Phụng Vụ - Mục Vụ
Mười truyện đơn sơ về Giáo Lý và Giáo Dục mỗi tuần
LM. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
16:28 17/02/2008
Mười truyện đơn sơ về Giáo Lý và Giáo Dục mỗi tuần (22)
211. Không xin được ơn bế mạc Công Đồng Vatican II
Công Đồng Vatican II là một mùa xuân làm rực rỡ Giáo Hội, một Lễ Hiện Xuống mới, làm cho Giáo Hội được tăng sức phi thường.
Người có công lớn nhất trong việc nầy, là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, Đấng đã khai mạc Công Đồng vĩ đại nầy.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII sắp qua đời, Đức Cha Thư ký xin ngài làm sao cầu Chúa ban cho ơn bế mạc Công Đồng Vatican II một cách long trọng như thể ngài đã khai mạc long trọng Công Đồng nầy vào ngày 11/10/1962. Đức Thánh Cha bình tĩnh trả lời:
“Nêu Chúa nói với cha: Hãy xin ơn đó và Ta sẽ ban, thì cha sẽ thưa: “Lạy Chúa, con đã khai mạc Công Đồng nhưng con không xin bế mạc. Xin Chúa cho con trung thành với giáo lý Kinh lạy Cha mà Chúa đã dạy con phải sống theo suốt đời: “Vâng theo ý Cha” mà Chúa đã thực hiện từ Bêlem đến Núi Sọ”.
212. Quên tên Mẹ của Chúa nên chưa được vào nước thiên đàng.
Một ông già tân tòng, người Phi Châu, 95 tuổi, nói với cha truyền giáo:
- “Con sắp chết. Cha nói cha có thể làm cho con chết hạnh phúc. Vậy xin cha cho con chết hạnh phúc gấp đi.”
- “Được, nhưng trước hết, con hãy chịu phép Rửa Tội.
Ông già sung sướng, xin cha dạy. Cha dạy gấp một vài ngày, rồi rửa tội.
Sau khi được rửa tội vài ngày, ông già xin gặp cha. Ông kể:
- “Thưa cha, đêm nay con mơ con đến cửa thiên đàng, nhưng khi bị hỏi: “Mẹ Chúa tên gì” thì con nói: “Cha chưa dạy tên đó.” Vì thế, cửa thiên đàng chưa mở ra cho con vào.”
Cha liền dạy ông già: MA RI A. Cha bắt ông lặp đi lặp lại hàng trăm lần cho nhớ.
Mai lại, ông già đòi gặp cha.
- “Thưa cha, hôm nay con mơ thấy con đến cửa thiên đàng. Con vừa đọc tên Maria thì cửa thiên đàng mở ra, nhưng Chúa cho con về lại trần gian vài ngày để dọn mình chết lành.”
Vài ngày sau, ông già qua đời. Nhưng trong những ngày đó, ông luôn lặp đi lặp lại Maria.
213. Thánh Lễ đối với linh mục
Thánh lễ là công việc quan trọng nhất của đời sống linh mục.
Làm linh mục, trước hết là để "làm lễ”. Chúa Giêsu truyền cho các linh mục: "Hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy.” (Lc 22,19), trước khi truyền các ngài: "Hãy ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.” (Mc 16,15).
Nếu không làm gì được vì những lý do ngoài ý muốn của mình, mà chỉ "làm lễ” được, thì linh mục đã đạt được lý tưởng linh mục của mình rồi.
Trại tập trung Dachau ở Baviera, Đức, trong kỳ Đệ nhị Thế chiến, được mệnh danh là "Địa ngục trần gian”. Lúc bấy giờ, trại nầy giam giữ 2529 linh mục thuộc 144 giáo phận của các nước đồng minh.
Trong trại tập trung kinh khủng nầy, có diễn ra một thánh lễ phong chức linh mục, và tân linh mục nầy chỉ dâng được một thánh lễ, rồi chết.
Số là: Thầy Sáu Carlo Leisner, tù binh trong trại, sắp qua đời vì bệnh lao phổi nặng. Thầy ao ước được chết trong chức linh mục. Đức Cha Gabriel Picquet, cũng là tù binh, bằng lòng phong chức linh mục cho thầy. Các linh mục trong trại tập trung rỉ tai nhau tổ chức một lễ phong chức linh mục trong trại, như trong Hang Toại Đạo.
Chiếc gậy Giám Mục bằng gỗ được khắc chữ: "Victor in vinculis” (Chiến Thắng Trong Gông Cùm).
Chịu chức xong, cha Carlo Leisner quá yếu, nằm liệt mê man hai tuần lễ.
Khi được hồi sức đôi chút, cha được giúp để kín đáo dâng Thánh Lễ mở tay, Thánh Lễ đầu đời và cũng là Thánh Lễ cuối đời của cha.
Thế mới hay: Thánh Lễ vô cùng cao sang! Thánh Lễ vô cùng quý giá! Thánh Lễ quá tuyệt vời!
Trong một số nhà thờ, người ta còn có thể đọc câu sau đây ở trên bàn thờ dọn đồ lễ: "Hỡi các linh mục đáng kính, các ngài hãy dâng Thánh Lễ nầy như thể là Thánh Lễ đầu tiên, như thể là Thánh Lễ cuối cùng, như thể là Thánh Lễ độc nhất! ”
213. Sợ Thánh Giá là nổi khổ nhất của chúng ta.
Thánh Vianê nói rằng sự sợ Thánh Giá là nổi khổ nhất của chúng ta. Ngài nói như sau:
“Trên con đường của Thánh Giá, chỉ có bước đầu mới gay go. Sợ Thánh Giá là nổi khổ nhất của chúng ta. Phần đông loài người từ chối Thánh Giá và tìm cách chạy trốn. Nhưng họ càng chạy trốn thì Thánh Giá càng đuổi theo họ, càng tấn công họ, càng đè nặng trên mình họ, … Vậy chúng ta hãy tiến lên để đón lấy Thánh Giá như thánh Anrê khi thấy cây Thánh Giá quân lý hình đang dựng lên trước mặt: “Kính chầóThnh Giá đáng yêu, đáng chuộng! Chớ gì Thánh Giá hãy đón nhận tôi và trao tôi về với Thầy tôi là Đấng sẽ dùng Thánh Giá để cứu chuộc tôi.”
214. “Bao lâu đại tá còn đứng đây thì con cũng đứng đây với đại tá.”
Đại tá Cesare d’ Azeglio kể câu chuyện cảm động về ông sau đây.
Trong một trận chiến, đại tá thua trận và bị bắt làm tù binh. Nhìn lui, đại tá thấy quân sĩ mình bỏ chạy hết, chỉ còn một tên lính trẻ đang đánh trống. Đại tá hỏi: “Con làm chi đây?” Tên lính đánh trống trả lời: “Thưa đại tá, bao lâu đại tá còn đứng đầy thì con cũng đứng đây với đại tá.”
216. Tôi là đầy tớ của mọi đầy tớ!
Khi Đức Giám mục thành Constantinople ở Phương Đông, vì kiêu ngạo muốn hơn Đức Giáo Hoàng ở Rôma, đã gởi thư cho Đức Giáo Hoàng Grêgôriô và ký tên: “Ta là Giám Mục của toàn thế giới.”, thì Đức Giáo Hoàng Grêgôriô viết thư trả lời lại và ký tên: “Tôi là đầy tớ của mọi đầy tớ.”
217. Cách ăn nết ở hơn lời nói
Cha sở một giáo xứ bên Italia kể câu truyện sau đây.
“Trong họ tôi, người ta sống rất lả lơi, nhất là giới thanh niên nam nữ. Tôi liền mời một cha dòng Capucino đến giảng tuần đại phúc. Trước khi tới nghe giảng đêm khai mạc, thanh niên nam nữ đã cười bảo nhau: “Thế nào ông cha dòng nầy cũng lên án xinê, khiêu vũ, thể thao, …” Nhưng họ bỡ ngỡ: điềm đạm và đoan trang, cha dòng giảng về tình yêu, về ơn nghĩa thánh, về các chân lý Đức Tin, không đả động gì đến những vấn đề ấy cả. Họ bảo nhau: “Chắc là mai, ông sẽ nói đến.” Mai lại, vẫn không. Rồi ngày mai lại nữa, cũng vẫn không. Cho đến khi bế mạc. Khi bế mạc tuần đại phúc xong, một nhóm thanh niên nam nữ đến tìm tôi và nói: “Bây giờ chúng con hiểu thế nào là phải đoan trang, đằm thắm, trong sạch nhờ thấy sự dịu dàng, đoan trang của cha dòng đã giảng cấm phòng, và chúng con biết thế nào là sự đoan trang làm đẹp lòng Chúa.”
218. “Tám giờ sáng ngày Chúa Nhựt, tôi mắc dự Lễ.”
Thủ tướng muốn gặp đại tướng Lamoricière vào lúc 08 giờ ngày Chúa Nhựt để bàn việc quan trọng. Đại tướng Lamoricière khẳng khái trả lời: “Thưa Thủ tướng, 08 giờ ngày Chúa Nhựt, tôi mắc dự Lễ.”
219. Chúa mắc nợ tôi.
Thánh Gioan Kim Khẩu chuộng ơn chịu đau khổ hơn quyền làm được phép lạ vì ngài nói rằng: “Khi tôi làm phép lạ, tôi mắc nợ Chúa. Còn khi tôi chịu đau khổ vì Chúa, Chúa mắc nợ tôi.” Và ngài nói thêm rằng ngài chuộng thánh Phaolô không phải vì thánh nầy được lên tầng trời thứ ba nhưng vì thánh nầy chịu mang xiềng xích đau khổ vì Chúa Giêsu Kitô.
220. Thánh giá riêng của mỗi người chúng ta
Thánh Giá Chúa cho chúng ta đang mang là Thánh Giá rất vừa sức chúng ta. Câu chuyện minh họa sau đây chứntg minh điều nầy.
Có một người luôn than van về những nổi khổ cực của mình. Một tối kia, Chúa sai thiên thần hiện đến, phán bảo ông ta:
- “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó, người ta để lại thánh giá của mình rất nhiều. Con hãy mang thánh giá của con ra đó và hãy lựa một cây thánh giá khác cho vừa sức con.”
Ông ta vui mừng, đem thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa và quyết đổi lấy một cây cho vừa sức mình.
Ông hăng hái lựa chọn, nhưng lựa mãi vẫn không được: có cây quá dài, khó vác; có cây quá ngắn, cũng khó vác; có cây nhẹ nhưng lại sù sì, lởm chởm, khó vác; có cây trơn tru nhưng lại quá nặng.
Ông lựa suốt đêm mà không được. Cuối cùng, ông nói với thiên thần:
- “Thưa thiên thần, đối với con, cây nào cũng khó vác. Chỉ có cây con định vất đi là vừa sức con mà thôi.”
Thiên thần gật đầu:
- “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức con, con hãy cám ơn Chúa và vui lòng vác nó. Chúa rất thương con. Từ nay con đừng than van nữa nhé!”
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần
LM. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
16:30 17/02/2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (19)
191. Thời giờ là nguyên liệu của mọi việc
Thời giờ là nguyên liệu của mọi việc vì có thời giờ, chúng ta có thể làm được nhiều, nhưng không có thời giờ, chúng ta không làm được việc gì hết. Vậy, chúng ta hãy quý chuộng thời giờ, hãy tiết kiệm thời giờ.
192. Ý Chúa quan trọng hơn ý của ta
Đôi khi những hoài bảo, những ý đinh của chúng ta ôm ấp tha thiết bị Chúa đánh đổ và vạch cho chúng ta một con đường khác. Chúng ta hãy sẵn lòng cúi đầu vâng theo ý đinh của Chúa. Đức Mẹ Maria đinh ninh sống một đời hiến thân cho Chúa, nhưng đã cúi đầu vâng theo thánh ý Chúa để làm một người mẹ.
193. Ta đừng bao giờ mất tinh thần!
Tinh thần phát xuất ra tư tưởng, mà tư tưởng lại điều khiển vật chất: chính theo hoạ đồ tư tưởng mà thành phố mọc lên, máy móc được sản xuất ra khỏi xưởng, tảng đá biến thành bức tượng, giây đàn ngân được giọng thánh thót, màu sắc biến thành bức tranh đẹp. Vậy, chúng ta đừng bao giờ mất tinh thần, vì khi mất tinh thần, chúng ta sẽ mất tất cả.
194. Điều kiện để làm thay đổi
Không phải chỉ nói suông mà thay đổi được cái gì đâu. Phải hiến mình, phải hy sinh, phải vị tha, phải tận tâm, chúng ta mới thay đổi được điều chúng ta muốn thay đổi.
195. Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi thế nào?
Chúa Giêsu chỉ đưa các môn đệ một lần lên núi sáng láng Taborê, còn ngoài ra, Ngài dẫn các môn đệ đi với Ngài trên những con đường sạn đá, đầy bụi, đi vào vườn đau khổ Giếtsêmani, đi lên Núi Sọ Canvariô tủi nhục.
Ai theo Chúa Giêsu, Ngài cũng đưa họ đi như vậy.
196. Thành công của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu thu hút người ta không phải khi Ngài giảng dạy (có người không chấp nhận), không phải khi Ngài làm phép lạ (có người phản đối), nhưng là khi Ngài bị treo trên Thập Giá.
Mục đích của chúng ta theo Chúa Giêsu không phải là để được ngồi bên hữu hay bên tả của Ngài, nhưng là để đi theo Ngài trên Con Đường Thập Giá và chịu đóng đinh với Ngài trên Cây Thánh Giá.
197. Không có hạnh phúc thật ở trên đời nầy đâu.
Tâm hồn chúng ta lớn hơn quả trái đất nầy. Những khát vọng của tâm hồn chúng ta bao la hơn cả vũ trụ. Nếu chúng ta nuôi dưỡng và làm thoả mãn tâm hồn chúng ta bằng những sung sướng chóng qua ở đồi nầy, chúng ta chỉ làm cho tâm hồn chúng ta càng thêm bàng hoàng, thổn thức và cay đăng mà thôi.
198. Cuộc đời là một bổn phận
Có kẻ xem cuộc đời là một cuộc lễ vui. Có kẻ cho cuộc đời là một sự đày đoạ cực khổ. Những hạng người nầy lầm vì đối với tất cả mọi người, cuộc đời là một bổn phận phải làm cho trọn. Tagore nói: “Tôi ngủ và tôi mơ thấy cuộc đời là một sự vui vẻ. Nhưng khi thức dậy, tôi thấy nó là một bổn phận. Tôi liền bắt đầu làm việc, và việc bổn phận của tôi biến thành niềm vui.”
199. Ích lợi của sự hỏi
Nhờ hỏi mà chúng ta biết được nhiều chuyện, giải quyết được nhiều vấn đề.
Chúng ta hãy năng dùng ba loại câu hỏi sau đây:
Một, loại câu hỏi để thảo luận: Theo kinh nghiệm của quý vị, thì ……
Hai, loại câu hỏi bổ túc: Quý vị nghĩ thế nào về ….
Ba, loại câu hỏi làm sáng tỏ: Có phải ông muốn nói rằng …
200. Ích lợi của sự nghe
Chúng ta hãy nghe: nghe người ta nói, nghe thời đại mình đang sống, nghe những biến cố đang xảy ra, nghe các lý luận và các giáo thuyết, nghe các nhu cầu của người ta, nghe các kỳ vọng của người ta, nghe các hy vọng của người ta, nghe các sự chống đối bất cứ từ đâu mà đến. Và nghe như vậy một cách không biết mệt, một cách thiện cảm, một cách bình tĩnh, một cách kính trọng, một cách không bỏ sót.
Sự nghe như vậy đem lại cho chúng ta biết bao nhiều điều ích lợi.
Kềm Hãm Tánh Kiêu Ngạo (thơ)
Tuyết Mai
02:22 17/02/2008
Kềm Hãm Tánh Kiêu Ngạo
Này cậu con trai khôn lớn của Mẹ!
Con có biết Tánh Kiêu Ngạo của con,
Làm cho Mẹ cảm thấy lo âu và e ngại,
Cho bản thân, cuộc đời, và Linh Hồn
Của con đến là dường nào không?
Con càng khôn lớn, đỗ đạt, thành công,
Tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con khôn,
Mẹ lại càng lo sợ cho con khi thấy,
Tánh tình ngày càng thay đổi, ngày càng
Kiêu ngạo, tự tôn, tự mãn, tự phụ, phách lối, khoác lác,
Hóng hách, khinh người, nhất là đối với kẻ ăn người ở,
Người làm công, dưới quyền cai quản của con.
Mẹ lại càng lo sợ cho con hơn vì
Càng ngày con tạo thêm nhiều kẻ thù,
Luôn rình rập, luôn là sự đe dọa, là nỗi sợ, là
Mối bận tâm lớn cho con, gia đình, và người thân.
Bây giờ Mẹ muốn con hãy cùng Mẹ,
Thư giãn và tạm quên sự đời trong một khoảnh khắc,
Để con thấy rằng con chỉ là một hạt cát vô dụng,
Nằm trong một biển cát mênh mông vô cùng tận,
Mà Thiên Chúa là Đấng nắm vận mạng
Cuộc đời và Linh Hồn của con.
Con thử ngẩng nhìn lên xem. ... trên bầu trời cao xanh!
Con thấy được những gì trong tầm mắt?
Có phải những gì còn tít xa khỏi đám mây
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã được tận mắt nhìn thấy tất cả những hành tinh,
Vệ tinh, và hằng hà sa số các vì sao thật bao la thăm thẳm,
Ngòai không gian và những gì hiện hữu trong vũ trụ.
Rồi thì con thử cúi nhìn xuống xem. ... dưới lòng biển!
Con nhìn thấy được những gì trong tầm mắt?
Có phải những gì còn tít sâu dưới lòng đại dương,
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã thám hiểm và biết được hết những gì,
Trong lòng Đại Dương sâu rộng tận cùng và mênh mông.
Rồi thì con cũng thử dõi xa tầm nhìn xem. ... ở mãi cuối chân trời!
Con nhìn thấy được những gì trong tầm mắt?
Ngòai mặt trời, da trời mầu xanh lơ, núi chất ngất cao,
Mây lơ lững trôi và chim trời bay lang thang gọi đàn.
Có phải những gì còn tít xa dưới vòm trời,
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã tham quan và được đặt chân đến,
Tất cả mọi nơi thanh lam thắng cảnh của Trái Đất.
Lại nữa con chớ có bao giờ xét đóan anh chị em!
Bởi con nhìn thấy được những gì,
Trong tận đáy lòng của anh chị em con!?
Làm sao con thấy và hiểu được trái tim và tâm hồn của họ?
Làm sao con thấy và hiểu được cuộc sống của họ?
Làm sao con biết và hiểu được tư tưởng của họ?
Làm sao con biết được họ sẽ nghĩ gì, nói gì, và làm gì?
Làm sao con hiểu thấu họ được,
Khi con chỉ nhìn và xét đóan bề ngòai của anh chị em con?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoác lác với anh chị em mà rằng:
Con rất rành rẽ về tâm lý, cuộc đời, và đời tư của họ,
Nhất là tự động cho mình cái quyền dậy dỗ và làm thầy đời,
Can thiệp vào cuộc sống gia đình của người ta.
Lấy lý do là mình có tuổi, có nhiều kinh nghiệm, hoặc
Lấy lý do mình là người có quyền thế, có tiếng nói,
Có thế lực, hay "miệng người sang có gang có thép".
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài mới biết tất cả những gì trong và ngòai vũ trụ.
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài mới biết tất cả những gì trong và ngòai con người vì
Chính Ngài đã tạo thành vũ trụ.
Chính Ngài đã dựng nên lòai người và
Chính Ngài đã dựng nên Nguyên Tổ của lòai người là Adong và Evà.
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài là Đấng Quyền Uy, Muôn Đời Hằng Hữu, và Tòan Năng.
Ngài mới có tòan quyền trong và ngòai vũ trụ.
