tức lộn ruột lên vì cái lập luận ngu suẩn và láo xược này. Trong tình hình hiện nay, bộ máy nhà nước, cũng như uy tín của cán bộ cộng sản mặc dù được bộ máy tuyên truyền ngày đêm son phấn, vẫn không còn chút thiện cảm nào từ phía người dân… Việc xuất tiền ngân sách cho dân nghèo ăn tết là việc làm chưa có tiền lệ, và nhằm xoa dịu những phẫn nộ về sự điều hành yếu kém, vô trách nhiệm, tham nhũng của bộ máy cộng sản, đẩy người dân đến bờ vực phá sản, chết đói… Cho nên chỉ thị của tên thủ tướng ngụy quyền lực nhân dân ban hành rất rõ ràng, chi tiết có thể thực hiện ngay, không cho cấp dưới diễn giải lại, diễn giải theo cách khác… Vốn là truyền thống của văn bản luật pháp cộng sản… Ấy vậy mà một tên cộng sản nhãi nhép (hay là một kẻ xu thời liếm gót cộng sản) bị bắt quả tang làm trái chỉ thị của thủ tướng, không ngần ngại biện minh cho tội lỗi của mình một cách ráo hoảnh, nghe ra có vẻ như rất có trách nhiệm với dân… Một cách nực cười.
Tại sao có thảm cảnh này??? Là vì nhà dột từ nóc, quan chức cộng sản từ lớn đến nhỏ đều sống bằng tiền tham nhũng của dân. Dù là một tên tay sai nhỏ nhất như trưởng xóm, cũng phải có bao nhiêu khoản chi mà nhà nước cộng sản không trả như: Tiếp đón cán bộ trên, thực hiện các chỉ thị theo luật nói bằng mồm của cộng sản về việc “nắm bắt tình hình” theo dõi người dân… Bí mật điều tra việc này việc khác theo chỉ thị ngoài luật của các phe nhóm cộng sản kình chống nhau… Để làm được những việc này, những tên tay sai phải mất thời gian (giá trị cơ hội) thậm chí bỏ cả tiền túi ra… Nếu có hỗ trợ từ tiền ngân sách cũng không bao giờ đủ chi phí… Cho nên nó phải tìm mọi cách để thu lại những gì chúng đã bỏ ra… Và các cuộc chia tiền hỗ trợ người nghèo, tiền cứu trợ thiên tai, như một bữa tiệc cho những kẻ bất lương theo cộng sản hay có tên là cộng sản này.
Cộng sản vẫn nổi tiếng về việc thẩm tra lý lịch, soi mói con người trước khi đặt vào bộ máy của nó, tại sao lại sử dụng những kẻ như vậy? Có phải vì nhầm lẫn? Không phải vậy ! Mà vì những kẻ này đã có quá nhiều “ân oán” với cộng sản, trước khi làm “cán bộ cơ sở” những kẻ này đã từng làm, đã từng theo những hướng dẫn của cán bộ cộng sản cấp trên… Và vừa ý cộng sản. Chúng chính là những tên chỉ điểm, là “tai mắt” dùng để theo dõi, kìm kẹp nhân dân từ cấp cơ sở. Chính những kẻ này đã gây bao nhiêu đau khổ cho dân lành khi chỉ điểm những việc làm mà theo chúng là chống lại cộng sản. Những kẻ bất lương này hành vi xem ra có vẻ lặt vặt, nhưng hậu quả thì vô cùng lớn. Chính bọn cán bộ cấp xóm, thôn, xã này là cánh tay dắc lực cho bạo quyền cộng sản tiêu diệt mọi ý đồ chống lại bất công cộng sản áp đặt lên người dân ngay từ lúc mới phôi thai…
Dù có xử lý thế nào, thì những cuộc hỗ trợ, cứu trợ người dân trong tương lai của chế độ cộng sản này vẫn sẽ sảy ra những vụ ăn cắp được lý giải nực cười tương tự - Không thể dùng luật pháp cộng sản để trị cán bộ cộng sản – Không thể dùng tướng quỷ để trừ quỷ. Một cái chủ thuyết lừa lọc, với những tên lãnh tụ giả nhân, sống xa hoa đồi bại trên xương máu người dân thì có lý gì khi bắt cán bộ cấp dưới phải không ăn cắp, không ăn bớt, nói không biết xấu hổ???
Giải quyết vấn nạn này đã được chính kẻ từng là quan thầy cộng sản Việt Nam kết luận và cho áp dụng thành công tại Liên Xô – Thành trì XHCN: Chủ nghĩa cộng sản, nhà nước cộng sản không thể cứu vãn được nữa - Phải thay thế nó như đã xẩy ra tại các quốc gia CS Châu Âu.
(*) Xem thêm
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151441&ChannelID=2
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151625&ChannelID=2
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/02/3BA0B084/
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151585&ChannelID=2
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151586&ChannelID=2
Quyết định hỗ trợ cho các hộ nghèo với mức 200.000 đồng/người, nhưng không vượt quá 1 triệu đồng/1 hộ nghèo.
Việc xác định hộ nghèo thực hiện theo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTTg, ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010.
Bộ Tài chính tạm ứng dự phòng ngân sách trung ương năm 2009 cho các địa phương, bảo đảm cho các hộ nghèo nhận được tiền hỗ trợ trước Tết Nguyên đán Kỷ Sửu - 2009; Đồng thời có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện hỗ trợ một cách kịp thời, đúng đối tượng. Dự tính, tổng mức kinh phí hỗ trợ cho các hộ nghèo nhân dịp Tết Kỷ Sửu này với mức nêu trên khoảng hơn 3.800 tỉ đồng.
Ngay sau khi chủ trương này được triển khai, cán bộ cộng sản cấp cơ sở thực hiện đã xà sẻo, ăn cắp, truyền tay sang người thân của nó vốn là những kẻ ăn trên ngồi chốc trong cộng đồng, chưa từng được liệt vào diện nghèo… đến mức báo chí bồi bút của cộng sản cũng không nhịn được mà phải la lên (*)
Không chỉ ăn cắp, ăn bớt, mà khi bị phát hiện, những cán bộ của bộ máy nhà nước cộng sản này còn bào chữa cho việc làm của mình bằng những mỹ từ rất khôi hài… Trong đó có lẽ bỉ ổi nhất là phát ngôn của tên Nguyễn Đình Tân trưởng xóm 1 thuộc xã Khánh Sơn Huyện Nam Đàn - Nghệ An (Đồng hương huyện với Hồ Chí Minh) về lý do ăn bớt 75% số tiền của dân là vì: “Sợ dân ăn tiêu hoang phí nên giữ hộ để phát dần” . Dân nghèo đến mức không có nổi một trăm USD để mua gạo ăn tết, nay được cộng sản lấy tiền chúng thu từ dân chia lại cho mỗi người không quá 12USD mà chúng sợ dân ăn tiêu hoang phí ư??? Số tiền này còn chưa mua nổi một bó hoa mà chúng mang đến tết Lê Khả Phiêu cùng bọc lớn bọc nhỏ đã được bạch hoá trên Internet vừa qua…
Đến quan chức cộng sản cũng phải tức lộn ruột lên vì cái lập luận ngu suẩn và láo xược này. Trong tình hình hiện nay, bộ máy nhà nước, cũng như uy tín của cán bộ cộng sản mặc dù được bộ máy tuyên truyền ngày đêm son phấn, vẫn không còn chút thiện cảm nào từ phía người dân… Việc xuất tiền ngân sách cho dân nghèo ăn tết là việc làm chưa có tiền lệ, và nhằm xoa dịu những phẫn nộ về sự điều hành yếu kém, vô trách nhiệm, tham nhũng của bộ máy cộng sản, đẩy người dân đến bờ vực phá sản, chết đói… Cho nên chỉ thị của tên thủ tướng ngụy quyền lực nhân dân ban hành rất rõ ràng, chi tiết có thể thực hiện ngay, không cho cấp dưới diễn giải lại, diễn giải theo cách khác… Vốn là truyền thống của văn bản luật pháp cộng sản… Ấy vậy mà một tên cộng sản nhãi nhép (hay là một kẻ xu thời liếm gót cộng sản) bị bắt quả tang làm trái chỉ thị của thủ tướng, không ngần ngại biện minh cho tội lỗi của mình một cách ráo hoảnh, nghe ra có vẻ như rất có trách nhiệm với dân… Một cách nực cười.
Tại sao có thảm cảnh này??? Là vì nhà dột từ nóc, quan chức cộng sản từ lớn đến nhỏ đều sống bằng tiền tham nhũng của dân. Dù là một tên tay sai nhỏ nhất như trưởng xóm, cũng phải có bao nhiêu khoản chi mà nhà nước cộng sản không trả như: Tiếp đón cán bộ trên, thực hiện các chỉ thị theo luật nói bằng mồm của cộng sản về việc “nắm bắt tình hình” theo dõi người dân… Bí mật điều tra việc này việc khác theo chỉ thị ngoài luật của các phe nhóm cộng sản kình chống nhau… Để làm được những việc này, những tên tay sai phải mất thời gian (giá trị cơ hội) thậm chí bỏ cả tiền túi ra… Nếu có hỗ trợ từ tiền ngân sách cũng không bao giờ đủ chi phí… Cho nên nó phải tìm mọi cách để thu lại những gì chúng đã bỏ ra… Và các cuộc chia tiền hỗ trợ người nghèo, tiền cứu trợ thiên tai, như một bữa tiệc cho những kẻ bất lương theo cộng sản hay có tên là cộng sản này.
Cộng sản vẫn nổi tiếng về việc thẩm tra lý lịch, soi mói con người trước khi đặt vào bộ máy của nó, tại sao lại sử dụng những kẻ như vậy? Có phải vì nhầm lẫn? Không phải vậy ! Mà vì những kẻ này đã có quá nhiều “ân oán” với cộng sản, trước khi làm “cán bộ cơ sở” những kẻ này đã từng làm, đã từng theo những hướng dẫn của cán bộ cộng sản cấp trên… Và vừa ý cộng sản. Chúng chính là những tên chỉ điểm, là “tai mắt” dùng để theo dõi, kìm kẹp nhân dân từ cấp cơ sở. Chính những kẻ này đã gây bao nhiêu đau khổ cho dân lành khi chỉ điểm những việc làm mà theo chúng là chống lại cộng sản. Những kẻ bất lương này hành vi xem ra có vẻ lặt vặt, nhưng hậu quả thì vô cùng lớn. Chính bọn cán bộ cấp xóm, thôn, xã này là cánh tay dắc lực cho bạo quyền cộng sản tiêu diệt mọi ý đồ chống lại bất công cộng sản áp đặt lên người dân ngay từ lúc mới phôi thai…
Dù có xử lý thế nào, thì những cuộc hỗ trợ, cứu trợ người dân trong tương lai của chế độ cộng sản này vẫn sẽ sảy ra những vụ ăn cắp được lý giải nực cười tương tự - Không thể dùng luật pháp cộng sản để trị cán bộ cộng sản – Không thể dùng tướng quỷ để trừ quỷ. Một cái chủ thuyết lừa lọc, với những tên lãnh tụ giả nhân, sống xa hoa đồi bại trên xương máu người dân thì có lý gì khi bắt cán bộ cấp dưới phải không ăn cắp, không ăn bớt, nói không biết xấu hổ???
Giải quyết vấn nạn này đã được chính kẻ từng là quan thầy cộng sản Việt Nam kết luận và cho áp dụng thành công tại Liên Xô – Thành trì XHCN: Chủ nghĩa cộng sản, nhà nước cộng sản không thể cứu vãn được nữa - Phải thay thế nó như đã xẩy ra tại các quốc gia CS Châu Âu.