Ngài mới có tòan quyền quyết định trên mạng sống,
Và Linh Hồn của tất cả nhân lọai con người chúng ta.
Còn con, con trai duy nhất của Mẹ,
Con chỉ là một phần tử rất rất so với
Công trình Tác Tạo vĩ đại Nhiệm Mầu của Ngài. ... mà thôi!
Mẹ Khuyên Con: “Hãy trở nên Bé Nhỏ và Khiêm Nhường".
Này cậu con trai khôn lớn của Mẹ!
Con có biết Tánh Kiêu Ngạo của con,
Làm cho Mẹ cảm thấy lo âu và e ngại,
Cho bản thân, cuộc đời, và Linh Hồn
Của con đến là dường nào không?
Con càng khôn lớn, đỗ đạt, thành công,
Tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con khôn,
Mẹ lại càng lo sợ cho con khi thấy,
Tánh tình ngày càng thay đổi, ngày càng
Kiêu ngạo, tự tôn, tự mãn, tự phụ, phách lối, khoác lác,
Hóng hách, khinh người, nhất là đối với kẻ ăn người ở,
Người làm công, dưới quyền cai quản của con.
Mẹ lại càng lo sợ cho con hơn vì
Càng ngày con tạo thêm nhiều kẻ thù,
Luôn rình rập, luôn là sự đe dọa, là nỗi sợ, là
Mối bận tâm lớn cho con, gia đình, và người thân.
Bây giờ Mẹ muốn con hãy cùng Mẹ,
Thư giãn và tạm quên sự đời trong một khoảnh khắc,
Để con thấy rằng con chỉ là một hạt cát vô dụng,
Nằm trong một biển cát mênh mông vô cùng tận,
Mà Thiên Chúa là Đấng nắm vận mạng
Cuộc đời và Linh Hồn của con.
Con thử ngẩng nhìn lên xem. ... trên bầu trời cao xanh!
Con thấy được những gì trong tầm mắt?
Có phải những gì còn tít xa khỏi đám mây
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã được tận mắt nhìn thấy tất cả những hành tinh,
Vệ tinh, và hằng hà sa số các vì sao thật bao la thăm thẳm,
Ngòai không gian và những gì hiện hữu trong vũ trụ.
Rồi thì con thử cúi nhìn xuống xem. ... dưới lòng biển!
Con nhìn thấy được những gì trong tầm mắt?
Có phải những gì còn tít sâu dưới lòng đại dương,
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã thám hiểm và biết được hết những gì,
Trong lòng Đại Dương sâu rộng tận cùng và mênh mông.
Rồi thì con cũng thử dõi xa tầm nhìn xem. ... ở mãi cuối chân trời!
Con nhìn thấy được những gì trong tầm mắt?
Ngòai mặt trời, da trời mầu xanh lơ, núi chất ngất cao,
Mây lơ lững trôi và chim trời bay lang thang gọi đàn.
Có phải những gì còn tít xa dưới vòm trời,
Con bị giới hạn không thể nào nhìn thấy cho hết được!?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoe khoang với anh chị em mà rằng:
Con đã tham quan và được đặt chân đến,
Tất cả mọi nơi thanh lam thắng cảnh của Trái Đất.
Lại nữa con chớ có bao giờ xét đóan anh chị em!
Bởi con nhìn thấy được những gì,
Trong tận đáy lòng của anh chị em con!?
Làm sao con thấy và hiểu được trái tim và tâm hồn của họ?
Làm sao con thấy và hiểu được cuộc sống của họ?
Làm sao con biết và hiểu được tư tưởng của họ?
Làm sao con biết được họ sẽ nghĩ gì, nói gì, và làm gì?
Làm sao con hiểu thấu họ được,
Khi con chỉ nhìn và xét đóan bề ngòai của anh chị em con?
Cho nên Mẹ bảo con, đừng khoác lác với anh chị em mà rằng:
Con rất rành rẽ về tâm lý, cuộc đời, và đời tư của họ,
Nhất là tự động cho mình cái quyền dậy dỗ và làm thầy đời,
Can thiệp vào cuộc sống gia đình của người ta.
Lấy lý do là mình có tuổi, có nhiều kinh nghiệm, hoặc
Lấy lý do mình là người có quyền thế, có tiếng nói,
Có thế lực, hay "miệng người sang có gang có thép".
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài mới biết tất cả những gì trong và ngòai vũ trụ.
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài mới biết tất cả những gì trong và ngòai con người vì
Chính Ngài đã tạo thành vũ trụ.
Chính Ngài đã dựng nên lòai người và
Chính Ngài đã dựng nên Nguyên Tổ của lòai người là Adong và Evà.
Bởi chỉ có Thiên Chúa. ... Duy Nhất
Ngài là Đấng Quyền Uy, Muôn Đời Hằng Hữu, và Tòan Năng.
Ngài mới có tòan quyền trong và ngòai vũ trụ.
Ngài mới có tòan quyền quyết định trên mạng sống,
Và Linh Hồn của tất cả nhân lọai con người chúng ta.
Còn con, con trai duy nhất của Mẹ,
Con chỉ là một phần tử rất rất
Công trình Tác Tạo vĩ đại Nhiệm Mầu của Ngài. ... mà thôi!
Mẹ Khuyên Con: “Hãy trở nên Bé Nhỏ và Khiêm Nhường".
Giải đáp phụng vụ: Lau những chén Thánh tại Hoa Kỳ
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
05:37 17/02/2008
Nói thêm về Bí Tích Rửa Tội và sự Dâng Chúa Giêsu trong đền Thánh.
ROME (Zenit,org).- Giải đáp của cha Đạo Binh Chúa Kitô, Cha Edward McNamara, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum.
Con là một thừa tác viên bất thường cho Rước Lễ. Con không phải là thầy giúp lễ được phong. Trong tháng 12 chúng con có khóa tập huấn lau các chén lễ, các bình ciboria và những bình khác dùng trong lúc cho Rước lễ. Chúng con được nói cho biết có nhiều thay đổi hơn nữa và chúng con phải nhận lãnh cuộc tập huấn mới. Cha có thể cung cấp một vài thông tin về những thay đổi mới không? –F.c., Little Egg Harbor, Nee Jersey.
Những thay đổi có lẽ qui chiếu về một bức thơ từ Toà Thánh, thơ ấy nói năng quyền tạm thời (hay là phép riêng) cho phép các thừa tác viên bất thường tại Hoa Kỳ (không như những nơi khác) giúp việc lau các bình thánh, không còn được tiếp tục nữa.
Như vậy việc lau chén phải do thầy Phó Tế thực hiện, nếu không có Phó Tế thì phải do thầy giúp lễ được phong hay là có thể do chính linh mục.
Năng quyền này đầu tiên được Bộ Phụng Tự và Bí Tích ban bố ngày 22/3/2002, được xử dụng trong một thời gian ba năm. Thơ chính thức ban năng quyền nói, một phần: “Do những lý do mục vụ nghiêm trọng, giám mục giáo phận có thể ban phép này cho linh mục chủ tế sử dụng sự trơ giúp, gặp trường hợp cần thiết cho phép cả những thừa tác viên bất thường trong việc lau sạch các bình thánh sau khi cho Rước Lễ xong, trong việc cử hành Thánh Lễ. Phép này được ban cho một thời ký ba năm như là một phép chuẩn khỏi qui tắc Huấn Thị Chung, Lễ Quy Roma.”
Khi năng lực hết hạn vào tháng 3/2005, hội đồng giám mục Hoa Kỳ lại xin gia hạn, nhưng không được chuẩy y ngay vì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời và sự tuyển chọn Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Sau cùng, năm 2006 chủ tịch Bộ Phụng Tự báo tin cho chủ tịch hội đồng giám mục Hoa Kỳ rằng Đức Thánh Cha nghĩ rằng nên từ chối lời xin năng quyền lần thứ 2.
Thơ viết như sau:
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích
Prot. n. 468/05/L Rome, 12/12/2006
Thưa Hông Y,
Tôi qui chiếu về những bức thơ của ngài ngày vào ngày 9/3/2005 và 7/3/2006, trong các bức thơ đó, nhân danh hội đồng giám mục mà ngài là Chủ Tịch, ngài xin một đổi mới năng quyền cho các thừa tác viên bất thường cho Rước Lễ được lau sạch các bình thánh sau Thánh Lễ, nơi nào không có đủ linh mục hay phó tế để lau sạch một số lớn chén lễ có thể được sử dụng trong Thánh Lễ.
Tôi đã trình bày toàn bộ vấn đề lên Đức Thánh Cha trong một buổi tiếp kiến ngài đã dành cho tôi ngày 9/6/2006, và đã nhận những chỉ thị hầu phúc đáp như sau:
1. Không chút nghi ngờ “dấu chỉ Hiệp Thông trọn vẹn hơn khi được ban dưới hai thể chất, bởi vì dưới hình thức này dấu chỉ bửa tiệc thánh Thể xem ra rõ ràng hơn” (Qui Chế Tổng Quát Sách lễ Roma, sô 281; Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, sô 390).
2. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vì nhiều người rước lễ có thể biến thành bất khôn việc cho mổi người uống từ chén lễ (x.Redemptionis Sacramentum, so 102). Việc nhúng và rước bằng lưỡi luôn luôn và mọi nơi vẫn là một sự lựa chọn hợp pháp, do luât phụng vụ chung của nghi Thức Roma.
3. Điều quan trọng là dạy dân chúng giáo lý liên quan với huấn giáo Công Đồng Trent là Chúa Kitô hiện diện đầy đủ dưới mổi thể chất, Việc rước Lễ dưới thể chất bánh mà thôi, như là một hiệu quả, tức là có thể rước tất cả hoa quả của ân sủng Thánh Thể (c. Denzinger-Schonmetzer, sô 1729; Qui Chế Tổng Quát sách lễ Roma, so 11, 282). Do đó, ‘vì những lý do mục vụ, cách Rước lễ này đã được thiết lập cách hợp pháp như là hình thức chung nhất trong nghi thức latinh (Giáo lý Hội Thánh công Giáo, sô 1390).
4. Số 279 Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma nói các bình thánh phải được lau sạch do linh mục, phó tế hay là một thầy giúp lễ được phong. Tình trạng văn bản này thành luật mới đây được Hội Đông về văn bản pháp luật làm sáng tỏ. Do đó, xem ra Bộ không thể ban năng quyền được xin lại do chỉ thị này theo luật chung của Giáo Hội Latinh.
5. Do đó thơ này là một sự thỉnh cầu các thành phần Hội Đồng Giám Mục Hiệp Chúng Quốc Mỹ Châu chuẩn bị những giải thích cần thiết và những chất liệu giáo lý cho hàng giáo sĩ và dân chúng của các ngài, ngõ hầu từ nay Qui Chế Tổng Quát của Sách lễ Roma, số 279, như gặp được trong editio typicatia của sách lễ Ronma, phải được tuân giữ khắp lãnh thổ của mình.
Với sự bày tỏ lòng qúy trọng và những lời chào huynh đệ của tôi, thưa Hồng Y, tôi vẫn là người bạn thân tình của ngài trong Chúa Kitô,
+ Francis Cardinal Arinze
Chủ tịch
Monsignor Mario Marini
Phó bí thư
* * *
Bí tích Rửa tội và sự Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Liên quan đến lần trước về những niên hiệu cử hành các lễ phép rửa và sự dâng mình của Chúa Kitô trong đền thánh, một linh mục từ Illinois cảnh giác tôi liên quan một sự sai sót nho nhở về lịch sự
Ngài viết: “ Trong năm 1955 sắc lệnh chung ‘Cum nostra’ của Thánh Bộ Nghi Thức đã bỏ tất cả các tuần bát nhật trừ các tuần bát Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống. Do đó, ngày 13/1. nguyên tuần bát nhật Lễ Hiển Linh, trở thành sự kỷ niệm Phép Rửa của Chúa Giêsu Kitô, được cử hành với bậc lễ kính kép (double major-theo sự xếp hạng lúc đó). Những bản văn Thánh Lễ và kinh nhật tụng vẫn giữ nguyên cho tới 1970 (SRC, ‘Cum Nostra,’ Số 16). Mặc dầu chủ đề rửa tội nổi bật trong phụng vụ Hiển Linh tại Phương Đông và không hoàn toàn vắng bóng trong phụng vụ Roma, không có ‘kỷ niệm tiền-hiện hữu của phép rửa Chúa kitô’ như là một lễ riêng biệt trong nghi thức Roma trước 1955. Tự sắc Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ‘Rubricarum Instructum’ trong năm 1960 và bản in mẫu 1962 của sách Lễ Roma chỉ điển chế những thay đổi đã được dẫn nhập sớm hơn bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII.”
Câu hỏi gốc về các ngày lễ cũng nhắc nhớ một câu hỏi khác từ một linh mục Pensylvania liên hệ lịch năm này.
Linh mục hỏi: “ Năm 2008, Ngày Lễ các Thánh là ngày Thứ Bảy. Tại Hoa Kỳ, không phải là một ngày lễ trong năm. Lễ các Linh hồn nhằm ngày Chúa Nhật, Việc kỷ niệm Các Linh Hồn thay thế Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Vậy phải cử hành Thánh lễ nào chiều thứ Bảy, 1/11/2008, Thánh lễ Vọng cho Ngày Chúa Nhật? Hẳn nhiên không có Thánh lễ Vọng cầu nguyện cho các Linh hồn.”
Tuy Lễ Các Thánh có thể không phải là ngày lễ buộc, nó vẫn là một lễ trọng ghi trong lịch chung. Như vậy nó ưu tiên hơn sự Kỷ Niệm các Tín Hữu đã qua đời, cử hành theo thứ bậc của nó.
Phụng vụ các Giờ Kinh lấy từ lễ các Thánh, mặc dầu nơi nào có thói quen cử hành buổi đọc Kinh Chiều công khai cho những người qua đời sau Kinh Chiều Các Thánh, thói quen này có thể giữ lại. Cũng vậy, khi ngày 2/11 trúng một ngày Chúa Nhật, Phụng vụ các Giờ Kinh là phụng vụ của Chúa Nhật hiện tại mặc dầu nó có thể được thay thế bởi Phụng vụ giờ Kinh các kẻ qua đời trong buổi đọc kinh chung.
Nếu chúng ta có thể được hướng dẫn bởi những chỉ thị trong lịch phụng vụ Roma, lúc đó tất cả các Thánh lễ dâng kính trong ngày 1/11 phải là những thánh lễ Các Thánh.
Sự chỉ dẫn thường lệ của Thánh Lễ chiều thứ Bảy không có, và sự cử hành việc kỷ niệm các tín hữu đã Qua Đời được cử hành trong ngày Chúa Nhật mà thôi, ngày 2/11.
Lịch cũng gợi ý rằng dầu sự kỷ niệm này nhằm một ngày Chúa Nhật, do đặc tính duy nhất của nó, bỏ kinh Vinh Danh và kinh Tin Kính.
Vì Lễ Các Thánh không phải là một ngày buộc, và có tất cả những đặc tánh của một ngày Chúa Nhật, tôi thiết nghĩ rằng một giáo phận có thể quyết định những người tham dự Thánh lễ chiều ngày thứ Bảy 1/11, đã làm trọn luật buộc ngày Chúa Nhật cho dầu những công thức Thánh lễ thuộc về các Thánh.
ROME (Zenit,org).- Giải đáp của cha Đạo Binh Chúa Kitô, Cha Edward McNamara, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum.
Con là một thừa tác viên bất thường cho Rước Lễ. Con không phải là thầy giúp lễ được phong. Trong tháng 12 chúng con có khóa tập huấn lau các chén lễ, các bình ciboria và những bình khác dùng trong lúc cho Rước lễ. Chúng con được nói cho biết có nhiều thay đổi hơn nữa và chúng con phải nhận lãnh cuộc tập huấn mới. Cha có thể cung cấp một vài thông tin về những thay đổi mới không? –F.c., Little Egg Harbor, Nee Jersey.
Những thay đổi có lẽ qui chiếu về một bức thơ từ Toà Thánh, thơ ấy nói năng quyền tạm thời (hay là phép riêng) cho phép các thừa tác viên bất thường tại Hoa Kỳ (không như những nơi khác) giúp việc lau các bình thánh, không còn được tiếp tục nữa.
Như vậy việc lau chén phải do thầy Phó Tế thực hiện, nếu không có Phó Tế thì phải do thầy giúp lễ được phong hay là có thể do chính linh mục.
Năng quyền này đầu tiên được Bộ Phụng Tự và Bí Tích ban bố ngày 22/3/2002, được xử dụng trong một thời gian ba năm. Thơ chính thức ban năng quyền nói, một phần: “Do những lý do mục vụ nghiêm trọng, giám mục giáo phận có thể ban phép này cho linh mục chủ tế sử dụng sự trơ giúp, gặp trường hợp cần thiết cho phép cả những thừa tác viên bất thường trong việc lau sạch các bình thánh sau khi cho Rước Lễ xong, trong việc cử hành Thánh Lễ. Phép này được ban cho một thời ký ba năm như là một phép chuẩn khỏi qui tắc Huấn Thị Chung, Lễ Quy Roma.”
Khi năng lực hết hạn vào tháng 3/2005, hội đồng giám mục Hoa Kỳ lại xin gia hạn, nhưng không được chuẩy y ngay vì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời và sự tuyển chọn Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Sau cùng, năm 2006 chủ tịch Bộ Phụng Tự báo tin cho chủ tịch hội đồng giám mục Hoa Kỳ rằng Đức Thánh Cha nghĩ rằng nên từ chối lời xin năng quyền lần thứ 2.
Thơ viết như sau:
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích
Prot. n. 468/05/L Rome, 12/12/2006
Thưa Hông Y,
Tôi qui chiếu về những bức thơ của ngài ngày vào ngày 9/3/2005 và 7/3/2006, trong các bức thơ đó, nhân danh hội đồng giám mục mà ngài là Chủ Tịch, ngài xin một đổi mới năng quyền cho các thừa tác viên bất thường cho Rước Lễ được lau sạch các bình thánh sau Thánh Lễ, nơi nào không có đủ linh mục hay phó tế để lau sạch một số lớn chén lễ có thể được sử dụng trong Thánh Lễ.
Tôi đã trình bày toàn bộ vấn đề lên Đức Thánh Cha trong một buổi tiếp kiến ngài đã dành cho tôi ngày 9/6/2006, và đã nhận những chỉ thị hầu phúc đáp như sau:
1. Không chút nghi ngờ “dấu chỉ Hiệp Thông trọn vẹn hơn khi được ban dưới hai thể chất, bởi vì dưới hình thức này dấu chỉ bửa tiệc thánh Thể xem ra rõ ràng hơn” (Qui Chế Tổng Quát Sách lễ Roma, sô 281; Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, sô 390).
2. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vì nhiều người rước lễ có thể biến thành bất khôn việc cho mổi người uống từ chén lễ (x.Redemptionis Sacramentum, so 102). Việc nhúng và rước bằng lưỡi luôn luôn và mọi nơi vẫn là một sự lựa chọn hợp pháp, do luât phụng vụ chung của nghi Thức Roma.
3. Điều quan trọng là dạy dân chúng giáo lý liên quan với huấn giáo Công Đồng Trent là Chúa Kitô hiện diện đầy đủ dưới mổi thể chất, Việc rước Lễ dưới thể chất bánh mà thôi, như là một hiệu quả, tức là có thể rước tất cả hoa quả của ân sủng Thánh Thể (c. Denzinger-Schonmetzer, sô 1729; Qui Chế Tổng Quát sách lễ Roma, so 11, 282). Do đó, ‘vì những lý do mục vụ, cách Rước lễ này đã được thiết lập cách hợp pháp như là hình thức chung nhất trong nghi thức latinh (Giáo lý Hội Thánh công Giáo, sô 1390).
4. Số 279 Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma nói các bình thánh phải được lau sạch do linh mục, phó tế hay là một thầy giúp lễ được phong. Tình trạng văn bản này thành luật mới đây được Hội Đông về văn bản pháp luật làm sáng tỏ. Do đó, xem ra Bộ không thể ban năng quyền được xin lại do chỉ thị này theo luật chung của Giáo Hội Latinh.