(*) Xem thêm
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151441&ChannelID=2
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151625&ChannelID=2
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/02/3BA0B084/
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151585&ChannelID=2
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=151586&ChannelID=2
Những vị anh hùng nhân dân
LM. Vĩnh Sang, DCCT
17:08 07/02/2009
NHỮNG VỊ “ANH HÙNG NHÂN DÂN”
Tôi về quê tôi trong một ngày đầu xuân, ngày xuân có gió nhẹ nhàng, có những cành đào tươi nở và có cả lòng người chờ mong thương yêu. Lâu lắm rồi tôi không về, kể từ lần đầu về bây giờ đã 15 năm, con đường vạn lý cứ mãi giằng kéo bước chân tôi xa quê, mải mê với bước “giang hồ” nên quê cũ vẫn là một nơi chốn chỉ để nhớ để thương.
Thật ra với một người như tôi mà thương nhớ quê là rất lạ, vì trang lứa tôi sinh ra trên đường vào nam ( 1954 ) lớn lên ở miền Nam, có mấy ai nhớ về quê cũ đâu. Khác với những người như vậy, tôi gắn bó với quê một cách sâu đậm và hằng nhung nhớ trong lòng.
Lần đầu tiên về quê, chỉ một mình mà tôi dám về quê, những bất ngờ mà quê dành cho mình càng làm tôi càng thương nhớ quê hơn, người “nhà quê” đã đón tôi bằng cả một tấm lòng thương mến. Tôi đã về để đi trên con đường “dong nhà mình”, cứ ngỡ đâu đây cha mẹ mình vừa đi qua, vào nhà “cụ xã” ( ông nội tôi ), ngồi ở bậc thềm nhìn ra cầu ao trước nhà, tôi vụt đứng lên bước vội ra cầu ao, đúng rồi, mẹ tôi bảo: “Cầu ao nhà ông Xã có ba bậc, bậc thứ hai mẻ một miếng ở bên phải”.
Bà con hàng xóm đến thật đông để chào và nghe tôi nói chuyện, tôi chợt nhớ một điều bèn hỏi: “Ai là... con Nga, con bà Nguyệt ?” Một bà cụ khoảng 70 tuổi móm mém đứng lên: “Con ạ !” Mọi người bật cười còn tôi bối rối. Tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể rằng “Con Nga, con bà Nguyệt” hay bện rơm xoắn lại, dọa anh tôi: “Tao bắt mẹ mày” thế là anh tôi sợ và khóc chạy về quấy mẹ, câu chuyện đã lâu lắm rồi, anh tôi năm nay đã tròm trèm 70, thế mà tôi quên mất !
Lần đầu tiên tôi dâng lễ ở Nhà Thờ họ tôi ( Giáo Xứ quê tôi có họ nhà xứ và 4 họ lẻ ), những gì cha tôi kể như hiển hiện ngay trước mắt tôi, từng cái cửa, cái bàn, cái ghế cũ kỹ, cái Cung Thánh sơn son thếp vàng, cái rương gỗ của cha già Trúc để ở phòng thánh… Tất cả còn hết, còn nguyên vẹn. Tôi ứa nước mắt ra khi nhìn mọi sự vật cha tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe, mọi cái còn đó, chỉ có cha tôi, người con đi biệt xứ kể từ cái đêm bị ruồng bắt năm 1945, ôm ấp mãi trong lòng ước muốn một lần về thăm quê, thăm mọi người, thăm mồ ông mả cha, thắp cho ông nội tôi một nén nhang tạ tội mà không được. Cha tôi đã mất để lại cho chúng tôi nỗi nhớ quê nhà...
Ông nội tôi chết ở đình làng khi bị giam cầm chờ ngày mai xét xử trong cuộc đấu tố cải cách ruộng đất. Nghe kể lại rằng, đêm đó cô tôi bò vào mang theo nắm cơm cho bố ăn, nhưng khi vào đến nơi sờ vào người cha mình thì ông tôi đã chết rồi, ông tôi chết một cách uất ức vì ông tôi có phải là địa chủ đâu, chân lấm tay bùn quanh năm. Mẹ tôi bảo: “Ông cả đời nhịn ăn nhịn mặc, chẳng bao giờ dám hoang phí một đồng, cả ngày lặn lội ngoài ruộng, thế mà bị gán là địa chủ !”
Sau năm 75, có một người trong số những người đấu tố ông nội tôi vào Nam tìm đến gặp cha tôi, họ nói lời xin lỗi cha tôi, hôm đó cha tôi không trả lời câu nào hết, ông lặng người đi, gục đầu vào bàn thờ ông nội tôi, khi quay ra, tôi thấy mắt cha tôi đỏ hoe. Hôm đó, cha tôi bảo làm cơm đãi người ta ăn và khi chia tay, cha tôi lấy một ít tiền chia sẻ với ông ta, hình như mẹ tôi rất khó chịu về điều này, sau này tôi được biết, ngày đó cha tôi cũng gật đầu chấp nhận cho ông ta tiếp tục sống trên cái “thổ nhà mình”, vì cha tôi bảo: “Mình có về nữa đâu mà giữ !” Hôm tôi ở quê, đứa em con bà cô, đứa em còn cố giữ được thổ nhà ông tôi gợi ý: “Anh sang thăm thổ nhà bác”. Tôi ngần ngừ rồi trả lời: “Thôi em ạ !”
Dĩ nhiên là người “nhà quê” đã không để tôi yên, tình cảm yêu thương dồn nén, một ngày phải dâng ba lễ, bao nhiêu loại lễ mừng, lễ giỗ họ, đem cả vào hai ngày tôi ở quê mà yêu cầu tôi “ban” cho, đành vậy. Những giờ khác, chú tôi, ông “tiên chỉ làng” dẫn tôi đi thăm các nhà có liên hệ, danh sách đã được ông định trước và không ai dám cãi ông.
Ông dẫn tôi đền nhà cụ Trùm Bát, cụ Trùm Bát ốm liệt nằm trên giường đã mấy tháng nay, cụ chẳng xa lạ gì với tôi vì cha tôi hay kể về cụ, kể về người bạn hiền lành và thân thiết năm xưa ở quê nhà, thậm chí tôi còn biết nhiều chuyện khá riêng tư của hai cụ nữa, nhưng có một chuyện mà tôi không biết, bất ngờ trong lần đầu tiên về quê được cụ bà tiết lộ, đó là: “Thưa cha, con là bạn của bà cố, ngày xưa con đi phù dâu cho bà cố !” Lần ấy, tôi về lại Sài-gòn, hỏi mẹ tôi, cụ nhăn mặt suy nghĩ rồi trả lời: “Chẳng nhớ nữa, chắc vậy”.
Lần này cụ bà bị điếc nhưng vẫn còn khỏe, cụ bà loay hoay bên tôi, người co rúm lại cười cười nói nói rất hồn nhiên. Cụ ông nằm liệt giường, việc đầu tiên là “ăn mày phép giải tội”, cụ thở giốc nói được vài lời, họ quấn quanh cụ những chăn bông, những áo len, những mũ len, tất cả cũ kỹ cáu bẩn, mùi hôi, mùi ẩm mốc…
Sau những “lời khuyên bảo“, cụ đưa tay run rẩy luồn vào tấm áo trong, tìm kiếm phía trên ngực, “Thưa cha, con có chút tiền dâng cha lo việc Nhà Thờ”. Cụ tiếp tục run rẩy tìm kiếm, tôi đã nói lời từ chối không nhận tiền vì nghĩ rằng cụ rất nghèo, chẳng có là bao, để cụ lấy tiến đó mà lo thang thuốc, nhưng cụ nhất định không chịu. Khi tôi sang nhà bên cạnh, người ta cầm sang cho tôi một “nắm” tiền và cho biết đó là tiền của cụ. Tôi đã bật khóc khi tối về xem xét lại “nắm” tiền đó, 20 tờ 1.000 đồng mới tinh và 6 tờ 5.000 đồng cũng mới tinh.
Tôi biết cụ đã cho tôi tất cả cái cụ có, khi kể lại câu chuyện này cho một người quen, chị ấy thốt lên: “Hai đồng tiền bà góa !” Cám ơn Chúa đã cho con được cảm nghiệm Tin Mừng một cách rất cụ thể, và con đã có được cảm nghiệm đó khi con đi gặp người nghèo.
Có một “vị Anh Hùng Nhân Dân” mà tôi đã hân hạnh được viếng thăm, bất ngờ hơn, lại là người mà tôi “còn có họ”. Bà đáng được phong danh hiệu như vậy. “Nhân Dân” bởi chính bà là người dân hiền lành chất phác, căn nhà nhỏ bé ba gian lợp ngói kiểu đồng bằng Bắc Bộ, khung cảnh cuối đông ảm đạm càng làm cho cái vẻ nghèo nàn tăng thêm.
Trời rét lạnh nên tuổi già còn phải chịu quấn quanh người cái áo len dầy cộm, ông chồng của bà vẫn tươi cười chia sẻ: “Con đau yếu chẳng làm gì được, đành ở nhà nội trợ, còn nhà con phải lên Hà Nội ‘lội chợ’ kiếm ít tiền”. Thế nhưng khi lao mình vào chốn thành thị ấy, thì người đàn bà chân quê nhận ra cái lẽ phải và sự thật, cái nhận thức rất đơn giản của người nhà quê yêu mến Giáo Hội và kinh nghiệm thế nào là sự giảo quyệt. Bà luôn có mặt ở hàng ngũ những người đi đầu trong các cuộc đòi chân lý. Trong những ngày tháng căng thẳng, có một người đàn bà nhỏ bé duy nhất lọt vào Tòa Khâm Sứ cũ, quỳ trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi cầu nguyện một mình, hình ảnh đó được phát đi khắp nơi cho mọi người chiêm ngưỡng, hình hài nhỏ bé đó là chính bà. Bà hồn nhiên cho biết: “Thưa cha, con cầu nguyện với Đức Mẹ thì con sợ gì ai ?” Người mẹ “Anh Hùng Nhân Dân” ấy là mẹ của một Linh Mục.
Có một “Anh Hùng Nhân Dân” khác tôi cũng được gặp khi về quê, người đàn bà quả cảm ôm tượng Đức Mẹ vào đặt tại bể nước trong khu “linh địa Đức Bà”, cũng như người mẹ Anh Hùng kia, người này cũng xuất thân từ chuyên ngành “đồng nát” ( ve chai ), kể từ khi vụ việc Thái Hà xảy ra, bà nhận ra cái “lạnh lẽo đạo nghĩa” của mình, bôn ba khắp thiên hạ rồi cũng chẳng đi đến đâu, bà dừng chân ở linh địa, khởi viết lại trang sử đời mình từ những ngày đi đòi chân lý và nguyện gắn bó sống chết với điều đã chọn lựa, bà nói: “Có bắt con đi tù thì phải lo mà nuôi cơm con, con vẫn cứ đi đòi cho đến khi nào có được chân lý và sự thật”.
Có một ai đó đã viết về quê tôi, miền quê có truyền thống gìn giữ và bảo vệ Đức Tin mạnh mẽ, miền quê nghèo nhưng không nghèo lòng quả cảm, miền quê đã sản sinh ra nhân vật nổi tiếng của Giáo Hội một thời, Đức Cha Phạm Năng Tĩnh, một anh hùng của Đức Tin, miền quê đó hôm nay lại hun đúc một con người, Giuse Ngô Quang Kiệt, một gương mẫu mới của lòng yêu mến và quả cảm, sao miền quê đó lúc này im ắng quá. Không im ắng đâu, bởi vẫn còn những bà mẹ nghèo nhưng giàu lòng quảng đại, vẫn còn những bạn Taxi, xe ôm và đồng nát kiên cường.
“Các cha cứ gọi, chỉ vài phút sau chúng con sẽ có mặt tại Thái Hà”...
Lm. VĨNH SANG DCCT, 7.2.2009
Tôi về quê tôi trong một ngày đầu xuân, ngày xuân có gió nhẹ nhàng, có những cành đào tươi nở và có cả lòng người chờ mong thương yêu. Lâu lắm rồi tôi không về, kể từ lần đầu về bây giờ đã 15 năm, con đường vạn lý cứ mãi giằng kéo bước chân tôi xa quê, mải mê với bước “giang hồ” nên quê cũ vẫn là một nơi chốn chỉ để nhớ để thương.