5. Do đó thơ này là một sự thỉnh cầu các thành phần Hội Đồng Giám Mục Hiệp Chúng Quốc Mỹ Châu chuẩn bị những giải thích cần thiết và những chất liệu giáo lý cho hàng giáo sĩ và dân chúng của các ngài, ngõ hầu từ nay Qui Chế Tổng Quát của Sách lễ Roma, số 279, như gặp được trong editio typicatia của sách lễ Ronma, phải được tuân giữ khắp lãnh thổ của mình.
Với sự bày tỏ lòng qúy trọng và những lời chào huynh đệ của tôi, thưa Hồng Y, tôi vẫn là người bạn thân tình của ngài trong Chúa Kitô,
+ Francis Cardinal Arinze
Chủ tịch
Monsignor Mario Marini
Phó bí thư
* * *
Bí tích Rửa tội và sự Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Liên quan đến lần trước về những niên hiệu cử hành các lễ phép rửa và sự dâng mình của Chúa Kitô trong đền thánh, một linh mục từ Illinois cảnh giác tôi liên quan một sự sai sót nho nhở về lịch sự
Ngài viết: “ Trong năm 1955 sắc lệnh chung ‘Cum nostra’ của Thánh Bộ Nghi Thức đã bỏ tất cả các tuần bát nhật trừ các tuần bát Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống. Do đó, ngày 13/1. nguyên tuần bát nhật Lễ Hiển Linh, trở thành sự kỷ niệm Phép Rửa của Chúa Giêsu Kitô, được cử hành với bậc lễ kính kép (double major-theo sự xếp hạng lúc đó). Những bản văn Thánh Lễ và kinh nhật tụng vẫn giữ nguyên cho tới 1970 (SRC, ‘Cum Nostra,’ Số 16). Mặc dầu chủ đề rửa tội nổi bật trong phụng vụ Hiển Linh tại Phương Đông và không hoàn toàn vắng bóng trong phụng vụ Roma, không có ‘kỷ niệm tiền-hiện hữu của phép rửa Chúa kitô’ như là một lễ riêng biệt trong nghi thức Roma trước 1955. Tự sắc Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ‘Rubricarum Instructum’ trong năm 1960 và bản in mẫu 1962 của sách Lễ Roma chỉ điển chế những thay đổi đã được dẫn nhập sớm hơn bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII.”
Câu hỏi gốc về các ngày lễ cũng nhắc nhớ một câu hỏi khác từ một linh mục Pensylvania liên hệ lịch năm này.
Linh mục hỏi: “ Năm 2008, Ngày Lễ các Thánh là ngày Thứ Bảy. Tại Hoa Kỳ, không phải là một ngày lễ trong năm. Lễ các Linh hồn nhằm ngày Chúa Nhật, Việc kỷ niệm Các Linh Hồn thay thế Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Vậy phải cử hành Thánh lễ nào chiều thứ Bảy, 1/11/2008, Thánh lễ Vọng cho Ngày Chúa Nhật? Hẳn nhiên không có Thánh lễ Vọng cầu nguyện cho các Linh hồn.”
Tuy Lễ Các Thánh có thể không phải là ngày lễ buộc, nó vẫn là một lễ trọng ghi trong lịch chung. Như vậy nó ưu tiên hơn sự Kỷ Niệm các Tín Hữu đã qua đời, cử hành theo thứ bậc của nó.
Phụng vụ các Giờ Kinh lấy từ lễ các Thánh, mặc dầu nơi nào có thói quen cử hành buổi đọc Kinh Chiều công khai cho những người qua đời sau Kinh Chiều Các Thánh, thói quen này có thể giữ lại. Cũng vậy, khi ngày 2/11 trúng một ngày Chúa Nhật, Phụng vụ các Giờ Kinh là phụng vụ của Chúa Nhật hiện tại mặc dầu nó có thể được thay thế bởi Phụng vụ giờ Kinh các kẻ qua đời trong buổi đọc kinh chung.
Nếu chúng ta có thể được hướng dẫn bởi những chỉ thị trong lịch phụng vụ Roma, lúc đó tất cả các Thánh lễ dâng kính trong ngày 1/11 phải là những thánh lễ Các Thánh.
Sự chỉ dẫn thường lệ của Thánh Lễ chiều thứ Bảy không có, và sự cử hành việc kỷ niệm các tín hữu đã Qua Đời được cử hành trong ngày Chúa Nhật mà thôi, ngày 2/11.
Lịch cũng gợi ý rằng dầu sự kỷ niệm này nhằm một ngày Chúa Nhật, do đặc tính duy nhất của nó, bỏ kinh Vinh Danh và kinh Tin Kính.
Vì Lễ Các Thánh không phải là một ngày buộc, và có tất cả những đặc tánh của một ngày Chúa Nhật, tôi thiết nghĩ rằng một giáo phận có thể quyết định những người tham dự Thánh lễ chiều ngày thứ Bảy 1/11, đã làm trọn luật buộc ngày Chúa Nhật cho dầu những công thức Thánh lễ thuộc về các Thánh.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
10:37 17/02/2008
BI THƯƠNG ĐƯỢC LÀM QUAN
Sùng Môn của nước Tống có một người dân, khi cha mẹ chết, anh ta trong thời kỳ để tang vì bi thương đau khổ quá độ mà thân thể tiều tụy không tả được, biến thành người rất suy nhược.
Vua nước Tống cho rằng anh ta rất hiếu thảo nên đề bạt anh ta làm quan.
Qua năm thứ hai, trong nước Tống người để tang cha mẹ vì bi thương quá độ mà chết thì có hơn mười người, từ trước đến nay chưa hề xảy ra chuyện như thế, e rằng mọi người đều hy vọng có thể nhờ chuyện để tang mà kiếm được một chức quan để giống như người kia ở Sùng Môn vậy.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng-Thất thuật)
Suy tư:
Người ở Sùng Môn nước Tống khóc lóc đến hại thân là thật lòng thảo kính cha mẹ, chứ không phải vì để được làm quan mà khóc lóc tiều tụy; trái lại có những người vì để được làm quan mà khóc lóc đến nổi chức quan không có mà lại còn mất mạng sống.
Có người khóc trong lòng và có người khóc nơi mắt, nhưng dù khóc trong lòng hay khóc nơi mắt thì cũng đều do một tấm lòng hiếu thảo cha mẹ mà ra, bởi vì có những đứa con rất thương yêu thảo kính cha mẹ nhưng khóc rất ít; lại có những đứa con khi cha mẹ còn sống thì không quan tâm chăm sóc, đến khi cha mẹ qua đời thì khóc lóc bù lu bù loa...
Khóc thương cha mẹ là chuyện thường tình của con người, nhưng lợi dụng đám tang của cha mẹ để kinh doanh làm lợi cho mình, thì quả thật là con bất hiếu, dù cho họ có khóc lóc tiều tụy đến chết...
Ai hiểu được thì hiểu !
N2T |
Sùng Môn của nước Tống có một người dân, khi cha mẹ chết, anh ta trong thời kỳ để tang vì bi thương đau khổ quá độ mà thân thể tiều tụy không tả được, biến thành người rất suy nhược.
Vua nước Tống cho rằng anh ta rất hiếu thảo nên đề bạt anh ta làm quan.
Qua năm thứ hai, trong nước Tống người để tang cha mẹ vì bi thương quá độ mà chết thì có hơn mười người, từ trước đến nay chưa hề xảy ra chuyện như thế, e rằng mọi người đều hy vọng có thể nhờ chuyện để tang mà kiếm được một chức quan để giống như người kia ở Sùng Môn vậy.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng-Thất thuật)
Suy tư:
Người ở Sùng Môn nước Tống khóc lóc đến hại thân là thật lòng thảo kính cha mẹ, chứ không phải vì để được làm quan mà khóc lóc tiều tụy; trái lại có những người vì để được làm quan mà khóc lóc đến nổi chức quan không có mà lại còn mất mạng sống.
Có người khóc trong lòng và có người khóc nơi mắt, nhưng dù khóc trong lòng hay khóc nơi mắt thì cũng đều do một tấm lòng hiếu thảo cha mẹ mà ra, bởi vì có những đứa con rất thương yêu thảo kính cha mẹ nhưng khóc rất ít; lại có những đứa con khi cha mẹ còn sống thì không quan tâm chăm sóc, đến khi cha mẹ qua đời thì khóc lóc bù lu bù loa...
Khóc thương cha mẹ là chuyện thường tình của con người, nhưng lợi dụng đám tang của cha mẹ để kinh doanh làm lợi cho mình, thì quả thật là con bất hiếu, dù cho họ có khóc lóc tiều tụy đến chết...
Ai hiểu được thì hiểu !
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
10:38 17/02/2008
N2T |
2. Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin.
(Thánh Thomas Aquinas)Bình Luận Kinh Lạy Cha của Thánh Francois de Sales
Vũ Văn An
12:01 17/02/2008
Bình Luận Kinh Lạy Cha của Thánh Francois de Sales
Thánh Francois de Sales, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1567, qua đời ngày 28 tháng 12 năm 1622, là giám mục Genève từ năm 1602 cho đến lúc qua đời. Ngài được Đức Giáo Hoàng Alexandrô thứ VII phong chân phước ngày 8 tháng Giêng nằm 1661 và phong hiển thánh ngày 19 tháng 4 năm 1665. Giáo Hội Công Giáo mừng kính Ngài ngày 24 tháng Giêng. Giáo Hội Anh Giáo cũng mừng kính Ngài ngày ấy. Chân phúc Giáo Hoàng Piô IX tôn Ngài lên hàng Tiến Sĩ Giáo Hội vào năm 1877. Năm 1923, Đức Giáo Hoàng Piô XI phong Ngài làm quan thầy các nhà văn và nhà báo. Tài giảng thuyết của Ngài đã lôi cuốn nhiều người theo Calvin trở lại đức tin Công Giáo. Dòng nổi tiếng do thánh Gioan Dom Bosco thành lập năm 1859, đã được đặt tên theo Thánh Nhân.
Thánh Francois de Sales viết nhiều tác phẩm nổi tiếng được Bách Khoa Từ Điển Công Giáo liệt kê như sau: Các Tranh Luận (gồm nhiều khảo luận giảng giải đức tin Công Giáo cho người theo phe Calvin vùng Le Chablais); Bênh Vực Ngọn Cờ Thánh Giá (nói về sức mạnh của Cây Thánh Giá Thật, của tượng Chịu Nạn, của Dấu Thánh Giá; và giải thích việc Tôn Kính Thánh Giá); Dẫn Nhập Đời Sống Đạo Đức (nhằm hướng dẫn các linh hồn sống trong thế gian bước vào con đường tu đức với chủ trương: “quả là sai lầm, kể cả lạc giáo nữa” khi cho rằng tu đức không thích hợp cho mọi bậc sống); Khảo Luận Về Tình Yêu Thiên Chúa (một công trình có thế giá gồm 12 cuốn cho thấy tác giả quả thiên bẩm và thánh thiện); Bàn Thảo Thiêng Liêng (các bài huấn đức cho các Nữ Tu Dòng Thăm Viếng, do Ngài và thánh nữ Jane Frances de Chantal thành lập); Các Bài Giảng (trọn bộ từ lúc chưa làm giám mục đến lúc đã làm giám mục. Đức Piô IX khi phong tước Tiến Sĩ Giáo Hội cho Ngài đã gọi Ngài là “Bậc Thầy và Người Tái Tạo Khoa Hùng Biện Thánh”); Các Thư (linh hướng). Ngoài ra còn nhiều khảo luận và tác phẩm nhỏ nữa. Sách Nguyện Rôma nhận xét về công trình sáng tác của Thánh Francois de Sales như sau: “Các trước tác của Thánh Francois de Sales, đầy rẫy học lý từ trời, là ánh sáng chói lọi trong Giáo Hội, chỉ cho các linh hồn con đường dễ dàng và chắc chắn để đạt trọn lành cho đời sống Kitô hữu”.
Chúng tôi cho chuyển ngữ bài bình luận của Thánh Nhân về Kinh Lạy Cha, một lối bình luận chỉ vị Thánh mới có, không giống những bình luận thần học hiện nay ta thường đọc, trong đó, nhiều khi tác giả chỉ biết nói với chính mình về một tài liệu tôn giáo cần phải mổ xẻ, chứ không hẳn là lời kinh duy nhất của chính Chúa Giêsu truyền ta phải đọc. Tài liệu này nguyên văn bằng tiếng Pháp, lấy từ trang mạng http://www4.allencol.edu/salesian/salesian.html và www.catho.org
Lạy Cha: Bài Giảng Lễ Các Thánh 1-11-1621
Lời cầu nguyện cận kề hết sức con thảo, đầy tình yêu thương và tin tưởng; lời cầu nguyện này ngỏ cùng Thiên Chúa như Cha và chúa tể của ta. Chính Chúa ta đã dạy ta phương pháp này qua Kinh Cầu Cùng Thiên Chúa (Mt 6:9; Lc 11:2), là Kinh được Ngài bắt đầu bằng lời này: Lạy Cha chúng con. Ôi lạy Thiên Chúa, lời ấy đầy yêu thương xiết bao, nó làm tâm hồn chúng con tràn đầy êm dịu và tình con thảo biết nhường nào! Đó là điều các bạn sẽ nhận ra trong các lời cầu xin được đưa ra trong Kinh này, trong đó, ta thưa chuyện trực tiếp với chính Thiên Chúa; vì sau khi đã gọi Thiên Chúa là Cha, ta cầu xin Ngài ban Nước Ngài (cho ta) và ý Ngài thể hiện dưới đất này cũng như trên Trời cao kia. Ôi những lời cầu xin ấy cao cả, đầy yêu thương và tin tưởng xiết bao!
DIỄN GIẢNG KINH LẠY CHA: (gửi Phu Nhân G. Scaglia)
Cha muôn thuở, Cha Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Cha ánh sáng (Gc 1:17), Cha chí thánh, Cha rất dịu dàng và đầy yêu thương, Cha tạo dựng vũ trụ: bao giờ con mới xứng đáng gọi Cha là Cha, con chỉ là đất, là bụi là tro (St 18:27), kẻ rốt hết trong các tôi tớ của Cha? Cha đã tìm được điều tốt nào nơi con hay nơi bất cứ con cái Adong nào khác khiến Cha muốn làm Cha chúng con? “Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là chi?” Chúa là Thiên Chúa uy nghi vô cùng, là Vua các Vua, là Chúa các chúa (Kh 17:14; Kh 19:16), là Thánh các thánh, là vinh quang các Thiên Thần và hân hoan các Thánh. Trước nhan thánh Chúa, trời và đất cùng muôn loài trong chúng chỉ là hạt cát nhỏ so với thế giới bao la; về phần con, con chỉ là con sâu đất, kẻ tội lỗi và con cái Adong tội lỗi, biết bao lần xúc phạm Uy Linh tối cao Chúa: ấy thế nhưng Chúa lại muốn con gọi Chúa là Cha! Ôi, Chúa ban cho con sự cao trọng, địa vị cao sang xiết bao! Lạy Chúa, nếu đẹp lòng Chúa, xin cho linh hồn con biết nhận ra điều ấy mà dâng lên Chúa lời tạ ơn xứng đáng đối với các ơn huệ lớn lao này. Nhưng vì con không làm sao cám ơn Chúa cho đủ, nên con xin các Thiên Thần giúp con ca khen và cảm tạ Uy Linh Chúa không cùng.
Lạy Cha, con phải tuyên xưng hai điều: một là, ơn huệ và ơn phúc lớn lao này phát xuất từ lòng nhân hậu vô biên và tình thương bất tận Cha đã dành cho con; hai là, tiếng Cha này rất thích hợp trên môi miệng Con duy nhất của Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Ngài vốn là Con do Chúa sinh ra từ thuở đời đời và đồng bản tính với Chúa. Chứ trên môi miệng con, một kẻ tội lỗi đê hèn này, nó chẳng thích hợp, chẳng thích đáng chút nào. Lạy Chúa, con quả không đáng được hưởng sự tốt lành này. Tuy nhiên, vì điều ấy đẹp lòng Chúa, nên từ nay con hết lòng xưng Chúa là Cha và sẽ mãi mãi thưởng ngoạn danh Cha đầy dịu dàng này.
Lạy Chúa, từ ngữ này chứng thực tình yêu vô biên Chúa dành cho con; chính vì thế Phúc âm gia của Chúa đã ngạc nhiên thốt lên: Anh em thấy Cha đã chứng tỏ với ta một tấm tình yêu cao cả xiết bao, đến độ ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và quả thật ta là con cái Chúa thật (Eph 3:1). Nó dạy con và đồng thời cảnh cáo con rằng con phải yêu Chúa hết tâm hồn con: Lạy Chúa, con yêu Chúa, Chúa là Sức mạnh, là đá tảng, là nơi nương náu, là đấng giải thoát con và là Cha con (Tv 17:2[*]). Người ta kiếm đâu được đứa con nào vô ơn bội nghĩa ở trên đời, có một người Cha tốt lành, thánh thiện, dịu dàng, vinh hiển và đầy yêu thương như Chúa mà lại không yêu thương cho được? Ôi lạy Cha, chúng con tìm đâu được một người cha tốt lành, thánh thiện, dịu dàng và đầy yêu thương như Cha? Bởi thế, lạy Cha, chớ chi tâm hồn con loại bỏ mọi thứ tình yêu khác để rực lửa, để giữa Cha, Lạy Cha, và con, đứa con của Cha, luôn tiếp diễn một tình yêu hỗ tương bền bỉ.
Chữ Cha này khích lệ con cầu xin Cha những điều cần thiết cho con, vì một người cha có bao giờ khước từ con mình điều ông thấy con mình cần, miễn là ông có khả năng cung cấp cho con điều ấy. Lạy Cha của con, con biết Cha có khả năng và Cha lại muốn ban cho con nữa; Cha có khả năng, vì Cha là Đấng Toàn Năng; cha muốn ban cho con vì cha tốt lành vô cùng. Phần con, nhu cầu nào con cũng cần cả: con đầy thương tích vì biết bao tội lỗi, con cần thuốc chữa; lạy Cha, Cha là thầy thuốc chữa lành mọi bạc nhược và săn sóc mọi tật bệnh (Mt 4:23), vậy, lạy Cha, xin Cha thương xót con, vì con rất yếu đuối; xin chữa lành con vì xương cốt con đang run rẩy (Tv 6:3) và con sẽ lành mạnh. Lạy Chúa, xin Chúa chữa lành linh hồn này, Chúa hãy xem trước nhan Chúa, linh hồn con đầy thương tích xiết bao: nào là thương tích kiêu ngạo, nào là thương tích hà tiện, và ăn chơi phung phá… và trong thương tích ấy, nó cầu xin được khỏe mạnh.
Vả lại, lạy Cha, con biết con trần trụi và thiếu thốn quần áo nhân đức xiết bao. Lạy Cha, xin Cha phủ kín con như Cha đã phủ kín tầng trời bằng hằng hà vô số trăng sao và trái đất bằng muôn vàn hoa lá xinh tươi; xin Cha ban cho con y phục ngày cưới (Mt 17:2), y phục bác ái để con xứng đáng đến dự tiệc tân hôn của Cha; y phục vâng lời để con tuân thủ lệnh truyền và lề luật của Cha; y phục khiêm nhường để con đẹp mắt Cha. Xin Cha hãy mặc cho con những áo quần phong phú dệt đầy các nhân đức phú bẩm; xin Cha ban cho con đức tin hoàn hảo, đức cậy vững vàng, đức ái rực nóng.