Thật ra với một người như tôi mà thương nhớ quê là rất lạ, vì trang lứa tôi sinh ra trên đường vào nam ( 1954 ) lớn lên ở miền Nam, có mấy ai nhớ về quê cũ đâu. Khác với những người như vậy, tôi gắn bó với quê một cách sâu đậm và hằng nhung nhớ trong lòng.
Lần đầu tiên về quê, chỉ một mình mà tôi dám về quê, những bất ngờ mà quê dành cho mình càng làm tôi càng thương nhớ quê hơn, người “nhà quê” đã đón tôi bằng cả một tấm lòng thương mến. Tôi đã về để đi trên con đường “dong nhà mình”, cứ ngỡ đâu đây cha mẹ mình vừa đi qua, vào nhà “cụ xã” ( ông nội tôi ), ngồi ở bậc thềm nhìn ra cầu ao trước nhà, tôi vụt đứng lên bước vội ra cầu ao, đúng rồi, mẹ tôi bảo: “Cầu ao nhà ông Xã có ba bậc, bậc thứ hai mẻ một miếng ở bên phải”.
Bà con hàng xóm đến thật đông để chào và nghe tôi nói chuyện, tôi chợt nhớ một điều bèn hỏi: “Ai là... con Nga, con bà Nguyệt ?” Một bà cụ khoảng 70 tuổi móm mém đứng lên: “Con ạ !” Mọi người bật cười còn tôi bối rối. Tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể rằng “Con Nga, con bà Nguyệt” hay bện rơm xoắn lại, dọa anh tôi: “Tao bắt mẹ mày” thế là anh tôi sợ và khóc chạy về quấy mẹ, câu chuyện đã lâu lắm rồi, anh tôi năm nay đã tròm trèm 70, thế mà tôi quên mất !
Lần đầu tiên tôi dâng lễ ở Nhà Thờ họ tôi ( Giáo Xứ quê tôi có họ nhà xứ và 4 họ lẻ ), những gì cha tôi kể như hiển hiện ngay trước mắt tôi, từng cái cửa, cái bàn, cái ghế cũ kỹ, cái Cung Thánh sơn son thếp vàng, cái rương gỗ của cha già Trúc để ở phòng thánh… Tất cả còn hết, còn nguyên vẹn. Tôi ứa nước mắt ra khi nhìn mọi sự vật cha tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe, mọi cái còn đó, chỉ có cha tôi, người con đi biệt xứ kể từ cái đêm bị ruồng bắt năm 1945, ôm ấp mãi trong lòng ước muốn một lần về thăm quê, thăm mọi người, thăm mồ ông mả cha, thắp cho ông nội tôi một nén nhang tạ tội mà không được. Cha tôi đã mất để lại cho chúng tôi nỗi nhớ quê nhà...
Ông nội tôi chết ở đình làng khi bị giam cầm chờ ngày mai xét xử trong cuộc đấu tố cải cách ruộng đất. Nghe kể lại rằng, đêm đó cô tôi bò vào mang theo nắm cơm cho bố ăn, nhưng khi vào đến nơi sờ vào người cha mình thì ông tôi đã chết rồi, ông tôi chết một cách uất ức vì ông tôi có phải là địa chủ đâu, chân lấm tay bùn quanh năm. Mẹ tôi bảo: “Ông cả đời nhịn ăn nhịn mặc, chẳng bao giờ dám hoang phí một đồng, cả ngày lặn lội ngoài ruộng, thế mà bị gán là địa chủ !”
Sau năm 75, có một người trong số những người đấu tố ông nội tôi vào Nam tìm đến gặp cha tôi, họ nói lời xin lỗi cha tôi, hôm đó cha tôi không trả lời câu nào hết, ông lặng người đi, gục đầu vào bàn thờ ông nội tôi, khi quay ra, tôi thấy mắt cha tôi đỏ hoe. Hôm đó, cha tôi bảo làm cơm đãi người ta ăn và khi chia tay, cha tôi lấy một ít tiền chia sẻ với ông ta, hình như mẹ tôi rất khó chịu về điều này, sau này tôi được biết, ngày đó cha tôi cũng gật đầu chấp nhận cho ông ta tiếp tục sống trên cái “thổ nhà mình”, vì cha tôi bảo: “Mình có về nữa đâu mà giữ !” Hôm tôi ở quê, đứa em con bà cô, đứa em còn cố giữ được thổ nhà ông tôi gợi ý: “Anh sang thăm thổ nhà bác”. Tôi ngần ngừ rồi trả lời: “Thôi em ạ !”
Dĩ nhiên là người “nhà quê” đã không để tôi yên, tình cảm yêu thương dồn nén, một ngày phải dâng ba lễ, bao nhiêu loại lễ mừng, lễ giỗ họ, đem cả vào hai ngày tôi ở quê mà yêu cầu tôi “ban” cho, đành vậy. Những giờ khác, chú tôi, ông “tiên chỉ làng” dẫn tôi đi thăm các nhà có liên hệ, danh sách đã được ông định trước và không ai dám cãi ông.
Ông dẫn tôi đền nhà cụ Trùm Bát, cụ Trùm Bát ốm liệt nằm trên giường đã mấy tháng nay, cụ chẳng xa lạ gì với tôi vì cha tôi hay kể về cụ, kể về người bạn hiền lành và thân thiết năm xưa ở quê nhà, thậm chí tôi còn biết nhiều chuyện khá riêng tư của hai cụ nữa, nhưng có một chuyện mà tôi không biết, bất ngờ trong lần đầu tiên về quê được cụ bà tiết lộ, đó là: “Thưa cha, con là bạn của bà cố, ngày xưa con đi phù dâu cho bà cố !” Lần ấy, tôi về lại Sài-gòn, hỏi mẹ tôi, cụ nhăn mặt suy nghĩ rồi trả lời: “Chẳng nhớ nữa, chắc vậy”.
Lần này cụ bà bị điếc nhưng vẫn còn khỏe, cụ bà loay hoay bên tôi, người co rúm lại cười cười nói nói rất hồn nhiên. Cụ ông nằm liệt giường, việc đầu tiên là “ăn mày phép giải tội”, cụ thở giốc nói được vài lời, họ quấn quanh cụ những chăn bông, những áo len, những mũ len, tất cả cũ kỹ cáu bẩn, mùi hôi, mùi ẩm mốc…
Sau những “lời khuyên bảo“, cụ đưa tay run rẩy luồn vào tấm áo trong, tìm kiếm phía trên ngực, “Thưa cha, con có chút tiền dâng cha lo việc Nhà Thờ”. Cụ tiếp tục run rẩy tìm kiếm, tôi đã nói lời từ chối không nhận tiền vì nghĩ rằng cụ rất nghèo, chẳng có là bao, để cụ lấy tiến đó mà lo thang thuốc, nhưng cụ nhất định không chịu. Khi tôi sang nhà bên cạnh, người ta cầm sang cho tôi một “nắm” tiền và cho biết đó là tiền của cụ. Tôi đã bật khóc khi tối về xem xét lại “nắm” tiền đó, 20 tờ 1.000 đồng mới tinh và 6 tờ 5.000 đồng cũng mới tinh.
Tôi biết cụ đã cho tôi tất cả cái cụ có, khi kể lại câu chuyện này cho một người quen, chị ấy thốt lên: “Hai đồng tiền bà góa !” Cám ơn Chúa đã cho con được cảm nghiệm Tin Mừng một cách rất cụ thể, và con đã có được cảm nghiệm đó khi con đi gặp người nghèo.
Có một “vị Anh Hùng Nhân Dân” mà tôi đã hân hạnh được viếng thăm, bất ngờ hơn, lại là người mà tôi “còn có họ”. Bà đáng được phong danh hiệu như vậy. “Nhân Dân” bởi chính bà là người dân hiền lành chất phác, căn nhà nhỏ bé ba gian lợp ngói kiểu đồng bằng Bắc Bộ, khung cảnh cuối đông ảm đạm càng làm cho cái vẻ nghèo nàn tăng thêm.
Trời rét lạnh nên tuổi già còn phải chịu quấn quanh người cái áo len dầy cộm, ông chồng của bà vẫn tươi cười chia sẻ: “Con đau yếu chẳng làm gì được, đành ở nhà nội trợ, còn nhà con phải lên Hà Nội ‘lội chợ’ kiếm ít tiền”. Thế nhưng khi lao mình vào chốn thành thị ấy, thì người đàn bà chân quê nhận ra cái lẽ phải và sự thật, cái nhận thức rất đơn giản của người nhà quê yêu mến Giáo Hội và kinh nghiệm thế nào là sự giảo quyệt. Bà luôn có mặt ở hàng ngũ những người đi đầu trong các cuộc đòi chân lý. Trong những ngày tháng căng thẳng, có một người đàn bà nhỏ bé duy nhất lọt vào Tòa Khâm Sứ cũ, quỳ trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi cầu nguyện một mình, hình ảnh đó được phát đi khắp nơi cho mọi người chiêm ngưỡng, hình hài nhỏ bé đó là chính bà. Bà hồn nhiên cho biết: “Thưa cha, con cầu nguyện với Đức Mẹ thì con sợ gì ai ?” Người mẹ “Anh Hùng Nhân Dân” ấy là mẹ của một Linh Mục.
Có một “Anh Hùng Nhân Dân” khác tôi cũng được gặp khi về quê, người đàn bà quả cảm ôm tượng Đức Mẹ vào đặt tại bể nước trong khu “linh địa Đức Bà”, cũng như người mẹ Anh Hùng kia, người này cũng xuất thân từ chuyên ngành “đồng nát” ( ve chai ), kể từ khi vụ việc Thái Hà xảy ra, bà nhận ra cái “lạnh lẽo đạo nghĩa” của mình, bôn ba khắp thiên hạ rồi cũng chẳng đi đến đâu, bà dừng chân ở linh địa, khởi viết lại trang sử đời mình từ những ngày đi đòi chân lý và nguyện gắn bó sống chết với điều đã chọn lựa, bà nói: “Có bắt con đi tù thì phải lo mà nuôi cơm con, con vẫn cứ đi đòi cho đến khi nào có được chân lý và sự thật”.
Có một ai đó đã viết về quê tôi, miền quê có truyền thống gìn giữ và bảo vệ Đức Tin mạnh mẽ, miền quê nghèo nhưng không nghèo lòng quả cảm, miền quê đã sản sinh ra nhân vật nổi tiếng của Giáo Hội một thời, Đức Cha Phạm Năng Tĩnh, một anh hùng của Đức Tin, miền quê đó hôm nay lại hun đúc một con người, Giuse Ngô Quang Kiệt, một gương mẫu mới của lòng yêu mến và quả cảm, sao miền quê đó lúc này im ắng quá. Không im ắng đâu, bởi vẫn còn những bà mẹ nghèo nhưng giàu lòng quảng đại, vẫn còn những bạn Taxi, xe ôm và đồng nát kiên cường.
“Các cha cứ gọi, chỉ vài phút sau chúng con sẽ có mặt tại Thái Hà”...
Lm. VĨNH SANG DCCT, 7.2.2009
Thông Báo
Cáo phó: Thân sinh của LM Gioan Bt Vũ Mạnh Hùng qua đời tại Saigòn
Giáo xứ Vĩnh Hòa
16:22 07/02/2009
CÁO PHÓ
"Thầy là Đường, là sự Thật và là sự sống" Ga.14,6
Tin vào quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục sinh
Tang gia chúng con kính báo:
Ông Cố Gio-a-kim Vũ Văn Hiến
sinh năm 1919 tại Phú An, Bùi Chu
Đã được Chúa gọi về.
Vào hồi 20h40 Thứ Bảy ngày 07 tháng 02 năm 2009
Nhằm ngày 13 tháng Giêng năm Kỷ sửu
Tại nhà số 453/66 KB Đường Lê Văn Sỹ Phường 12 Quận 3
sau những năm bệnh tật và 06 năm bại liệt.