Sau nữa, lạy Cha nhân hậu, con cầu xin Cha đoái thương dùng quyền người Cha đối đãi với con. Người Cha nào cũng đánh con khi con sai lạc, để sửa dạy con. Nếu không làm thế, nếu không đánh con như thế, con sẽ tệ đi, có khi còn hư mất nữa. Bởi thế, lạy Chúa, xin hãy đánh con với lòng thương xót. Xin Chúa hãy đập con bằng lòng thương xót; hãy thiêu đốt hãy tỉa đốn ở đời này, để lúc vào cõi vĩnh hằng con được Cha tha thứ. Và lạy Cha, nếu con không chịu tu sửa bản thân con, xin Cha hãy nặng cánh tay thánh thiện của Cha mà giáng xuống trên con mạnh hơn đủ tân toan, bệnh hoạn, buồn lo, xao xuyến. Sự hư nát hãy nhập đầy xương cốt con, hãy phá hủy con từ bên trong để con được yên nghỉ vào ngày ưu phiền và được nhập đoàn dân Chúa mà cùng tiến bước với họ (?); lạy Cha nhân hậu, con cầu xin cho xương cốt này tan nát, nghĩa là cũng như ông Gióp ngày xưa, thân xác con đầy ghẻ lở và thương tích, miễn là linh hồn con được yên nghỉ vào ngày ưu phiền, tức ngày lìa đời, và được kể vào số con cái Cha tức dân thánh trên trời, những người được mặc vinh quang và hạnh phúc.
Người cha nào sau khi đã phạt, đã đánh con, đều âu yếm nó. Lạy Cha, sau khi đã vì lòng thương mà đánh đập con vì các khùng điên của con, xin Cha đoái thương viếng thăm con bằng các ủi an thiêng liêng, xin Cha âu yếm linh hồn con bằng sự dịu ngọt nội tâm để nó rực lên tình yêu Cha và không ngừng ca tụng Cha.
Ôi, chữ Cha làm dấy lên trong con niềm an ủi xiết bao. Và không phải chỉ có an ủi thôi đâu, mà còn hân hoan, vui mừng và mãn nguyện tột đỉnh nữa. Thánh tiên tri ngày xưa, dù chưa được mạc khải chữ Cha này, cũng đã thốt lên: Chúa sẽ làm trái tim con nghe được những lời vui mừng hớn hở, và xương cốt mục rữa con sẽ nhẩy mừng hân hoan (Tv 50:10). Còn con, con phải nói sao đây? Lạy Cha, Cha đã cho con nghe được những lời vui mừng hớn hở; ôi, khi tiếng Cha dịu dàng này vang bên tai con, con cảm thấy vui mừng hớn hở không bút nào tả xiết! Linh hồn bị hạ nhục, xương cốt bị tàn tạ vì muôn vàn tội lỗi này bỗng được tái tạo, nhận được sinh lực mới hẳn khi nghe được tiếng Cha này. Còn niềm vui nào lớn hơn là niềm vui khi nhớ ra rằng con có được một người Cha tốt lành dường ấy, mà Ngài còn là chính sự tốt lành nữa; thánh thiện dường ấy, mà còn là chính sự thánh thiện nữa; khôn ngoan dường ấy, mà còn là chính sự khôn ngoan nữa, và sau cùng toàn năng dường ấy, làm được mọi sự trên Trời, dưới đất cũng như dưới vực thẳm nữa. Kẻ giầu có hãy vui mừng vì sự giầu có của mình, kẻ quyền năng hãy vui mừng vì quyền năng của mình, kẻ khôn ngoan hãy vui mừng vì sự khôn ngoan của mình: đối với tôi, tôi vui mừng trong Chúa (?), vì Ngài là Cha và là Cha chúng tôi. Kẻ đặt lòng tin vào chiến xa, kẻ đặt niềm tin vào chiến mã; còn chúng tôi, chúng tôi nhẩy mừng trong danh Thiên Chúa chúng tôi (Tv 19:8). Lạy Chúa, chớ chi thần trí con nhẩy mừng trong Chúa, ôi lạy Chúa, Đấng Cứu vớt và là Cha chúng con (Lc 1:42). Chữ Cha này cho con thấy sự chăm sóc của Cha và ơn quan phòng của Cha lớn lao xiết bao đối với con và mọi người. Lạy Cha, mỗi ngày, Cha đều chuẩn bị bàn ghế và tổ chức tiệc tùng đãi ngộ toàn bộ trần gian, con có tham dự những tiệc tùng hân hoan này; mỗi ngày Cha đều khiến mặt trời chiếu sáng chúng con, là con cái Cha, và đến tối, cha lại che giấu nguồn sáng tốt đẹp ấy đi như thể tắt đèn đi để chúng con là con cái Cha có dịp thư giãn và ngủ nghỉ; lạy Chúa, Chúa chiếm giữ trời và đất là vì con, và Chúa còn trao phó con cho các Thiên Thần săn sóc: tất cả những điều đó là để con được hưởng gia nghiệp dành cho con cái Cha, tức Nước Trời. Nhờ thế, con nhận ra Cha quả là người Cha biết lo lắng hết mình cho chúng con, con cái Cha.
Sau cùng, chữ Cha này luôn khuyến khích con để bất cứ khi nào vấp ngã, con có thể chạy ùa vào vòng tay Cha với lòng ăn năn thống hối, vì con sẽ được tiếp nhận một cách yêu thương hơn cả đứa con hoang đàng. Và giờ đây, lạy Cha, nhớ đến những tội lỗi đã qua, con chạy đến với Cha và thưa với Cha rằng: thưa Cha, con đã phạm tội chống lại trời và chống lại Cha, con không xứng đáng được gọi là con Cha nữa; xin Cha hãy coi con như một trong những kẻ làm thuê của Cha (Lc 15:18). Hay: thưa Cha, vì con biết Cha thương xót và yêu thương con nên đã chịu đựng, ra gặp con, ôm lấy đứa con hoang đàng này, xin Cha ban cho con tấm áo vô tội, chiếc nhẫn niềm tin sống động, đôi giầy gương sống các thánh để con noi theo. Ôi lạy Cha, xin Cha ban cho con con bê béo tức là chính Con đầy phúc của Cha trong Phép Bí Tích Cực Thánh để làm của nuôi linh hồn con và (ở đây, thiếu một số chữ…) nhờ ơn thánh hết sức dư đầy của Người.
Lạy Cha, để kết luận, lời rất dịu dàng này là một lời rút vắn (Rm 9:28) chứa đựng mọi dịu dàng như man na ngày xưa Cha đã ban cho dân Cha trong sa mạc (Xh 16:14) phần con, con rất hạnh phúc khi lời này trở nên lương thực thơm ngon cho linh hồn con. Đối với tông đồ Phaolô, chỉ cần biết và hiểu Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đã đủ (1Cor 2:2) thì đối với con chỉ cần biết và hiểu tiếng Cha này cũng đã đủ rồi, vì hiểu được nó, con biết chắc Cha đã nhận con làm con nuôi của Cha, một địa vị cao cả nhất trên Trời cũng như dưới đất, chỉ sau địa vị làm con ruột mà thôi, một địa vị chỉ thuộc về Con duy nhất của Cha, là Chúa Giêsu Kitô của con.
Về Chữ: Chúng Con
Lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con: Chúa tốt lành xiết bao! Chúa không bằng lòng thông đạt danh hiệu Cha này cho các Thiên Thần và các Thánh đang ở trong nhà Cha mà thôi, nhưng Cha còn muốn thông đạt nó cho những kẻ đang sống trên trần gian này nữa, và không những cho người giầu có và quyền thế, mà cho cả các mục đồng nghèo khổ nhất, những kẻ đang nằm ngủ trên đất thô dưới gầm cầu hay trong rừng rậm. Lạy Chúa, đối với con, Chúa giống như mặt trời thông truyền ánh sáng và chiếu soi cả các bông hoa nhỏ nhất của núi rừng lẫn chính núi rừng bao la; lạy Chúa, Chúa cũng thế, Chúa thông đạt danh hiệu Cha hết sức dịu ngọt ấy cho cả vĩ nhân lẫn người hèn mọn, người giầu có cũng như người cơ bần, và Chúa muốn rằng chính vì vậy, chúng con phải xưng Chúa là (Cha) chúng con.
Lạy Chúa, trong hai chữ này: Cha chúng con, Chúa đã tỏ cho con thấy một mầu nhiệm cao cả khác: Chúa muốn con yêu mến luật yêu thương và bác ái của Chúa, vì Chúa đã thâu tóm mọi lề luật vào lòng yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Qua chữ Cha, Chúa đòi con phải yêu mến Uy Linh Tối Cao của Chúa; qua chữ chúng con, Chúa đòi con phải yêu mến tha nhân, vì Chúa đã ban họ cho con làm anh em và Chúa muốn con cầu nguyện cho họ.
Chúa là Cha chúng con, vì Chúa đã dựng nên chúng con: Lạy Chúa, bàn tay Chúa đã tạo nên con (G 10:8). Xin Chúa đừng bỏ rơi công trình bàn tay Chúa (Tv 137:8). Chúa là Cha chúng con vì Chúa đã mua chúng con bằng máu qúy giá của Con Chúa, Con Chiên không tì vết, là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con (1Pr 1:15), nhờ Ngài, chúng con đã được nhận làm con (nuôi) của Chúa. Chúa là Cha chúng con vì Chúa đã hết lòng tận tụy vì chúng con, những kẻ hết sức đáng thương, và vì Chúa đã thông đạt trọn vẹn cho chúng con trên trần gian này trong Phép Bí Tích Cực Thánh; rồi trên Thiên Đàng, Chúa sẽ thông đạt cách tỏ tường hơn nữa cho chúng con thấy yếu tính đầy phúc của Chúa, những kho tàng vô biên hạnh phúc của Chúa và vinh quang Uy Linh Chúa. Bởi thế, ôi lạy Cha, vì Cha là Cha chúng con, con xin Cha
Cho con cũng được làm con của Cha; Cha là Cha, còn con là con Cha. Hai chữ Cha chúng con này rất xứng hợp trên môi miệng con khi linh hồn và thân xác con trọn vẹn là của Chúa, vì Chúa vốn trọn vẹn là của chúng con.
Về các chữ: Ở trên Trời
Lạy Chúa, con biết Chúa ở khắp mọi nơi và cả trời lẫn đất (Is 6:3) đầy vinh quang Chúa; và lạy Cha, con còn biết Cha nắm vũ trụ trong tay Cha và duy trì nó, vì nếu không thế, mọi sự sẽ trở về hư vô nơi Cha đã kéo chúng ra. Lạy Cha, Cha cũng ở trên Trời nữa, nơi Cha vinh danh muôn vàn Thiên Thần và các Thánh là những vị liên tục hiện diện trước ngai vinh hiển của Cha, hết lòng cung kính thờ lạy Cha. Lạy Cha, bao giờ linh hồn con trở nên như tầng trời, được sức mạnh tình yêu nâng lên khỏi mặt đất; được trang trí bằng nhân đức y như tầng trời được trang hoàng bằng tinh cầu tinh đẩu; kiên cường và mạnh mẽ phục vụ Cha không bao giờ sa ngã, cũng như các tầng trời không bao giờ rơi rụng, ngõ hầu linh hồn con luôn tươi đẹp và ưng ý trước nhan thánh Cha để Cha, lạy Cha, Cha rủ lòng thương cư ngụ trong nó cũng như Cha đang cư ngụ trên trời cao đẹp kia vậy?
Lạy Cha, con cũng cầu xin Cha cho linh hồn con, khi muốn trở thành tầng trời và nơi Uy Linh Chúa cư ngụ, cũng biết chuyển vần như các tầng trời chuyển vần theo nguyên động lực đầu hết. Cha là Nguyên Động Lực đầu hết và tối thượng; uớc chi ý chí con chỉ chuyển động theo thánh ý Cha để trong mọi sự lúc nào nó cũng phù hợp với ý muốn của Cha.
Lạy Cha, Cha ở trên Trời (Kn 7:26) nghĩa là ở trong các Thiên Thần và các Thánh; Cha soi sáng cho họ để họ nhận biết Cha, vì Cha chính là ánh sáng đời đời (Ga 1:9) soi sáng mọi sự. Lạy Cha, Cha ở trong các Thiên Thần và các Thánh, và Cha đốt lên trong họ ngọn lửa yêu thương nóng rực để họ yêu Cha cách hoàn hảo, vì Cha chính là ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ bất toàn: Chúa khiến các Thiên Thần ra nhanh như gió và biến các tôi tớ Chúa thành những ngọn lửa bùng cháy. Lạy Cha, Cha ở trong các Thiên Thần và các Thánh, đổ đầy trong họ niềm hạnh phúc khôn tả để họ đời đời được hạnh phúc, vì Cha chính là hạnh phúc, là vinh quang, là sự an nghỉ của cộng đoàn này. Lạy Cha, xin dùng ơn thánh biến con thành một thiên thần và một vị thánh, để con được dự phần vào những tốt lành lớn lao ấy và sự hiểu biết của con được soi dẫn để nhận biết Cha. Lạy Cha, Cha đã ban cho tôi tớ Francois của Cha hai ánh sáng vĩ đại này: một là nhận biết Uy Linh Tối Thượng của Cha, hai là nhận biết chính bản thân mình. Ôi lạy Cha, xin Cha ban cho con ánh sáng lớn lao này để con nhận biết Cha như các Thiên Thần và tôi tớ Francois của Cha, lạy Cha là Thiên Chúa con, Đấng nhân đức vô cùng, quyền năng vô cùng, khôn ngoan vô cùng và tươi đẹp vô cùng. Xin Cha ban cho con thứ ánh sáng vĩ đại khác để con nhận ra sự thấp hèn và khốn khó của con.
Ôi lạy Cha, con cũng xin Cha rủ lòng thương làm cháy lên trong trái tim con ngọn lửa Chúa Thánh Thần, như Cha đã làm các Thiên Thần trên Trời rực lên ngọn lửa yêu thương, và dưới thế này, Cha cũng đã làm tâm hồn các thánh Tông Đồ bừng cháy như thế vào ngày lễ Ngũ Tuần. Ôi lạy Cha đầy phúc, xin ban xuống những nhánh sông lớn này, những lưỡi lửa vĩ đại kia vốn phát xuất từ ngai tòa Cha và từ Chiên Con (Kh 22:2), nghĩa là từ Chúa Thánh Thần; xin hãy ban chúng xuống cho linh hồn con để linh hồn con rực lên ngọn lửa yêu Cha. Từ trên cao xin hãy ném lửa xuống xương cốt con (Ac 1:13); lạy Cha, ước chi, ngọn lửa ấy đốt thấu cốt tủy linh hồn con để những triều nước lớn của thống khổ không thể giập tắt được lòng mến (Dc 8:7). Xin Cha dùng ngọn lửa lớn lao ấy mà đốt cháy hết dục vọng nơi con để con đừng thèm đi xin xỏ những điều hèn hạ của trần gian nữa, nhưng nhờ sức mạnh của ngọn lửa kia, con chuyên chăm đi tìm những điều trường cửu trên Trời.
Lạy Cha chí thánh, thật là chính đáng vì Cha, Thiên Chúa của con, Cha của con và gia nghiệp của con (Tv 15:5; Mt 6:20) vốn ở trên Trời, nên con chẳng tìm kiếm cũng chẳng ước ao trần gian làm chi; ôi lạy Cha, con còn cần chi tới trần gian, khi trọn sự thiện của con, trọn trân châu kho lẫm của con đều ở trên Trời? Lạy Cha, nếu Cha ở trên Trời, thì quả là thích đáng khi con, con cái Cha, là khách trú (Tv 38:13; 1Pr 2:11) nơi trần gian này và con luôn hướng về quê hương là Nước Trời mà tiến bước. Khi tiến bước như thế, với xác người lữ khách ở trên đường còn hồn hướng về quê hương yêu dấu, thì mỗi giờ đối với họ hẳn phải như nghìn năm mong đợi, chỉ mong về tới quê hương và được diện kiến người cha thân thương và anh chị em yêu dấu cho mau, nhưng sao với linh hồn con lại không như thế? Lạy Cha chúng con, tại sao linh hồn con không quy hướng về Trời như linh hồn Thánh Tông Đồ của Cha, người từng nói: Nơi quy hướng của chúng ta là ở trên Trời (Pl 3:20), và tại sao mỗi giờ nơi chốn lưu đầy này đối với con lại không phải là nghìn năm? tại sao con lại không mong được diện kiến anh chị em con là các Thiên Thần và các Thánh? lạy Cha, tại sao con không chối từ mọi sự thuộc trần gian này, những thứ hết sức thấp hèn, xấu xa và bất xứng hiện đang chiếm cứ tâm hồn con, trong khi con được dựng nên để chiếm hữu của cải trên Trời? Ôi lạy Cha, không còn hoài nghi gì nữa, vì đối với con, quả là một xỉ nhục rất lớn khi một hoàng tử hay một vị vua vĩ đại phải tự tay tắm ngựa, hay tự tay thu dọn rác rưởi hay cứt đái ngoài phố; tuy nhiên, lạy Cha trên Trời, còn xỉ nhục cho con hơn nữa khi đã biết rằng cha đã nhận con làm con nuôi và được Cha chuẩn bị cho hưởng của cải trường cửu, những kho tàng khôn tả và ngay cả Nước Trời nữa, mà lại hạ mình và tự làm mình ra đáng khinh bằng cách đi tìm kiếm những điều thấp hèn và tầm thường của đời này. Bởi thế, lạy Cha chúng con ở trên Trời, xin cho con biết yêu mến những sự trên Trời, để nhờ tình yêu ấy, con biết khinh chê những sự trần gian và trọn tình yêu của con thuộc về Cha, lạy Cha trên Trời của chúng con.
Sau cùng, Cha đã phủ đầy vinh quang các tầng trời, tức các Thiên Thần và các Thánh, thế nào thì lúc con từ giã cõi đời để trình diện trước nhan Cha, con xin Cha cũng đoái thương phủ đầy linh hồn hồn con thế ấy để nó trở thành “Tầng Trời đầy vinh quang Cha”.
Về các chữ: Danh Cha cả sáng
Lạy Cha hằng có, con xin cho danh thánh rất dịu dàng và êm ái của Cha được toàn thể thế giới biết đến. Lạy Cha, Cha đừng dấu kín một kho tàng quá phong phú như thế cho các linh hồn Cha đã từng in hình ảnh và họa ảnh Cha (St 1:26; 5:11; 9:6) trên đó. Chớ chi khắp đông, tây cũng như mọi nơi khác trên thế gian đều biết Cha là Cha, Chúa Giêsu là Con một Cha, cùng hiện hữu và cùng một bản thể như Cha, và mọi người đều là con nuôi của Cha. Ôi lạy Cha, xin Cha tỏ lộ và thông truyền Danh rất đáng yêu của Cha cho mọi dân nước để tất cả cháy lên và rực sáng lên tình yêu thánh thiện của Cha. Ôi, con sẽ vui mừng xiết bao một ngày kia được thấy toàn thể thế gian bái gối thờ lạy Uy Linh cao cả của Cha! Lạy Cha Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, nếu máu con và đời con cần thiết cho việc ấy, con sẵn sàng dâng hiến máu con, đời con và hàng ngàn cuộc đời nếu con biết được.
Xin cho danh Cha cả sáng. Ôi lạy Cha, xin Cha cho linh hồn con và mọi linh hồn trên khắp thế gian luôn luôn nhận biết Uy Linh Cha cách rõ ràng hơn. Lạy Cha, cùng với mọi đấng thánh, chúng con biết nó rộng, nó dài, nó cao và nó sâu biết dường bao (Eph 3:8): chúng con biết chiều rộng các ơn huệ Cha ban cho chúng con, chúng rộng hơn cả đại dương và trái đất; chúng con biết chiều dài các lời Cha hứa ban, chúng bất tận; chúng con biết chiều cao sự Uy Linh Cha, nó mênh mông không cùng; chúng con biết chiều sâu các phán xét của Cha, chúng như vực thẳm.
Xin cho Danh Cha cả sáng. Lạy Cha chí thánh, mọi tạo vật thúc đẩy con ca ngợi thánh Danh Cha, chúc tụng Cha không ngừng: các Thiên Thần không ngừng cất cao những bản nhạc êm ái hát cho Cha những khúc hát ban mai dịu dàng, ca tụng Cha, chúc tụng Cha và không ngừng tung hô: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa (Is 6:2; Kh 4:2) là Thiên Chúa các đạo binh và các ngài mời gọi con tham gia với các ngài. Các tầng trời cùng với các chuuyển vần không ngừng của chúng, các tinh tú cùng với ánh sáng huy hoàng của chúng, và nhất là hai vừng sáng lớn nhất (St 1:16) là mặt trời và mặt trăng qua ánh sáng chói lọi của chúng, thẩy đều thúc đẩy con thờ lạy và chúc tụng Danh Thánh Cha. Mọi yếu tố từ lửa, không khí, nước, đến trái đất, chim chóc bay trên không, tôm cá lội dưới biển, sông ngòi, mương rạch, núi non, thung lũng, cây cỏ khắp thế gian và sau cùng chim chóc khắp địa cầu đều dạy con phải thờ lạy và chúc tụng Chúa.
Bởi vậy, ôi lạy Cha, xin cho danh Cha cả sáng (Mt 5:16); xin đoái thương cho con nên thánh, để con không ngừng chúc tụng Uy Linh Tối Cao Cha và để thế gian, khi thấy con chăm chú ngợi khen Cha và chúc tụng Cha, cũng tôn vinh Cha, ôi lạy Cha chúng con, và tôn thánh Danh Cha, một danh thánh được chúc tụng đời đời (Rm 5:16).
Sau nữa, lạy Cha, xin Cha ban vương quốc các Thánh, vương quốc trường cửu, mà Người Con nơi linh hồn chúng con yên nghỉ và vui hưởng vốn rất khát khao. Trong vương quốc này, chúng con sẽ luôn luôn ca ngợi Cha, yêu mến Cha và vui hưởng Cha, lạy Cha chí thánh, cùng với Con đầy phúc của Cha và Chúa Thánh Thần. Ôi lạy Cha chí thánh, xin cho nước Cha trị đến, bởi vì Cha đã dựng nên linh hồn chúng con cho mục đích này; xin cho nước Cha trị đến, bởi vì Cha đã để Con Cha chết trên cây thánh giá vì mục đích ấy; xin cho nước Cha trị đến, để con được chúc tụng danh Cha: kẻ lành chờ mong công chính mà Cha sẽ ban cho con (Tv 141:8) [**]; các Thiên Thần và toàn thể các Thánh mong đợi ngày này, vì lạy Cha, ngày này sẽ tỏ hiện vẻ đẹp vô tận, quyền năng vô tận của Cha; bởi thế các ngài ước mong da diết có được càng nhiều đồng hành càng tốt giúp họ ca ngợi và yêu mến Uy Linh Cao Cả Cha. Lạy Chúa, vì lòng tốt của Chúa, xin ban phát ơn phúc cho Sion và thành lũy Giêrusalem hãy được dựng lên (Tv 1:20). Ôi lạy Cha, Cha hãy nhìn phần lớn thành lũy Giêrusalem đã xập xuống tận đáy địa ngục; vì lòng nhân hậu, lạy Cha chí thánh, xin hãy thu lượm chúng con lên và đặt chúng con vào thành thánh vinh hiển, để chúng con xây dựng được các thành lũy thánh thiện và đầy phúc đức.
Xin cho nước Cha trị đến: lạy Cha chí thánh, bị đầy khỏi nước Cha, chúng con quả đang ở “trong thung lũng nước mắt này”. Lạy Cha, xin cho chúng con được trở lại nước Cha. Như người lữ khách mong ước đến ngày sau hết được kết thúc cuộc hành trình của mình mà nhìn lại thị thành làng mạc thân yêu thế nào, chúng con cũng xin cho nước Cha trị đến như thế, để chúng con kết thúc cuộc lữ thứ của chúng con mà bước vào nơi vui hưởng Cha đã dọn sẵn cho chúng con trong vương quốc thánh thiện của Cha.
Xin cho nước Cha trị đến: chúng con đang lâm chiến; lạy Chúa, xin cho chúng con đem chiến thắng trở về để nhận được phần thưởng là chính vương quốc của Cha. Lạy Chúa, Chúa là Đấng Công Chính, Chúa công chính trong mọi phán quyết của Ngài (Tv 118:137). Chúa đã hứa ban nước Chúa cho chúng con; nên con khiêm hạ cầu xin Chúa đừng nhìn đến các bất xứng của chúng con, nhưng nhìn đến máu qúy giá của Con Yêu Dấu Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con: Xin hãy nhìn đến khuôn mặt đấng Ngài đã xức dầu và nhờ đấng Ngài xức dầu, xin cho nước Cha trị đến (Tv 83:10).
Xin cho nước Cha trị đến. Ôi, ngày hạnh phúc! Ôi, giờ phúc đức! Ôi lạy Cha, bao giờ ngày ấy mới gần và giờ ấy mới xuất hiện? Bao giờ con đến và bao giờ con xuất hiện trước nhan Cha? (Tv 41:3; Kh 21:18). Ôi lạy Cha, bao giờ con mới thấy thành lũy nước Cha được xây bằng đá qúy? Bao giờ ta được gõ vào cửa nhà ngươi, hỡi Giêrusalem trên trời? Bao giờ ta mới được thấy các lầu đài nguy nga của ngươi? Bao giờ ta mới được thưởng ngoạn những thửa vườn tươi xinh đầy hoa muôn thuở của ngươi? Bao giờ ta mới được no nê uống thỏa nguồn suối trường sinh của ngươi? Ôi lạy Cha chí thánh, bao giờ con được thấy trong nước Cha hằng hà sa số đoàn ngũ Thiên Thần và các Thánh phủ đầy vinh quang, các ca đoàn trinh nữ cầm cành thiên tuế, vừa ca hát vừa theo chân Chiên Con của Cha? (Kh 7:9; 14:4). Bao giờ tai con được nghe điệu nhạc êm dịu, dàn giao hưởng của các Thiên Thần và dàn hòa nhạc của các Thánh tất cả cùng cất lên trước nhan Cha: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh? Ôi lạy Chúa các đạo binh, nhà Chúa đáng yêu xiết bao! Ôi lạy Thiên Chúa các Thiên Thần, nhà Chúa đẹp đẽ và đáng yêu biết bao! Linh hồn con mỏi mòn ước ao dược đến gần vỉa hè nhà Chúa biết chừng nào (Tv 83:2); một ngày nơi vỉa hè nhà Chúa còn hơn nghìn năm (xa Chúa). Bởi thế, lạy Cha muôn thuở, Đấng ngự ở trên trời, để con được vui hưởng nhan thánh vinh hiển Cha và được chiêm ngưỡng Uy Linh Tối Cao Cha, để ca ngợi, yêu mến và chúc tụng (và sau cùng được cư ngụ giữa) các con cái Cha, con cúi đầu xin Cha sau khi con thoát khỏi thân xác mau chết này, chớ chi nước Cha trị đến.
Xin cho nước Cha trị đến. Lạy Cha, này đây, thân xác và linh hồn con chính là nước Cha. Cha muốn ngự trị trong nước này, thì này đây con xin dâng nó lên Cha, con xin trao nó cho Cha, để nó trở thành của Cha, vì thực sự nó vốn là của Cha; xin đừng để con lạm dụng nó, trao nó cho ma qủy, cho thế gian hay cho xác thịt, vốn là những bạo chúa hết sức ác độc, mà là trao cho Cha, Đấng thực sự là Chúa thật. Vậy, lạy Cha, xin cho nước Cha trị đến. Từ nay, xin hãy thống trị trong linh hồn con: trong trí nhớ con, để nó luôn tưởng nhớ Cha; trong trí khôn con, để nó luôn xem sét lòng tốt vô biên và sự cao cả của Cha; trong ý chí con, để nó không ngừng yêu mến Cha, ca ngợi Cha và chúc tụng Cha. Lạy Cha, xin hãy thống trị trong thân xác và mọi giác quan của nó, để nó luôn chuyên chăm phục vụ Cha và để con trở thành một vương quốc trong đó Uy Linh Cha thống trị trong hòa bình từ đời này đến đời sau muôn kiếp không cùng.
Về: Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời, lời cầu xin thứ ba
Lạy Cha, con cũng cầu xin cho ý rất thánh của Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Lạy Cha, xin hãy làm cho ở đất người sống (Ps 26:13; 141:6) tức Tầng Trời này, toàn thể Thiên Thần và các Thánh đều thực hiện ý muốn thần thánh của Cha, cũng như trên đất kẻ chết, là thế gian này, linh hồn con thực hiện ý chí thánh thiện của Cha. Lạy Cha, ý Cha rất thánh thiện và tốt lành, còn ý con thì xấu xa, vụ xác thịt: nên, chớ chi ý Cha thể hiện dưới thửa đất linh hồn con này cũng như trên Trời cao kia. Linh hồn con sẽ đầy phúc đức khi nó hoàn toàn tùng phục ý Cha trong mọi sự. Lạy Cha chí thánh, con cầu xin Cha hãy cởi bỏ khỏi linh hồn con ý riêng của con để tháp ý Cha vào đó, ngõ hầu ý Cha luôn được thể hiện chứ không bao giờ là ý con. Khi người ta cắt một cành cây và tháp vào đó một cành tốt hơn, thì hoa trái của nó cũng sẽ tốt hơn; lạy Cha, xin Cha cắt bỏ chiếc cành nhỏ bé ý riêng của con và tháp vào đó thánh ý Cha; lúc ấy con chắc chắn nó sẽ mang nhiều hoa trái tốt tươi. Mọi thiếu sót và tội lỗi của con đều phát xuất từ cái ý chí xấu xa này. Vậy, lạy Chúa, Chúa còn đợi chi nữa? Hãy cắt bỏ những gì của riêng con và tháp vào đó những gì của Chúa. Lạy Cha, cùng với Con rất yêu qúy của Cha là Chúa Giêsu Kitô, con xin thưa: Lạy Cha, đừng theo ý Con nhưng theo ý Cha; lạy Cha, không phải điều con muốn nhưng là điều Cha muốn. Lạy Cha, (chúng con nguyện) ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời (Mt 6:9; 26:42; Mc 14:36).
Lạy Cha, cũng như các thiên thần, được tượng trưng bằng tầng trời, luôn luôn thực hiện thánh ý Cha thế nào, con xin Cha cho các linh hồn tội lỗi, được tượng trưng bằng đất, cũng làm điều hợp ý Cha như thế, vì nhờ vậy, họ sẽ không còn xúc phạm đến Cha nữa.
Lạy Cha, con khẩn khoản nguyện xin cho ý Cha thể hiện nơi con và nơi mọi người, vì con chắc chắn rằng ý Cha muốn tất cả chúng con nên thánh. Hãy nên thánh vì Ta thánh thiện: và điều Ta muốn là chính sự nên thánh của các con (Lv 11:44; 19:2; 1Tx 4:3). Ôi nguồn suối mọi sự thánh thiện, xin hãy làm chúng con nên thánh, vì đó là ý Cha. Con người nào ngu đần đến độ không muốn nên thánh? Lạy Cha chí thánh, con không tìm kiếm, con không ước ao điều gì khác, giầu có, của cải, châu báu của con là nên thánh. Bởi thế, ý Cha hãy thể hiện trong con, để con được nên thánh.
Lạy Cha chí thánh, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Ý cha là muốn con vững mạnh trong đức tin, khiêm nhường trong đàm thoại, nết na trong ngôn từ, công chính trong hành động, xót thương kẻ thiếu thốn, chừng mực trong tác phong; Cha muốn con đừng gây thiệt hại cho bất cứ ai, ngược lại phải hỗ trợ mọi người, hòa nhã với họ, và yêu mến Cha như người Cha, và kính sợ Cha như người Cha. Ý cha thể hiện. Lạy Cha, đó là điều con ước muốn, con cầu xin, con mong chờ hết lòng, Thánh Ý Cha thể hiện trong con. Ước chi việc hoàn thành ý Cha trở thành niềm sảng khoái, niềm thỏa mãn, niềm hân hoan cho tâm hồn con mọi nơi mọi lúc; vì lạy Cha, con biết thà linh hồn con chịu mọi nhục hình của thế gian, nếu đó là ý Cha, thì điều ấy còn hữu ích hơn là được hưởng mọi trò vui và khoái lạc của con cái Adong. Niềm vui của các Thiên Thần, ước muốn của các Thánh và niềm an ủi của người công chính hệ ở chỗ này: Ý Cha được thể hiện. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời; vậy, lạy Cha, con nguyện xin cho ý Cha thể hiện nơi con.
Sau cùng, lạy Cha, Cha và Con yêu qúy Cha đã cho con hay thánh ý Cha khi Người phán: Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con hết lòng, hết linh hồn, hết tinh thần và hết sức con, và yêu người bên cạnh như chính con (Mc 12:30). Ôi lạy Cha, vì ý Cha muốn con yêu Cha hết lòng, hết linh hồn và hết sức con, nên xin Cha cho con biết thực hiện điều Cha truyền và điều Cha muốn. Lạy nguồn suối tình yêu, xin hãy ban đức ái cho con; ôi vực sâu yêu thương vô tận, hãy ban tình yêu cho con. Lạy Cha, xin hãy thắp lên ngọn đèn linh hồn con bằng ánh sáng tình yêu của Cha. Lạy Cha, Cha đã truyền cho chúng con phải luôn có lửa trên bàn thờ Cha (Lv 6:12). Con xin dâng lên Cha, lạy Cha, linh hồn con để làm bàn thờ; xin hãy để ngọn lửa tình yêu Cha ngày đêm cháy trong nó. Hỡi Ánh Sáng đời đời, ánh sáng rọi sáng mọi ánh sáng và bừng cháy rực rỡ hàng nghìn hàng vạn cây đuốc chiếu sáng trước ngai Thiên Chúa của Cha từ lúc hừng đông! Ôi ánh sáng vĩnh cửu soi sáng mọi ánh sáng và duy trì chúng trong sự sáng láng đời đời của Cha, hàng nghìn hàng vạn Thiên Thần đứng chầu trước Uy Linh Cha như những ngọn đuốc cháy bằng ngọn lửa tình yêu của Cha và không ngừng bừng cháy nhưng lại không thiêu đốt và tiêu hao mình. Lạy Thiên Chúa và là Cha con, xin cho phép con được đến gần Cha, Ngọn Lửa yêu đương, đuốc sáng linh hồn con, để một khi đã thắp lên, nó không ngừng bừng cháy ngọn lửa yêu Cha và yêu tha nhân: nhờ thế thánh ý Cha được thể hiện trong con.
Lời cầu thứ tư: Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày
Vâng, lạy Cha, con cái bao giờ cũng cần cơm bánh; xin chớ từ khước không ban cho chúng con kẻo chúng con chết mất. Lạy Cha, xin ban cho chúng con bánh thiêng liêng (Mt 6:11) là chính Con một Cha, Chúa Giêsu Kitô, đang ngự trong phép Bí Tích Rất Thánh, để nhờ Bánh này, chúng con được nuôi dưỡng bằng sự sống thiêng liêng, được lớn lên trong nhân đức và được tăng cường sức mạnh đủ để hoàn thành cuộc lữ hành nơi thung lũng nước mắt này, cho đến ngày tới được núi thánh Horeb của Thiên Chúa (Ps 83:7; 2R 19:8). Lạy Cha chí thánh, Bánh này chính là bánh Con Cha đã mang đến cho chúng con, đó là những điều kỳ diệu Ngài đã làm, đã giảng và chịu đựng; lạy Cha chí thánh, trong suốt cuộc lữ hành này, đừng để chúng con bao giờ phải thiếu thốn thứ man na từ trời ấy khiến chúng con không được nếm mùi vị thơm tho của nó (Kn 16:20).
Lạy Chúa, mọi loài dõi mắt trông chờ Chúa và Chúa ban cho chúng của ăn đúng lúc thuận tiện (Ps 144:15); lạy Cha, con cái Cha đang dõi mắt nhìn Cha và xin Cha ban Bánh hằng sống (Ga 6:35) vì nhờ Bánh này chúng con sẽ sống cuộc sống trên trời. Vậy lạy Cha, con, một trong con cái Cha, dù rất bất xứng, dù lớn lao về tuổi tác, nhưng thật bé nhỏ về công phúc, đói khát và thiếu thốn, con xin Cha ban cho con bánh ấy. Và vì có hai bản chất trong con, một bản chất xác thịt, một bản chất thiêng liêng, nên con xin Cha ban bánh ăn cho cả hai bản chất ấy. Đối với thân xác, vốn là bụi đất, con xin Cha bánh bởi đất; đối với linh hồn, vốn là tinh thần, con xin Cha Bánh bởi Trời, Bánh Thiên Thần (Tv 77:25). Lạy Cha đầy lòng thương xót, xin Cha hãy nhớ khi trẻ thơ xin cha chúng bánh ăn, nhất là lúc chúng đang đói, chúng dùng hết sức la to: bánh, bánh! Và với những tiếng kêu ấy, giống như những mũi tên sắc bén, chúng làm rướm máu cõi lòng cha chúng khiến ông phải lùng cho bằng được bánh ăn cho con cái mình. Thì con cũng thế, con đang đói khát đây, lạy Cha chúng con; xin Cha hãy lắng nghe lời con kêu cầu: Lạy Cha, bánh, bánh! Xin Cha chí thánh đoái thương mở rộng dạ nhân từ (Lc 1:78) và vì Cha có thể làm được, nên xin Cha cứu giúp và ban cho con Cha bánh ơn phúc của Cha và Bánh thiêng liêng trong Bí Tích Rất Thánh.
Ngoài ra, lạy Cha, xin Cha ban cho chúng con bánh thơm ngon và dịu dàng là lời Cha, xin Cha hãy bẻ bánh ấy cho chúng con, nhờ các thừa tác viên, tức các vị giảng thuyết của Cha, xẻ bánh ấy thành nhiều mẩu cho chúng con; làm cho lời ấy sinh hoa trái trong linh hồn chúng con, như hạt giống rơi vào đất tốt và sinh hoa trái gấp trăm (Mt 13:8).
Sau cùng, lạy Cha, giờ đây con đang phủ phục dưới bàn ăn Uy Linh tối cao Cha, nơi đoàn lũ Thiên Thần và các Thánh đang ăn uống; qùy trước mặt phương phi Cha, khiêm hạ trước nhan thánh Cha như những con chó hèn hạ phục dưới bàn ăn của chủ mình (Mt 15:27) mong chờ những mẩu bánh rơi rụng, xin Cha đoái thương cho con được vinh dự hưởng của thơm tho dịu ngọt mà các Thánh đang hưởng nơi bàn ăn Của Cha, ngõ hầu, trong lúc nguyện gẫm, con nếm được một chút gì đó trong số những điều con cái Cha trên Trời đang được hưởng. Lạy Cha, chớ chi buổi nguyện gẫm của con đừng khô cằn và nguội lạnh, nhưng dịu ngọt và êm ái nhờ bánh an ủi và thăm viếng của Cha.
Lời Cầu thứ năm: Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Lạy Cha, chúng con nghèo và nợ nần chồng chất; còn Cha, Cha giầu có và là người tài trợ chúng con; người giầu phải tha nợ cho người nghèo: nên xin Cha tha nợ cho chúng con. Lạy Cha, xin xót thương con Cha, kẻ mắc nợ cũng nhiều như phạm tội. Có người cha nào lại không tha bất cứ nợ nần nào cho đứa con bị sa vào cảnh nghèo khốn khó, khi nó khiêm nhường đến van xin? Và lạy Cha chí thánh, còn có đứa con nào nghèo và nợ nần hơn con? Giờ đây, giống như người thu thuế kia (Lc 18:13), con khiêm nhừng cầu xin Cha: xin Cha tha tội nợ con từng xúc phạm đến Cha. Ôi lạy Thiên Chúa, bản chất Ngài là luôn luôn thương xót và tha thứ,”xin thương xót đứa con tội nghiệp này và tha hết mọi nợ nần của con; lạy Cha, con nhìn nhận nợ nần con vô số (mười ngàn nén) (Mt 18:24), vì con đã phạm trọn bộ lề luật của Cha; nhưng lòng thương xót vô lượng của Cha thắng vượt vô tận tất cả những xúc phạm ấy. Lạy Cha, xin hãy nhớ đến lòng thương xót đời đời của Cha (Tv 24:6) và cũng như Cha đã tỏ lòng thuơng xót biết bao nhiêu tôi tớ Cha, xin cũng đoái thương tha hết mọi tội lỗi của con.