Hưởng thọ 90 tuổi
Nghi thức tẩm niệm lúc 19h00 ngày Chúa Nhật 08-02-2009
Thánh lễ an táng lúc 08h30 sáng thứ Tư tại Nhà thờ Bùi Phát.
Sau thánh lễ, sẽ di quan đến Đất thánh La-gia-rô và an táng
Kính xin Đức Hồng Y Gioan Baotixita, Quý Đức Cha, Quý Cha,
Quý Tu sĩ và thân bằng quyến thuộc, cùng Cộng đoàn dân Chúa cầu nguyện cho linh hồn
Gio-a-kim được mau hưởng nhan Thánh Chúa.
Tang gia đồng khấp báo:
Bà Cố Maria Phạm Thị My
Lm. Gioan Bt Vũ Mạnh Hùng, xứ Vĩnh Hoà – Q.11
Anh chị Gio-a-kim Nguyễn Văn Toán & Các em
Văn Hóa
Trong cơn mê
Phanxicô Xaviê
06:00 07/02/2009
Xuân đi rồi lại đến hè
Thu tàn đông úa, ngày về hư không.
Một mai thôi hết nắng hồng
Cho đêm nghe tiếng vọng chuông gọi hồn.
Bỏ lại đây mối tình son
Bỏ lại năm tháng hao mòn thời gian
Người đi xa lánh đường trần
Cho từ nay hết một lần đớn đau.
Làm người dương thế đã lâu,
Một thời khổ dịch biết đâu là cùng
Chuỗi ngày vất vả lao lung,
Khác gì đời kẻ làm công cho người.
Tựa thân nô lệ giữa đời,
Mong thay bóng mát bên trời bình yên
Gia tài: ngày tháng triền miên,
Là đêm vô vọng còn nguyên phận tù.
Khi nào trời sáng tinh mơ,
Thức dậy tôi hỏi bao giờ chiều buông.
Bao giờ cho tới hoàng hôn,
Chìm trong mê sảng chở hồn theo mưa.
Nghe đời thấm thoát thoi đưa,
Và thôi chấm dứt ngày xưa trăng tròn
Đời tôi hơi thở đã mòn
Mằt tôi chẳng biết có còn hay không
Đâu là hạnh phúc tơ vương
Là mộng mị với vô thường quanh tôi.
(Theo Giop 7:1-4.6-7)
Thu tàn đông úa, ngày về hư không.
Một mai thôi hết nắng hồng
Cho đêm nghe tiếng vọng chuông gọi hồn.
Bỏ lại đây mối tình son
Bỏ lại năm tháng hao mòn thời gian
Người đi xa lánh đường trần
Cho từ nay hết một lần đớn đau.
Làm người dương thế đã lâu,
Một thời khổ dịch biết đâu là cùng
Chuỗi ngày vất vả lao lung,
Khác gì đời kẻ làm công cho người.
Tựa thân nô lệ giữa đời,
Mong thay bóng mát bên trời bình yên
Gia tài: ngày tháng triền miên,
Là đêm vô vọng còn nguyên phận tù.
Khi nào trời sáng tinh mơ,
Thức dậy tôi hỏi bao giờ chiều buông.
Bao giờ cho tới hoàng hôn,
Chìm trong mê sảng chở hồn theo mưa.
Nghe đời thấm thoát thoi đưa,
Và thôi chấm dứt ngày xưa trăng tròn
Đời tôi hơi thở đã mòn
Mằt tôi chẳng biết có còn hay không
Đâu là hạnh phúc tơ vương
Là mộng mị với vô thường quanh tôi.
(Theo Giop 7:1-4.6-7)
Đồ thật tưởng đồ chơi!
Tú Nạc
06:19 07/02/2009
Đồ xưa khai bút, bút khai hoa,
Nghiên, mạc, lụa đào vuông chữ triện,
Rồng bay phượng múa nghiêng quản bút,
Minh niên khai bút, lộc muôn nhà.
Đệ tử chắp tay hầu bái lạy,
Hiền tài kẻ sỹ một tay Đồ.
Quốc Tử Giám kia danh bia sỹ,
Hỏi ấy công ai? – Cũng công Đồ.
Văn Hiến nghìn năm dòng Âu Lạc,
Quân tiên, Sư nhị, Phụ bậc tam,
Thời nào cũng phải tôn sư đạo,
Hiền tài nguyên khí tạo trời Nam.
Đạo ấy thời nay sao đảo ngược
Thanh thiên bạch nhật giữa thủ đô,
Đón xuân truyền thống dăm câu đối,
Thế mà công an xé chữ Đồ.
Nhìn hình phú-lít bảnh bao lắm,
Mặt năm Kỷ Sửu quả "khoai hầm",
Tay cầm bá-trắc mồm la hét,
Chân đạp giấy hồng chữ ĐỨC-TÂM.
Đồ mồm há hốc, mắt trợn trắng,
Chẳng nói lời nào, biết kêu ai(!),
Vai nó quân hàm hàng trung tá,
Nói ra lại sợ vạ phải tai.
Trên phố thủ đô đông người qua,
Người thì chép miệng, người chặc lưỡi,
Kẻ đứng xa xa miệng cười xòa:
"Chuyện ấy thủ đô có gì lạ."
Lạ gì chuyện ấy giữa thủ đô,
Đồng hồ chạy ngược Nghìn Năm đón,
Đạo đức lộn ngược lúc xuân về,
Đau xót làm sao hỡi Đế đô!
Hỏi rằng hậu quả từ đâu đến?
Vì rằng giáo dục đã hóa nên.
Hệ thống giáo dục "giáo bất nghiêm",
Hệ quả là do "sư chi nọa".
Vì "sư chi nọa", Đồ mang họa,
Chữ nghĩa gì đâu Mác với Lê,
Nhồi nhét cho đầy thây bụng bự,
Chữ nghĩa Thánh Hiền dốt như me.