Lạy Cha, con nhớ đến lòng thương xót của Cha đối với dân xưa của Cha, dân mà Cha đã tha thứ tội lỗi không biết bao nhiêu lần (2R 12:13). Lạy Cha, con nhớ Cha đã nhớ đến tôi tớ Đavít của Cha và Cha đã tha tội rất lớn cho ông. Lạy Cha, con cũng nhớ đến Con yêu dấu của Cha, khi còn ở trên thế gian này, đã ghé mắt nhân từ nhìn Tông Đồ của Ngài khi ông chối Ngài, và nhìn Madelaine khi bà hối cải, và sau cùng Ngài đã tiếp đón mọi kẻ tội lỗi biết ăn năn và ăn uống với họ (Lc 7:37; 15:1; 22:55). Cha không thay đổi chút nào; ngày xưa Cha là Thiên Chúa xót thương, giờ đây Cha vẫn xót thương chẳng kém; Cha vẫn là Thiên Chúa ngày xưa, lòng thương xót của Cha không cùng vì nó vốn vô biên; nó không bao giờ ngừng nghỉ vì nó không có điểm ngừng, nếu không, Bầu Trời đã bị khóa kín; lòng thương xót Cha không bao giờ ngừng, vì cũng như lửa, nó luôn luôn cháy miễn là có chất đốt, lòng thương xót Cha cũng thế bao lâu còn tội lỗi để thiêu hủy và nợ nần để tha nợ thì nó còn đó. Lòng thương xót Chúa từ đời này đến đời nọ đối với những kẻ kính sợ Ngài (Lc 1:50): ca khúc của Mẹ rất thánh Con đầy phúc Cha là Chúa Giêsu Kitô, đã nói thế. Người biết rõ lòng thương xót ấy quả vô biên. Lạy Chúa, Chúa đặt ranh giới cho biển khơi, nhưng Chúa để ngỏ lòng thương xót Chúa không bờ không bến, để nó luôn đi tìm kẻ có tội, nợ nần chồng chất, mà tha thứ. Lạy Cha, này đây lòng thương xót Cha đang gặp kẻ tội lỗi trên hết mọi kẻ tội lỗi, kẻ nợ nần nhiều hơn bất cứ con cháu Adong nào khác: xin hãy xóa hết mọi tội lỗi con, tha hết số nợ nần quá lớn của con và luôn tiến lên phía trước mà tìm các con nợ khác. Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm (Ps 41:8); con cái nghèo hèn kêu cầu (Cha xót thương). Ước chi vực thẳm nuốt chửng vực thẳm; chớ chi vực thẳm các khốn cùng bất tận của con được tan hòa trong vực thẳm (lòng từ bi Cha). Lạy Cha, con biết mọi tội lỗi con, dù nhiều đến đâu, và mọi tội lỗi thế gian, trước lòng từ bi Cha chỉ như cọng rơm trước ngọn lửa vĩ đại. Sau cùng, lạy Cha chí thánh, nhờ lượng từ bi vô biên của Cha, nhờ phúc đức Cuộc Khổ Nạn mà Con Cha yêu dấu từng chịu trên thánh giá và nhờ lời bầu cử của Rất Thánh Đồng Trinh và mọi kẻ được tuyển chọn từ thuở đầu sáng thế, con xin Cha đoái thương tha nợ cho chúng con.
Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Lạy Cha, con cũng cầu xin Cha ban cho con đủ nhân đức và ơn thánh Cha để con tha thứ trọn vẹn cho những ai xúc phạm đến con; và lạy Cha, nếu Cha thấy trong tâm hồn con còn điều chi chưa hoàn hảo chống lại những kẻ xúc phạm con, thì vì ngọn lửa bác ái của Cha, xin Cha hãy làm nó biến đi, hãy thiêu rụi nó đi. Xin Cha đừng để bất cứ vết tích hay bóng tối nào của lòng thù oán xót lại trong tâm hồn con, để con nói thật lòng được rằng: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
Lạy Cha, chúng con là môi trường của cám dỗ. Kẻ thù chúng con là ma quỷ luôn rảo quanh chúng con tìm đường cắn xé (1Pr 5:8). Lạy Cha, xin ban các phương thế, xin đến cứu giúp con; kẻ thù con đông như cát biển mà lại nhiều kinh nghiệm chiến đấu; linh hồn con mỏi mòn, yếu đuối, bất lực nếu Cha không đến trợ giúp con. Cầm mộc khiên, xin đứng dậy phù trì; vung gươm giáo chống lại những người bắt bớ con (Tv 34:2); hãy nói với linh hồn con: Ta là sự cứu thoát của con. Ôi lạy Chúa, chớ chi linh hồn khốn khổ này luôn cần đến ơn thánh Cha, sự phù trì cứu giúp của Cha để con khỏi sa chước cám dỗ! Con chiên bé nhỏ giữa bầy lang sói chắc chắn sẽ bị tiêu diệt nếu người chăn chiên không cứu nó; lạy Cha, cũng thế, linh hồn con đang ở giữa biết bao lang sói hòng vây kín tấn công con trong một thế giới nó luôn bị hàng nghìn dịp tội rù quyến, với một xác thịt luôn chống lại nó, nó làm gì được nếu không được Chúa phù trì?
Lạy Cha chí thánh, con ngước mắt lên Trời nơi con sẽ nhận được ơn phù trì; sự phù trì của con phát xuất từ Chúa, Đấng tạo thành trời đất. Ôi lạy Cha nhân hậu và Thiên Chúa mọi ủi an, xin Cha hãy đến cứu giúp con; lạy Chúa, hãy mau đến cứu giúp con. Lạy Cha chí thánh, bao giờ Chúa phán xử những kẻ bách hại con? (Tv 120:1; 2Cor 1:3; Tv 69:2; 118:84). Lạy Chúa, xin Chúa phán xét những kẻ ám hại linh hồn con, xin ban cho con ơn cứu giúp của Chúa để con đừng sa ngã, để con đừng xúc phạm đến Chúa. Lạy Cha, con không cầu xin Cha giải thoát con khỏi các cơn cám dỗ, nhưng con xin Cha ban cho con ơn thánh và sức mạnh để con chống trả và đánh trả cách can trường. Vì tình mến Cha, con sẵn sàng chịu ưu phiền và lo lắng ở đời này, miễn là trong những ưu phiền lo lắng ấy, linh hồn con không nao núng. Lạy Chúa, cũng như vàng đã trở nên đẹp đẽ hơn (nhờ được luyện) trong lò thế nào (Pr 17:3; 27:21; Kn 3:6), linh hồn con, nhờ được liệng vào lò ưu phiền, cũng trở nên tinh ròng, sáng láng hơn và lóng lánh hơn thể ấy. Xin cho nó đừng như rơm rạ vì thiếu sức mạnh nên đã chịu để lửa thiêu rụi tiêu tán. Xin cho con được như các Thánh là những vị khi còn sống trên dương gian, bị liệng vào lửa, vẫn mạnh mẽ, cương quyết và như kim cương đá qúy nhờ lửa mà trở thành lộng lẫy sáng láng. Lạy Cha, Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, để chúng con đừng xúc phạm đến Uy Linh tối cao Chúa.
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Lạy Cha, con nhìn nhận Cha đã thương xót con nhiều vì Cha đã gìn giữ con khỏi nhiều sự dữ mà con rất đáng phải chịu do tội lỗi mình; biết bao lần con đã phạm tội, biết bao lần con đã đáng bị phạt sa hỏa ngục đời đời. Lạy Cha, những kẻ chịu sự khốn cùng này đông xiết bao! Họ là những kẻ còn phạm tội ít hơn con nữa; chỉ có điều họ đã không được ơn thống hối như con, nên đã phải chết khốn khổ trong tội và do đó bị mất linh hồn! Lạy Cha, con xin Cha từ nay giải thoát con khỏi mọi lỗi lầm, để con thoát được hình phạt hỏa ngục; Lạy Chúa, xin đừng để con xúc phạm đến Chúa nữa; phạm đến Chúa trong quá khứ đã quá đủ rồi. Lạy Chúa, ước chi tội lỗi con đừng nhân thừa gấp bội như cát biển (G 6:3) và sao trời; chớ chi hỏa ngục đừng nuốt trửng con và hố sâu đừng ngậm lại chôn sống con (Tv 68:16).
Lạy Cha, Cha đã giải thoát con khỏi nhiều sự dữ ở trên đời này. Có biết bao kẻ mù lòa, câm điếc và tàng tật trong số con cái Adong! Nhưng lạy Chúa, Chúa đã gìn giữ con khỏi những sự dữ ấy, mặc dù con cũng là con cái Adong như họ và là kẻ tội lỗi hơn họ nữa; tuy nhiên, điều ấy cũng chẳng ích lợi gì cho con, nếu Chúa không giải thoát con khỏi sự dữ tội lỗi. Bởi thế, con xin Chúa giải thoát con khỏi tội khỏi lỗi khỏi hình phạt do tội mang lại. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lạy Cha, Cha đã giải thoát con khỏi bóng tối và sự mù lòa của những người Thổ, người Hồi, người Do Thái, người Ngoại Giáo và lương dân, cho con được sinh ra trong lòng Thánh Giáo Hội; lạy Cha, xin Cha giải thoát con khỏi bóng tối và sự mù lòa của tội để con được vui hưởng máu thánh và công nghiệp Con đầy phúc của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, và được kể vào số con cái Cha, vốn là con cái của ánh sáng (Lc 16:8; Eph 5:8; 1Tx 5:5) trong Nước Cha.
Lạy Cha, con nhớ đến người đàn bà miền Tơ cô a (Thécua) tốt lành đã vào chầu vua Đavít xin tha tội cho Absalon; và vị vua này, khi nghe biết lời cầu xin ấy là do sáng kiến của tướng Giôáp (2S 14), người vua rất sủng ái, đã lập tức chuẩn ý lời bà cầu xin. Lạy Cha, Con chí thánh và được Cha sủng ái là Chúa Giêsu Kitô cũng truyền cho con đọc kinh này và đã sai con đến với Cha để con cầu xin những điều chứa trong kinh ấy. Lạy Cha, xin đừng nhìn đến con là kẻ tội lỗi nhiều hơn mọi kẻ tội lỗi, nhưng xin nhìn đến mọi đấng Thánh của Cha, kể cả Đấng Thánh Hóa các vị nữa (1Th 1); và vì tình yêu của Cha đối với Ngài, xin Cha ban cho con điều Ngài truyền con xin Cha.
Lạy Cha, con cũng nhớ truyện các con Giacóp không được tái hiện trước mặt Giuse mà không mang theo đứa em út là Bengiamin (St 42:20; 43:3; 44:23); chúng con cũng thế, chúng con không được phép xuất hiện trước nhan thánh Chúa nếu không có người anh cả của chúng con là Con duy nhất Cha, Chúa Giêsu Kitô. Vậy lạy Cha, này đây con đến trước nhan Cha cùng với Con chí thánh Cha là Chúa Giêsu. Con dâng Ngài lên Cha, và cúi đầu khẩn xin Cha nhờ công nghiệp của Ngài và nhờ Cái Chết và cuộc Khổ Nạn rất thánh của Ngài, xin Cha đoái thương ban cho con điều chính Ngài, trong Lời Kinh và lời khẩn cầu vốn là của Ngài này, đã truyền cho con phải xin Cha, để linh hồn con trọn vẹn thuộc về Cha, luôn ngợi khen và chúc tụng Cha đến muôn đời muôn thuở. Amen.
Vũ Văn An
Ngày Lễ Thánh Francois de Sales, 24-01- 2008
[*] Các Thánh Vịnh trong tài liệu này ghi theo lối đánh số cũ.
[**] Câu này, nguyên văn tiếng Pháp như sau: Les justes sont dans l’attente de la justice que vous me rendrez. Các bản dịch mới đều dịch câu này khác hẳn: Bao kẻ lành xúm lại mừng con, vì con đã được Ngài thi ân giáng phúc (Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ)
Thánh Francois de Sales, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1567, qua đời ngày 28 tháng 12 năm 1622, là giám mục Genève từ năm 1602 cho đến lúc qua đời. Ngài được Đức Giáo Hoàng Alexandrô thứ VII phong chân phước ngày 8 tháng Giêng nằm 1661 và phong hiển thánh ngày 19 tháng 4 năm 1665. Giáo Hội Công Giáo mừng kính Ngài ngày 24 tháng Giêng. Giáo Hội Anh Giáo cũng mừng kính Ngài ngày ấy. Chân phúc Giáo Hoàng Piô IX tôn Ngài lên hàng Tiến Sĩ Giáo Hội vào năm 1877. Năm 1923, Đức Giáo Hoàng Piô XI phong Ngài làm quan thầy các nhà văn và nhà báo. Tài giảng thuyết của Ngài đã lôi cuốn nhiều người theo Calvin trở lại đức tin Công Giáo. Dòng nổi tiếng do thánh Gioan Dom Bosco thành lập năm 1859, đã được đặt tên theo Thánh Nhân.
Thánh Francois de Sales viết nhiều tác phẩm nổi tiếng được Bách Khoa Từ Điển Công Giáo liệt kê như sau: Các Tranh Luận (gồm nhiều khảo luận giảng giải đức tin Công Giáo cho người theo phe Calvin vùng Le Chablais); Bênh Vực Ngọn Cờ Thánh Giá (nói về sức mạnh của Cây Thánh Giá Thật, của tượng Chịu Nạn, của Dấu Thánh Giá; và giải thích việc Tôn Kính Thánh Giá); Dẫn Nhập Đời Sống Đạo Đức (nhằm hướng dẫn các linh hồn sống trong thế gian bước vào con đường tu đức với chủ trương: “quả là sai lầm, kể cả lạc giáo nữa” khi cho rằng tu đức không thích hợp cho mọi bậc sống); Khảo Luận Về Tình Yêu Thiên Chúa (một công trình có thế giá gồm 12 cuốn cho thấy tác giả quả thiên bẩm và thánh thiện); Bàn Thảo Thiêng Liêng (các bài huấn đức cho các Nữ Tu Dòng Thăm Viếng, do Ngài và thánh nữ Jane Frances de Chantal thành lập); Các Bài Giảng (trọn bộ từ lúc chưa làm giám mục đến lúc đã làm giám mục. Đức Piô IX khi phong tước Tiến Sĩ Giáo Hội cho Ngài đã gọi Ngài là “Bậc Thầy và Người Tái Tạo Khoa Hùng Biện Thánh”); Các Thư (linh hướng). Ngoài ra còn nhiều khảo luận và tác phẩm nhỏ nữa. Sách Nguyện Rôma nhận xét về công trình sáng tác của Thánh Francois de Sales như sau: “Các trước tác của Thánh Francois de Sales, đầy rẫy học lý từ trời, là ánh sáng chói lọi trong Giáo Hội, chỉ cho các linh hồn con đường dễ dàng và chắc chắn để đạt trọn lành cho đời sống Kitô hữu”.
Chúng tôi cho chuyển ngữ bài bình luận của Thánh Nhân về Kinh Lạy Cha, một lối bình luận chỉ vị Thánh mới có, không giống những bình luận thần học hiện nay ta thường đọc, trong đó, nhiều khi tác giả chỉ biết nói với chính mình về một tài liệu tôn giáo cần phải mổ xẻ, chứ không hẳn là lời kinh duy nhất của chính Chúa Giêsu truyền ta phải đọc. Tài liệu này nguyên văn bằng tiếng Pháp, lấy từ trang mạng http://www4.allencol.edu/salesian/salesian.html và www.catho.org
Lạy Cha: Bài Giảng Lễ Các Thánh 1-11-1621
Lời cầu nguyện cận kề hết sức con thảo, đầy tình yêu thương và tin tưởng; lời cầu nguyện này ngỏ cùng Thiên Chúa như Cha và chúa tể của ta. Chính Chúa ta đã dạy ta phương pháp này qua Kinh Cầu Cùng Thiên Chúa (Mt 6:9; Lc 11:2), là Kinh được Ngài bắt đầu bằng lời này: Lạy Cha chúng con. Ôi lạy Thiên Chúa, lời ấy đầy yêu thương xiết bao, nó làm tâm hồn chúng con tràn đầy êm dịu và tình con thảo biết nhường nào! Đó là điều các bạn sẽ nhận ra trong các lời cầu xin được đưa ra trong Kinh này, trong đó, ta thưa chuyện trực tiếp với chính Thiên Chúa; vì sau khi đã gọi Thiên Chúa là Cha, ta cầu xin Ngài ban Nước Ngài (cho ta) và ý Ngài thể hiện dưới đất này cũng như trên Trời cao kia. Ôi những lời cầu xin ấy cao cả, đầy yêu thương và tin tưởng xiết bao!
DIỄN GIẢNG KINH LẠY CHA: (gửi Phu Nhân G. Scaglia)
Cha muôn thuở, Cha Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Cha ánh sáng (Gc 1:17), Cha chí thánh, Cha rất dịu dàng và đầy yêu thương, Cha tạo dựng vũ trụ: bao giờ con mới xứng đáng gọi Cha là Cha, con chỉ là đất, là bụi là tro (St 18:27), kẻ rốt hết trong các tôi tớ của Cha? Cha đã tìm được điều tốt nào nơi con hay nơi bất cứ con cái Adong nào khác khiến Cha muốn làm Cha chúng con? “Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là chi?” Chúa là Thiên Chúa uy nghi vô cùng, là Vua các Vua, là Chúa các chúa (Kh 17:14; Kh 19:16), là Thánh các thánh, là vinh quang các Thiên Thần và hân hoan các Thánh. Trước nhan thánh Chúa, trời và đất cùng muôn loài trong chúng chỉ là hạt cát nhỏ so với thế giới bao la; về phần con, con chỉ là con sâu đất, kẻ tội lỗi và con cái Adong tội lỗi, biết bao lần xúc phạm Uy Linh tối cao Chúa: ấy thế nhưng Chúa lại muốn con gọi Chúa là Cha! Ôi, Chúa ban cho con sự cao trọng, địa vị cao sang xiết bao! Lạy Chúa, nếu đẹp lòng Chúa, xin cho linh hồn con biết nhận ra điều ấy mà dâng lên Chúa lời tạ ơn xứng đáng đối với các ơn huệ lớn lao này. Nhưng vì con không làm sao cám ơn Chúa cho đủ, nên con xin các Thiên Thần giúp con ca khen và cảm tạ Uy Linh Chúa không cùng.
Lạy Cha, con phải tuyên xưng hai điều: một là, ơn huệ và ơn phúc lớn lao này phát xuất từ lòng nhân hậu vô biên và tình thương bất tận Cha đã dành cho con; hai là, tiếng Cha này rất thích hợp trên môi miệng Con duy nhất của Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Ngài vốn là Con do Chúa sinh ra từ thuở đời đời và đồng bản tính với Chúa. Chứ trên môi miệng con, một kẻ tội lỗi đê hèn này, nó chẳng thích hợp, chẳng thích đáng chút nào. Lạy Chúa, con quả không đáng được hưởng sự tốt lành này. Tuy nhiên, vì điều ấy đẹp lòng Chúa, nên từ nay con hết lòng xưng Chúa là Cha và sẽ mãi mãi thưởng ngoạn danh Cha đầy dịu dàng này.
Lạy Chúa, từ ngữ này chứng thực tình yêu vô biên Chúa dành cho con; chính vì thế Phúc âm gia của Chúa đã ngạc nhiên thốt lên: Anh em thấy Cha đã chứng tỏ với ta một tấm tình yêu cao cả xiết bao, đến độ ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và quả thật ta là con cái Chúa thật (Eph 3:1). Nó dạy con và đồng thời cảnh cáo con rằng con phải yêu Chúa hết tâm hồn con: Lạy Chúa, con yêu Chúa, Chúa là Sức mạnh, là đá tảng, là nơi nương náu, là đấng giải thoát con và là Cha con (Tv 17:2[*]). Người ta kiếm đâu được đứa con nào vô ơn bội nghĩa ở trên đời, có một người Cha tốt lành, thánh thiện, dịu dàng, vinh hiển và đầy yêu thương như Chúa mà lại không yêu thương cho được? Ôi lạy Cha, chúng con tìm đâu được một người cha tốt lành, thánh thiện, dịu dàng và đầy yêu thương như Cha? Bởi thế, lạy Cha, chớ chi tâm hồn con loại bỏ mọi thứ tình yêu khác để rực lửa, để giữa Cha, Lạy Cha, và con, đứa con của Cha, luôn tiếp diễn một tình yêu hỗ tương bền bỉ.
Chữ Cha này khích lệ con cầu xin Cha những điều cần thiết cho con, vì một người cha có bao giờ khước từ con mình điều ông thấy con mình cần, miễn là ông có khả năng cung cấp cho con điều ấy. Lạy Cha của con, con biết Cha có khả năng và Cha lại muốn ban cho con nữa; Cha có khả năng, vì Cha là Đấng Toàn Năng; cha muốn ban cho con vì cha tốt lành vô cùng. Phần con, nhu cầu nào con cũng cần cả: con đầy thương tích vì biết bao tội lỗi, con cần thuốc chữa; lạy Cha, Cha là thầy thuốc chữa lành mọi bạc nhược và săn sóc mọi tật bệnh (Mt 4:23), vậy, lạy Cha, xin Cha thương xót con, vì con rất yếu đuối; xin chữa lành con vì xương cốt con đang run rẩy (Tv 6:3) và con sẽ lành mạnh. Lạy Chúa, xin Chúa chữa lành linh hồn này, Chúa hãy xem trước nhan Chúa, linh hồn con đầy thương tích xiết bao: nào là thương tích kiêu ngạo, nào là thương tích hà tiện, và ăn chơi phung phá… và trong thương tích ấy, nó cầu xin được khỏe mạnh.
Vả lại, lạy Cha, con biết con trần trụi và thiếu thốn quần áo nhân đức xiết bao. Lạy Cha, xin Cha phủ kín con như Cha đã phủ kín tầng trời bằng hằng hà vô số trăng sao và trái đất bằng muôn vàn hoa lá xinh tươi; xin Cha ban cho con y phục ngày cưới (Mt 17:2), y phục bác ái để con xứng đáng đến dự tiệc tân hôn của Cha; y phục vâng lời để con tuân thủ lệnh truyền và lề luật của Cha; y phục khiêm nhường để con đẹp mắt Cha. Xin Cha hãy mặc cho con những áo quần phong phú dệt đầy các nhân đức phú bẩm; xin Cha ban cho con đức tin hoàn hảo, đức cậy vững vàng, đức ái rực nóng.
Sau nữa, lạy Cha nhân hậu, con cầu xin Cha đoái thương dùng quyền người Cha đối đãi với con. Người Cha nào cũng đánh con khi con sai lạc, để sửa dạy con. Nếu không làm thế, nếu không đánh con như thế, con sẽ tệ đi, có khi còn hư mất nữa. Bởi thế, lạy Chúa, xin hãy đánh con với lòng thương xót. Xin Chúa hãy đập con bằng lòng thương xót; hãy thiêu đốt hãy tỉa đốn ở đời này, để lúc vào cõi vĩnh hằng con được Cha tha thứ. Và lạy Cha, nếu con không chịu tu sửa bản thân con, xin Cha hãy nặng cánh tay thánh thiện của Cha mà giáng xuống trên con mạnh hơn đủ tân toan, bệnh hoạn, buồn lo, xao xuyến. Sự hư nát hãy nhập đầy xương cốt con, hãy phá hủy con từ bên trong để con được yên nghỉ vào ngày ưu phiền và được nhập đoàn dân Chúa mà cùng tiến bước với họ (?); lạy Cha nhân hậu, con cầu xin cho xương cốt này tan nát, nghĩa là cũng như ông Gióp ngày xưa, thân xác con đầy ghẻ lở và thương tích, miễn là linh hồn con được yên nghỉ vào ngày ưu phiền, tức ngày lìa đời, và được kể vào số con cái Cha tức dân thánh trên trời, những người được mặc vinh quang và hạnh phúc.
Người cha nào sau khi đã phạt, đã đánh con, đều âu yếm nó. Lạy Cha, sau khi đã vì lòng thương mà đánh đập con vì các khùng điên của con, xin Cha đoái thương viếng thăm con bằng các ủi an thiêng liêng, xin Cha âu yếm linh hồn con bằng sự dịu ngọt nội tâm để nó rực lên tình yêu Cha và không ngừng ca tụng Cha.
Ôi, chữ Cha làm dấy lên trong con niềm an ủi xiết bao. Và không phải chỉ có an ủi thôi đâu, mà còn hân hoan, vui mừng và mãn nguyện tột đỉnh nữa. Thánh tiên tri ngày xưa, dù chưa được mạc khải chữ Cha này, cũng đã thốt lên: Chúa sẽ làm trái tim con nghe được những lời vui mừng hớn hở, và xương cốt mục rữa con sẽ nhẩy mừng hân hoan (Tv 50:10). Còn con, con phải nói sao đây? Lạy Cha, Cha đã cho con nghe được những lời vui mừng hớn hở; ôi, khi tiếng Cha dịu dàng này vang bên tai con, con cảm thấy vui mừng hớn hở không bút nào tả xiết! Linh hồn bị hạ nhục, xương cốt bị tàn tạ vì muôn vàn tội lỗi này bỗng được tái tạo, nhận được sinh lực mới hẳn khi nghe được tiếng Cha này. Còn niềm vui nào lớn hơn là niềm vui khi nhớ ra rằng con có được một người Cha tốt lành dường ấy, mà Ngài còn là chính sự tốt lành nữa; thánh thiện dường ấy, mà còn là chính sự thánh thiện nữa; khôn ngoan dường ấy, mà còn là chính sự khôn ngoan nữa, và sau cùng toàn năng dường ấy, làm được mọi sự trên Trời, dưới đất cũng như dưới vực thẳm nữa. Kẻ giầu có hãy vui mừng vì sự giầu có của mình, kẻ quyền năng hãy vui mừng vì quyền năng của mình, kẻ khôn ngoan hãy vui mừng vì sự khôn ngoan của mình: đối với tôi, tôi vui mừng trong Chúa (?), vì Ngài là Cha và là Cha chúng tôi. Kẻ đặt lòng tin vào chiến xa, kẻ đặt niềm tin vào chiến mã; còn chúng tôi, chúng tôi nhẩy mừng trong danh Thiên Chúa chúng tôi (Tv 19:8). Lạy Chúa, chớ chi thần trí con nhẩy mừng trong Chúa, ôi lạy Chúa, Đấng Cứu vớt và là Cha chúng con (Lc 1:42). Chữ Cha này cho con thấy sự chăm sóc của Cha và ơn quan phòng của Cha lớn lao xiết bao đối với con và mọi người. Lạy Cha, mỗi ngày, Cha đều chuẩn bị bàn ghế và tổ chức tiệc tùng đãi ngộ toàn bộ trần gian, con có tham dự những tiệc tùng hân hoan này; mỗi ngày Cha đều khiến mặt trời chiếu sáng chúng con, là con cái Cha, và đến tối, cha lại che giấu nguồn sáng tốt đẹp ấy đi như thể tắt đèn đi để chúng con là con cái Cha có dịp thư giãn và ngủ nghỉ; lạy Chúa, Chúa chiếm giữ trời và đất là vì con, và Chúa còn trao phó con cho các Thiên Thần săn sóc: tất cả những điều đó là để con được hưởng gia nghiệp dành cho con cái Cha, tức Nước Trời. Nhờ thế, con nhận ra Cha quả là người Cha biết lo lắng hết mình cho chúng con, con cái Cha.
Sau cùng, chữ Cha này luôn khuyến khích con để bất cứ khi nào vấp ngã, con có thể chạy ùa vào vòng tay Cha với lòng ăn năn thống hối, vì con sẽ được tiếp nhận một cách yêu thương hơn cả đứa con hoang đàng. Và giờ đây, lạy Cha, nhớ đến những tội lỗi đã qua, con chạy đến với Cha và thưa với Cha rằng: thưa Cha, con đã phạm tội chống lại trời và chống lại Cha, con không xứng đáng được gọi là con Cha nữa; xin Cha hãy coi con như một trong những kẻ làm thuê của Cha (Lc 15:18). Hay: thưa Cha, vì con biết Cha thương xót và yêu thương con nên đã chịu đựng, ra gặp con, ôm lấy đứa con hoang đàng này, xin Cha ban cho con tấm áo vô tội, chiếc nhẫn niềm tin sống động, đôi giầy gương sống các thánh để con noi theo. Ôi lạy Cha, xin Cha ban cho con con bê béo tức là chính Con đầy phúc của Cha trong Phép Bí Tích Cực Thánh để làm của nuôi linh hồn con và (ở đây, thiếu một số chữ…) nhờ ơn thánh hết sức dư đầy của Người.
Lạy Cha, để kết luận, lời rất dịu dàng này là một lời rút vắn (Rm 9:28) chứa đựng mọi dịu dàng như man na ngày xưa Cha đã ban cho dân Cha trong sa mạc (Xh 16:14) phần con, con rất hạnh phúc khi lời này trở nên lương thực thơm ngon cho linh hồn con. Đối với tông đồ Phaolô, chỉ cần biết và hiểu Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đã đủ (1Cor 2:2) thì đối với con chỉ cần biết và hiểu tiếng Cha này cũng đã đủ rồi, vì hiểu được nó, con biết chắc Cha đã nhận con làm con nuôi của Cha, một địa vị cao cả nhất trên Trời cũng như dưới đất, chỉ sau địa vị làm con ruột mà thôi, một địa vị chỉ thuộc về Con duy nhất của Cha, là Chúa Giêsu Kitô của con.
Về Chữ: Chúng Con
Lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con: Chúa tốt lành xiết bao! Chúa không bằng lòng thông đạt danh hiệu Cha này cho các Thiên Thần và các Thánh đang ở trong nhà Cha mà thôi, nhưng Cha còn muốn thông đạt nó cho những kẻ đang sống trên trần gian này nữa, và không những cho người giầu có và quyền thế, mà cho cả các mục đồng nghèo khổ nhất, những kẻ đang nằm ngủ trên đất thô dưới gầm cầu hay trong rừng rậm. Lạy Chúa, đối với con, Chúa giống như mặt trời thông truyền ánh sáng và chiếu soi cả các bông hoa nhỏ nhất của núi rừng lẫn chính núi rừng bao la; lạy Chúa, Chúa cũng thế, Chúa thông đạt danh hiệu Cha hết sức dịu ngọt ấy cho cả vĩ nhân lẫn người hèn mọn, người giầu có cũng như người cơ bần, và Chúa muốn rằng chính vì vậy, chúng con phải xưng Chúa là (Cha) chúng con.
Lạy Chúa, trong hai chữ này: Cha chúng con, Chúa đã tỏ cho con thấy một mầu nhiệm cao cả khác: Chúa muốn con yêu mến luật yêu thương và bác ái của Chúa, vì Chúa đã thâu tóm mọi lề luật vào lòng yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Qua chữ Cha, Chúa đòi con phải yêu mến Uy Linh Tối Cao của Chúa; qua chữ chúng con, Chúa đòi con phải yêu mến tha nhân, vì Chúa đã ban họ cho con làm anh em và Chúa muốn con cầu nguyện cho họ.
Chúa là Cha chúng con, vì Chúa đã dựng nên chúng con: Lạy Chúa, bàn tay Chúa đã tạo nên con (G 10:8). Xin Chúa đừng bỏ rơi công trình bàn tay Chúa (Tv 137:8). Chúa là Cha chúng con vì Chúa đã mua chúng con bằng máu qúy giá của Con Chúa, Con Chiên không tì vết, là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con (1Pr 1:15), nhờ Ngài, chúng con đã được nhận làm con (nuôi) của Chúa. Chúa là Cha chúng con vì Chúa đã hết lòng tận tụy vì chúng con, những kẻ hết sức đáng thương, và vì Chúa đã thông đạt trọn vẹn cho chúng con trên trần gian này trong Phép Bí Tích Cực Thánh; rồi trên Thiên Đàng, Chúa sẽ thông đạt cách tỏ tường hơn nữa cho chúng con thấy yếu tính đầy phúc của Chúa, những kho tàng vô biên hạnh phúc của Chúa và vinh quang Uy Linh Chúa. Bởi thế, ôi lạy Cha, vì Cha là Cha chúng con, con xin Cha
Cho con cũng được làm con của Cha; Cha là Cha, còn con là con Cha. Hai chữ Cha chúng con này rất xứng hợp trên môi miệng con khi linh hồn và thân xác con trọn vẹn là của Chúa, vì Chúa vốn trọn vẹn là của chúng con.
Về các chữ: Ở trên Trời
Lạy Chúa, con biết Chúa ở khắp mọi nơi và cả trời lẫn đất (Is 6:3) đầy vinh quang Chúa; và lạy Cha, con còn biết Cha nắm vũ trụ trong tay Cha và duy trì nó, vì nếu không thế, mọi sự sẽ trở về hư vô nơi Cha đã kéo chúng ra. Lạy Cha, Cha cũng ở trên Trời nữa, nơi Cha vinh danh muôn vàn Thiên Thần và các Thánh là những vị liên tục hiện diện trước ngai vinh hiển của Cha, hết lòng cung kính thờ lạy Cha. Lạy Cha, bao giờ linh hồn con trở nên như tầng trời, được sức mạnh tình yêu nâng lên khỏi mặt đất; được trang trí bằng nhân đức y như tầng trời được trang hoàng bằng tinh cầu tinh đẩu; kiên cường và mạnh mẽ phục vụ Cha không bao giờ sa ngã, cũng như các tầng trời không bao giờ rơi rụng, ngõ hầu linh hồn con luôn tươi đẹp và ưng ý trước nhan thánh Cha để Cha, lạy Cha, Cha rủ lòng thương cư ngụ trong nó cũng như Cha đang cư ngụ trên trời cao đẹp kia vậy?
Lạy Cha, con cũng cầu xin Cha cho linh hồn con, khi muốn trở thành tầng trời và nơi Uy Linh Chúa cư ngụ, cũng biết chuyển vần như các tầng trời chuyển vần theo nguyên động lực đầu hết. Cha là Nguyên Động Lực đầu hết và tối thượng; uớc chi ý chí con chỉ chuyển động theo thánh ý Cha để trong mọi sự lúc nào nó cũng phù hợp với ý muốn của Cha.
Lạy Cha, Cha ở trên Trời (Kn 7:26) nghĩa là ở trong các Thiên Thần và các Thánh; Cha soi sáng cho họ để họ nhận biết Cha, vì Cha chính là ánh sáng đời đời (Ga 1:9) soi sáng mọi sự. Lạy Cha, Cha ở trong các Thiên Thần và các Thánh, và Cha đốt lên trong họ ngọn lửa yêu thương nóng rực để họ yêu Cha cách hoàn hảo, vì Cha chính là ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ bất toàn: Chúa khiến các Thiên Thần ra nhanh như gió và biến các tôi tớ Chúa thành những ngọn lửa bùng cháy. Lạy Cha, Cha ở trong các Thiên Thần và các Thánh, đổ đầy trong họ niềm hạnh phúc khôn tả để họ đời đời được hạnh phúc, vì Cha chính là hạnh phúc, là vinh quang, là sự an nghỉ của cộng đoàn này. Lạy Cha, xin dùng ơn thánh biến con thành một thiên thần và một vị thánh, để con được dự phần vào những tốt lành lớn lao ấy và sự hiểu biết của con được soi dẫn để nhận biết Cha. Lạy Cha, Cha đã ban cho tôi tớ Francois của Cha hai ánh sáng vĩ đại này: một là nhận biết Uy Linh Tối Thượng của Cha, hai là nhận biết chính bản thân mình. Ôi lạy Cha, xin Cha ban cho con ánh sáng lớn lao này để con nhận biết Cha như các Thiên Thần và tôi tớ Francois của Cha, lạy Cha là Thiên Chúa con, Đấng nhân đức vô cùng, quyền năng vô cùng, khôn ngoan vô cùng và tươi đẹp vô cùng. Xin Cha ban cho con thứ ánh sáng vĩ đại khác để con nhận ra sự thấp hèn và khốn khó của con.
Ôi lạy Cha, con cũng xin Cha rủ lòng thương làm cháy lên trong trái tim con ngọn lửa Chúa Thánh Thần, như Cha đã làm các Thiên Thần trên Trời rực lên ngọn lửa yêu thương, và dưới thế này, Cha cũng đã làm tâm hồn các thánh Tông Đồ bừng cháy như thế vào ngày lễ Ngũ Tuần. Ôi lạy Cha đầy phúc, xin ban xuống những nhánh sông lớn này, những lưỡi lửa vĩ đại kia vốn phát xuất từ ngai tòa Cha và từ Chiên Con (Kh 22:2), nghĩa là từ Chúa Thánh Thần; xin hãy ban chúng xuống cho linh hồn con để linh hồn con rực lên ngọn lửa yêu Cha. Từ trên cao xin hãy ném lửa xuống xương cốt con (Ac 1:13); lạy Cha, ước chi, ngọn lửa ấy đốt thấu cốt tủy linh hồn con để những triều nước lớn của thống khổ không thể giập tắt được lòng mến (Dc 8:7). Xin Cha dùng ngọn lửa lớn lao ấy mà đốt cháy hết dục vọng nơi con để con đừng thèm đi xin xỏ những điều hèn hạ của trần gian nữa, nhưng nhờ sức mạnh của ngọn lửa kia, con chuyên chăm đi tìm những điều trường cửu trên Trời.
Lạy Cha chí thánh, thật là chính đáng vì Cha, Thiên Chúa của con, Cha của con và gia nghiệp của con (Tv 15:5; Mt 6:20) vốn ở trên Trời, nên con chẳng tìm kiếm cũng chẳng ước ao trần gian làm chi; ôi lạy Cha, con còn cần chi tới trần gian, khi trọn sự thiện của con, trọn trân châu kho lẫm của con đều ở trên Trời? Lạy Cha, nếu Cha ở trên Trời, thì quả là thích đáng khi con, con cái Cha, là khách trú (Tv 38:13; 1Pr 2:11) nơi trần gian này và con luôn hướng về quê hương là Nước Trời mà tiến bước. Khi tiến bước như thế, với xác người lữ khách ở trên đường còn hồn hướng về quê hương yêu dấu, thì mỗi giờ đối với họ hẳn phải như nghìn năm mong đợi, chỉ mong về tới quê hương và được diện kiến người cha thân thương và anh chị em yêu dấu cho mau, nhưng sao với linh hồn con lại không như thế? Lạy Cha chúng con, tại sao linh hồn con không quy hướng về Trời như linh hồn Thánh Tông Đồ của Cha, người từng nói: Nơi quy hướng của chúng ta là ở trên Trời (Pl 3:20), và tại sao mỗi giờ nơi chốn lưu đầy này đối với con lại không phải là nghìn năm? tại sao con lại không mong được diện kiến anh chị em con là các Thiên Thần và các Thánh? lạy Cha, tại sao con không chối từ mọi sự thuộc trần gian này, những thứ hết sức thấp hèn, xấu xa và bất xứng hiện đang chiếm cứ tâm hồn con, trong khi con được dựng nên để chiếm hữu của cải trên Trời? Ôi lạy Cha, không còn hoài nghi gì nữa, vì đối với con, quả là một xỉ nhục rất lớn khi một hoàng tử hay một vị vua vĩ đại phải tự tay tắm ngựa, hay tự tay thu dọn rác rưởi hay cứt đái ngoài phố; tuy nhiên, lạy Cha trên Trời, còn xỉ nhục cho con hơn nữa khi đã biết rằng cha đã nhận con làm con nuôi và được Cha chuẩn bị cho hưởng của cải trường cửu, những kho tàng khôn tả và ngay cả Nước Trời nữa, mà lại hạ mình và tự làm mình ra đáng khinh bằng cách đi tìm kiếm những điều thấp hèn và tầm thường của đời này. Bởi thế, lạy Cha chúng con ở trên Trời, xin cho con biết yêu mến những sự trên Trời, để nhờ tình yêu ấy, con biết khinh chê những sự trần gian và trọn tình yêu của con thuộc về Cha, lạy Cha trên Trời của chúng con.
Sau cùng, Cha đã phủ đầy vinh quang các tầng trời, tức các Thiên Thần và các Thánh, thế nào thì lúc con từ giã cõi đời để trình diện trước nhan Cha, con xin Cha cũng đoái thương phủ đầy linh hồn hồn con thế ấy để nó trở thành “Tầng Trời đầy vinh quang Cha”.
Về các chữ: Danh Cha cả sáng
Lạy Cha hằng có, con xin cho danh thánh rất dịu dàng và êm ái của Cha được toàn thể thế giới biết đến. Lạy Cha, Cha đừng dấu kín một kho tàng quá phong phú như thế cho các linh hồn Cha đã từng in hình ảnh và họa ảnh Cha (St 1:26; 5:11; 9:6) trên đó. Chớ chi khắp đông, tây cũng như mọi nơi khác trên thế gian đều biết Cha là Cha, Chúa Giêsu là Con một Cha, cùng hiện hữu và cùng một bản thể như Cha, và mọi người đều là con nuôi của Cha. Ôi lạy Cha, xin Cha tỏ lộ và thông truyền Danh rất đáng yêu của Cha cho mọi dân nước để tất cả cháy lên và rực sáng lên tình yêu thánh thiện của Cha. Ôi, con sẽ vui mừng xiết bao một ngày kia được thấy toàn thể thế gian bái gối thờ lạy Uy Linh cao cả của Cha! Lạy Cha Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, nếu máu con và đời con cần thiết cho việc ấy, con sẵn sàng dâng hiến máu con, đời con và hàng ngàn cuộc đời nếu con biết được.
Xin cho danh Cha cả sáng. Ôi lạy Cha, xin Cha cho linh hồn con và mọi linh hồn trên khắp thế gian luôn luôn nhận biết Uy Linh Cha cách rõ ràng hơn. Lạy Cha, cùng với mọi đấng thánh, chúng con biết nó rộng, nó dài, nó cao và nó sâu biết dường bao (Eph 3:8): chúng con biết chiều rộng các ơn huệ Cha ban cho chúng con, chúng rộng hơn cả đại dương và trái đất; chúng con biết chiều dài các lời Cha hứa ban, chúng bất tận; chúng con biết chiều cao sự Uy Linh Cha, nó mênh mông không cùng; chúng con biết chiều sâu các phán xét của Cha, chúng như vực thẳm.
Xin cho Danh Cha cả sáng. Lạy Cha chí thánh, mọi tạo vật thúc đẩy con ca ngợi thánh Danh Cha, chúc tụng Cha không ngừng: các Thiên Thần không ngừng cất cao những bản nhạc êm ái hát cho Cha những khúc hát ban mai dịu dàng, ca tụng Cha, chúc tụng Cha và không ngừng tung hô: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa (Is 6:2; Kh 4:2) là Thiên Chúa các đạo binh và các ngài mời gọi con tham gia với các ngài. Các tầng trời cùng với các chuuyển vần không ngừng của chúng, các tinh tú cùng với ánh sáng huy hoàng của chúng, và nhất là hai vừng sáng lớn nhất (St 1:16) là mặt trời và mặt trăng qua ánh sáng chói lọi của chúng, thẩy đều thúc đẩy con thờ lạy và chúc tụng Danh Thánh Cha. Mọi yếu tố từ lửa, không khí, nước, đến trái đất, chim chóc bay trên không, tôm cá lội dưới biển, sông ngòi, mương rạch, núi non, thung lũng, cây cỏ khắp thế gian và sau cùng chim chóc khắp địa cầu đều dạy con phải thờ lạy và chúc tụng Chúa.
Bởi vậy, ôi lạy Cha, xin cho danh Cha cả sáng (Mt 5:16); xin đoái thương cho con nên thánh, để con không ngừng chúc tụng Uy Linh Tối Cao Cha và để thế gian, khi thấy con chăm chú ngợi khen Cha và chúc tụng Cha, cũng tôn vinh Cha, ôi lạy Cha chúng con, và tôn thánh Danh Cha, một danh thánh được chúc tụng đời đời (Rm 5:16).
Sau nữa, lạy Cha, xin Cha ban vương quốc các Thánh, vương quốc trường cửu, mà Người Con nơi linh hồn chúng con yên nghỉ và vui hưởng vốn rất khát khao. Trong vương quốc này, chúng con sẽ luôn luôn ca ngợi Cha, yêu mến Cha và vui hưởng Cha, lạy Cha chí thánh, cùng với Con đầy phúc của Cha và Chúa Thánh Thần. Ôi lạy Cha chí thánh, xin cho nước Cha trị đến, bởi vì Cha đã dựng nên linh hồn chúng con cho mục đích này; xin cho nước Cha trị đến, bởi vì Cha đã để Con Cha chết trên cây thánh giá vì mục đích ấy; xin cho nước Cha trị đến, để con được chúc tụng danh Cha: kẻ lành chờ mong công chính mà Cha sẽ ban cho con (Tv 141:8) [**]; các Thiên Thần và toàn thể các Thánh mong đợi ngày này, vì lạy Cha, ngày này sẽ tỏ hiện vẻ đẹp vô tận, quyền năng vô tận của Cha; bởi thế các ngài ước mong da diết có được càng nhiều đồng hành càng tốt giúp họ ca ngợi và yêu mến Uy Linh Cao Cả Cha. Lạy Chúa, vì lòng tốt của Chúa, xin ban phát ơn phúc cho Sion và thành lũy Giêrusalem hãy được dựng lên (Tv 1:20). Ôi lạy Cha, Cha hãy nhìn phần lớn thành lũy Giêrusalem đã xập xuống tận đáy địa ngục; vì lòng nhân hậu, lạy Cha chí thánh, xin hãy thu lượm chúng con lên và đặt chúng con vào thành thánh vinh hiển, để chúng con xây dựng được các thành lũy thánh thiện và đầy phúc đức.
Xin cho nước Cha trị đến: lạy Cha chí thánh, bị đầy khỏi nước Cha, chúng con quả đang ở “trong thung lũng nước mắt này”. Lạy Cha, xin cho chúng con được trở lại nước Cha. Như người lữ khách mong ước đến ngày sau hết được kết thúc cuộc hành trình của mình mà nhìn lại thị thành làng mạc thân yêu thế nào, chúng con cũng xin cho nước Cha trị đến như thế, để chúng con kết thúc cuộc lữ thứ của chúng con mà bước vào nơi vui hưởng Cha đã dọn sẵn cho chúng con trong vương quốc thánh thiện của Cha.
Xin cho nước Cha trị đến: chúng con đang lâm chiến; lạy Chúa, xin cho chúng con đem chiến thắng trở về để nhận được phần thưởng là chính vương quốc của Cha. Lạy Chúa, Chúa là Đấng Công Chính, Chúa công chính trong mọi phán quyết của Ngài (Tv 118:137). Chúa đã hứa ban nước Chúa cho chúng con; nên con khiêm hạ cầu xin Chúa đừng nhìn đến các bất xứng của chúng con, nhưng nhìn đến máu qúy giá của Con Yêu Dấu Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con: Xin hãy nhìn đến khuôn mặt đấng Ngài đã xức dầu và nhờ đấng Ngài xức dầu, xin cho nước Cha trị đến (Tv 83:10).
Xin cho nước Cha trị đến. Ôi, ngày hạnh phúc! Ôi, giờ phúc đức! Ôi lạy Cha, bao giờ ngày ấy mới gần và giờ ấy mới xuất hiện? Bao giờ con đến và bao giờ con xuất hiện trước nhan Cha? (Tv 41:3; Kh 21:18). Ôi lạy Cha, bao giờ con mới thấy thành lũy nước Cha được xây bằng đá qúy? Bao giờ ta được gõ vào cửa nhà ngươi, hỡi Giêrusalem trên trời? Bao giờ ta mới được thấy các lầu đài nguy nga của ngươi? Bao giờ ta mới được thưởng ngoạn những thửa vườn tươi xinh đầy hoa muôn thuở của ngươi? Bao giờ ta mới được no nê uống thỏa nguồn suối trường sinh của ngươi? Ôi lạy Cha chí thánh, bao giờ con được thấy trong nước Cha hằng hà sa số đoàn ngũ Thiên Thần và các Thánh phủ đầy vinh quang, các ca đoàn trinh nữ cầm cành thiên tuế, vừa ca hát vừa theo chân Chiên Con của Cha? (Kh 7:9; 14:4). Bao giờ tai con được nghe điệu nhạc êm dịu, dàn giao hưởng của các Thiên Thần và dàn hòa nhạc của các Thánh tất cả cùng cất lên trước nhan Cha: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh? Ôi lạy Chúa các đạo binh, nhà Chúa đáng yêu xiết bao! Ôi lạy Thiên Chúa các Thiên Thần, nhà Chúa đẹp đẽ và đáng yêu biết bao! Linh hồn con mỏi mòn ước ao dược đến gần vỉa hè nhà Chúa biết chừng nào (Tv 83:2); một ngày nơi vỉa hè nhà Chúa còn hơn nghìn năm (xa Chúa). Bởi thế, lạy Cha muôn thuở, Đấng ngự ở trên trời, để con được vui hưởng nhan thánh vinh hiển Cha và được chiêm ngưỡng Uy Linh Tối Cao Cha, để ca ngợi, yêu mến và chúc tụng (và sau cùng được cư ngụ giữa) các con cái Cha, con cúi đầu xin Cha sau khi con thoát khỏi thân xác mau chết này, chớ chi nước Cha trị đến.
Xin cho nước Cha trị đến. Lạy Cha, này đây, thân xác và linh hồn con chính là nước Cha. Cha muốn ngự trị trong nước này, thì này đây con xin dâng nó lên Cha, con xin trao nó cho Cha, để nó trở thành của Cha, vì thực sự nó vốn là của Cha; xin đừng để con lạm dụng nó, trao nó cho ma qủy, cho thế gian hay cho xác thịt, vốn là những bạo chúa hết sức ác độc, mà là trao cho Cha, Đấng thực sự là Chúa thật. Vậy, lạy Cha, xin cho nước Cha trị đến. Từ nay, xin hãy thống trị trong linh hồn con: trong trí nhớ con, để nó luôn tưởng nhớ Cha; trong trí khôn con, để nó luôn xem sét lòng tốt vô biên và sự cao cả của Cha; trong ý chí con, để nó không ngừng yêu mến Cha, ca ngợi Cha và chúc tụng Cha. Lạy Cha, xin hãy thống trị trong thân xác và mọi giác quan của nó, để nó luôn chuyên chăm phục vụ Cha và để con trở thành một vương quốc trong đó Uy Linh Cha thống trị trong hòa bình từ đời này đến đời sau muôn kiếp không cùng.
Về: Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời, lời cầu xin thứ ba
Lạy Cha, con cũng cầu xin cho ý rất thánh của Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Lạy Cha, xin hãy làm cho ở đất người sống (Ps 26:13; 141:6) tức Tầng Trời này, toàn thể Thiên Thần và các Thánh đều thực hiện ý muốn thần thánh của Cha, cũng như trên đất kẻ chết, là thế gian này, linh hồn con thực hiện ý chí thánh thiện của Cha. Lạy Cha, ý Cha rất thánh thiện và tốt lành, còn ý con thì xấu xa, vụ xác thịt: nên, chớ chi ý Cha thể hiện dưới thửa đất linh hồn con này cũng như trên Trời cao kia. Linh hồn con sẽ đầy phúc đức khi nó hoàn toàn tùng phục ý Cha trong mọi sự. Lạy Cha chí thánh, con cầu xin Cha hãy cởi bỏ khỏi linh hồn con ý riêng của con để tháp ý Cha vào đó, ngõ hầu ý Cha luôn được thể hiện chứ không bao giờ là ý con. Khi người ta cắt một cành cây và tháp vào đó một cành tốt hơn, thì hoa trái của nó cũng sẽ tốt hơn; lạy Cha, xin Cha cắt bỏ chiếc cành nhỏ bé ý riêng của con và tháp vào đó thánh ý Cha; lúc ấy con chắc chắn nó sẽ mang nhiều hoa trái tốt tươi. Mọi thiếu sót và tội lỗi của con đều phát xuất từ cái ý chí xấu xa này. Vậy, lạy Chúa, Chúa còn đợi chi nữa? Hãy cắt bỏ những gì của riêng con và tháp vào đó những gì của Chúa. Lạy Cha, cùng với Con rất yêu qúy của Cha là Chúa Giêsu Kitô, con xin thưa: Lạy Cha, đừng theo ý Con nhưng theo ý Cha; lạy Cha, không phải điều con muốn nhưng là điều Cha muốn. Lạy Cha, (chúng con nguyện) ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời (Mt 6:9; 26:42; Mc 14:36).
Lạy Cha, cũng như các thiên thần, được tượng trưng bằng tầng trời, luôn luôn thực hiện thánh ý Cha thế nào, con xin Cha cho các linh hồn tội lỗi, được tượng trưng bằng đất, cũng làm điều hợp ý Cha như thế, vì nhờ vậy, họ sẽ không còn xúc phạm đến Cha nữa.
Lạy Cha, con khẩn khoản nguyện xin cho ý Cha thể hiện nơi con và nơi mọi người, vì con chắc chắn rằng ý Cha muốn tất cả chúng con nên thánh. Hãy nên thánh vì Ta thánh thiện: và điều Ta muốn là chính sự nên thánh của các con (Lv 11:44; 19:2; 1Tx 4:3). Ôi nguồn suối mọi sự thánh thiện, xin hãy làm chúng con nên thánh, vì đó là ý Cha. Con người nào ngu đần đến độ không muốn nên thánh? Lạy Cha chí thánh, con không tìm kiếm, con không ước ao điều gì khác, giầu có, của cải, châu báu của con là nên thánh. Bởi thế, ý Cha hãy thể hiện trong con, để con được nên thánh.
Lạy Cha chí thánh, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Ý cha là muốn con vững mạnh trong đức tin, khiêm nhường trong đàm thoại, nết na trong ngôn từ, công chính trong hành động, xót thương kẻ thiếu thốn, chừng mực trong tác phong; Cha muốn con đừng gây thiệt hại cho bất cứ ai, ngược lại phải hỗ trợ mọi người, hòa nhã với họ, và yêu mến Cha như người Cha, và kính sợ Cha như người Cha. Ý cha thể hiện. Lạy Cha, đó là điều con ước muốn, con cầu xin, con mong chờ hết lòng, Thánh Ý Cha thể hiện trong con. Ước chi việc hoàn thành ý Cha trở thành niềm sảng khoái, niềm thỏa mãn, niềm hân hoan cho tâm hồn con mọi nơi mọi lúc; vì lạy Cha, con biết thà linh hồn con chịu mọi nhục hình của thế gian, nếu đó là ý Cha, thì điều ấy còn hữu ích hơn là được hưởng mọi trò vui và khoái lạc của con cái Adong. Niềm vui của các Thiên Thần, ước muốn của các Thánh và niềm an ủi của người công chính hệ ở chỗ này: Ý Cha được thể hiện. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời; vậy, lạy Cha, con nguyện xin cho ý Cha thể hiện nơi con.
Sau cùng, lạy Cha, Cha và Con yêu qúy Cha đã cho con hay thánh ý Cha khi Người phán: Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con hết lòng, hết linh hồn, hết tinh thần và hết sức con, và yêu người bên cạnh như chính con (Mc 12:30). Ôi lạy Cha, vì ý Cha muốn con yêu Cha hết lòng, hết linh hồn và hết sức con, nên xin Cha cho con biết thực hiện điều Cha truyền và điều Cha muốn. Lạy nguồn suối tình yêu, xin hãy ban đức ái cho con; ôi vực sâu yêu thương vô tận, hãy ban tình yêu cho con. Lạy Cha, xin hãy thắp lên ngọn đèn linh hồn con bằng ánh sáng tình yêu của Cha. Lạy Cha, Cha đã truyền cho chúng con phải luôn có lửa trên bàn thờ Cha (Lv 6:12). Con xin dâng lên Cha, lạy Cha, linh hồn con để làm bàn thờ; xin hãy để ngọn lửa tình yêu Cha ngày đêm cháy trong nó. Hỡi Ánh Sáng đời đời, ánh sáng rọi sáng mọi ánh sáng và bừng cháy rực rỡ hàng nghìn hàng vạn cây đuốc chiếu sáng trước ngai Thiên Chúa của Cha từ lúc hừng đông! Ôi ánh sáng vĩnh cửu soi sáng mọi ánh sáng và duy trì chúng trong sự sáng láng đời đời của Cha, hàng nghìn hàng vạn Thiên Thần đứng chầu trước Uy Linh Cha như những ngọn đuốc cháy bằng ngọn lửa tình yêu của Cha và không ngừng bừng cháy nhưng lại không thiêu đốt và tiêu hao mình. Lạy Thiên Chúa và là Cha con, xin cho phép con được đến gần Cha, Ngọn Lửa yêu đương, đuốc sáng linh hồn con, để một khi đã thắp lên, nó không ngừng bừng cháy ngọn lửa yêu Cha và yêu tha nhân: nhờ thế thánh ý Cha được thể hiện trong con.
Lời cầu thứ tư: Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày
Vâng, lạy Cha, con cái bao giờ cũng cần cơm bánh; xin chớ từ khước không ban cho chúng con kẻo chúng con chết mất. Lạy Cha, xin ban cho chúng con bánh thiêng liêng (Mt 6:11) là chính Con một Cha, Chúa Giêsu Kitô, đang ngự trong phép Bí Tích Rất Thánh, để nhờ Bánh này, chúng con được nuôi dưỡng bằng sự sống thiêng liêng, được lớn lên trong nhân đức và được tăng cường sức mạnh đủ để hoàn thành cuộc lữ hành nơi thung lũng nước mắt này, cho đến ngày tới được núi thánh Horeb của Thiên Chúa (Ps 83:7; 2R 19:8). Lạy Cha chí thánh, Bánh này chính là bánh Con Cha đã mang đến cho chúng con, đó là những điều kỳ diệu Ngài đã làm, đã giảng và chịu đựng; lạy Cha chí thánh, trong suốt cuộc lữ hành này, đừng để chúng con bao giờ phải thiếu thốn thứ man na từ trời ấy khiến chúng con không được nếm mùi vị thơm tho của nó (Kn 16:20).
Lạy Chúa, mọi loài dõi mắt trông chờ Chúa và Chúa ban cho chúng của ăn đúng lúc thuận tiện (Ps 144:15); lạy Cha, con cái Cha đang dõi mắt nhìn Cha và xin Cha ban Bánh hằng sống (Ga 6:35) vì nhờ Bánh này chúng con sẽ sống cuộc sống trên trời. Vậy lạy Cha, con, một trong con cái Cha, dù rất bất xứng, dù lớn lao về tuổi tác, nhưng thật bé nhỏ về công phúc, đói khát và thiếu thốn, con xin Cha ban cho con bánh ấy. Và vì có hai bản chất trong con, một bản chất xác thịt, một bản chất thiêng liêng, nên con xin Cha ban bánh ăn cho cả hai bản chất ấy. Đối với thân xác, vốn là bụi đất, con xin Cha bánh bởi đất; đối với linh hồn, vốn là tinh thần, con xin Cha Bánh bởi Trời, Bánh Thiên Thần (Tv 77:25). Lạy Cha đầy lòng thương xót, xin Cha hãy nhớ khi trẻ thơ xin cha chúng bánh ăn, nhất là lúc chúng