Ngày trước ai bảo Đồ dạy chúng,
Dạy chúng phải ra cái giống người,
Biết cội nguồn bao đời văn hóa,
Chứ đâu phải tự kiếp đười ươi.
Thư pháp chúng ngỡ Đồ vẽ rắn,
Đầu năm Kỷ Sửu phải vẽ trâu,
Đầu trâu mặt ngựa nghề của chúng,
Nghề này e cũng chẳng còn lâu.
Nếu xuân năm tới Đồ có viết,
PHỤ-MẪU song thân viết thật to,
Nếu nó có đạp, đạp bố nó,
Xé thì mẹ nó, Đồ đừng lo.
Đồ nhớ thay đổi khăn áo nhé,
Áo dài khăn xếp cho thật oai,
Đồ ai ăn mặc xuềnh xoàng thế,
Chúng tưởng Đồ thật tựa đồ chơi.
Đồ nay tội thật, thua đồ điếu,
Người xưa đà nói thật chẳng xa:
"Thời lai đồ điều thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa".
Nghiên, mạc, lụa đào vuông chữ triện,
Rồng bay phượng múa nghiêng quản bút,
Minh niên khai bút, lộc muôn nhà.
Đệ tử chắp tay hầu bái lạy,
Hiền tài kẻ sỹ một tay Đồ.
Quốc Tử Giám kia danh bia sỹ,
Hỏi ấy công ai? – Cũng công Đồ.
Văn Hiến nghìn năm dòng Âu Lạc,
Quân tiên, Sư nhị, Phụ bậc tam,
Thời nào cũng phải tôn sư đạo,
Hiền tài nguyên khí tạo trời Nam.
Đạo ấy thời nay sao đảo ngược
Thanh thiên bạch nhật giữa thủ đô,
Đón xuân truyền thống dăm câu đối,
Thế mà công an xé chữ Đồ.
Nhìn hình phú-lít bảnh bao lắm,
Mặt năm Kỷ Sửu quả "khoai hầm",
Tay cầm bá-trắc mồm la hét,
Chân đạp giấy hồng chữ ĐỨC-TÂM.
Đồ mồm há hốc, mắt trợn trắng,
Chẳng nói lời nào, biết kêu ai(!),
Vai nó quân hàm hàng trung tá,
Nói ra lại sợ vạ phải tai.
Trên phố thủ đô đông người qua,
Người thì chép miệng, người chặc lưỡi,
Kẻ đứng xa xa miệng cười xòa:
"Chuyện ấy thủ đô có gì lạ."
Lạ gì chuyện ấy giữa thủ đô,
Đồng hồ chạy ngược Nghìn Năm đón,
Đạo đức lộn ngược lúc xuân về,
Đau xót làm sao hỡi Đế đô!
Hỏi rằng hậu quả từ đâu đến?
Vì rằng giáo dục đã hóa nên.
Hệ thống giáo dục "giáo bất nghiêm",
Hệ quả là do "sư chi nọa".
Vì "sư chi nọa", Đồ mang họa,
Chữ nghĩa gì đâu Mác với Lê,
Nhồi nhét cho đầy thây bụng bự,
Chữ nghĩa Thánh Hiền dốt như me.
Ngày trước ai bảo Đồ dạy chúng,
Dạy chúng phải ra cái giống người,
Biết cội nguồn bao đời văn hóa,
Chứ đâu phải tự kiếp đười ươi.
Thư pháp chúng ngỡ Đồ vẽ rắn,
Đầu năm Kỷ Sửu phải vẽ trâu,
Đầu trâu mặt ngựa nghề của chúng,
Nghề này e cũng chẳng còn lâu.
Nếu xuân năm tới Đồ có viết,
PHỤ-MẪU song thân viết thật to,
Nếu nó có đạp, đạp bố nó,
Xé thì mẹ nó, Đồ đừng lo.
Đồ nhớ thay đổi khăn áo nhé,
Áo dài khăn xếp cho thật oai,
Đồ ai ăn mặc xuềnh xoàng thế,
Chúng tưởng Đồ thật tựa đồ chơi.
Đồ nay tội thật, thua đồ điếu,
Người xưa đà nói thật chẳng xa:
"Thời lai đồ điều thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa".
Chúa là mùa Xuân!
Sa Mạc Hồng
15:16 07/02/2009
Chúa là mùa Xuân của con
Là vầng mây ấm cho tâm hồn
Là muôn hoa nở ngạt ngào hương sắc
Tình Ngài như nốt nhạc nhẹ nhàng
Như tiếng chim ca mừng Xuân mới
Như nắng hồng toả chiếu khắp dương gian
Chúa là mùa Xuân tuyệt đối
Trong hồn người bàng bạc tiếng reo ca
Trong lòng người ôm ấp mối giao hoà
Chúa là mùa Xuân hoan lạc
Giữa cuộc đời lắm nỗi gian truân
Giữa Thiên đình không vướng chút phù vân
Chúa ơi Ngài là mùa Xuân của con
Mùa Xuân tràn đầy kỳ diệu
Đầy ân sủng, nguyện cầu, bình an.
Là vầng mây ấm cho tâm hồn
Là muôn hoa nở ngạt ngào hương sắc
Tình Ngài như nốt nhạc nhẹ nhàng
Như tiếng chim ca mừng Xuân mới
Như nắng hồng toả chiếu khắp dương gian
Chúa là mùa Xuân tuyệt đối
Trong hồn người bàng bạc tiếng reo ca
Trong lòng người ôm ấp mối giao hoà
Chúa là mùa Xuân hoan lạc
Giữa cuộc đời lắm nỗi gian truân
Giữa Thiên đình không vướng chút phù vân
Chúa ơi Ngài là mùa Xuân của con
Mùa Xuân tràn đầy kỳ diệu
Đầy ân sủng, nguyện cầu, bình an.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Bạn
Diệp Hải Dung
06:09 07/02/2009
BẠN
Ảnh của Diệp Hải Dung (Australia)
Mãi mãi
ta còn đó
tấm lòng thơm ngát
giữa bạn
giữa tình
giữa một trái tim.
(Trích thơ của Cao Nguyên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền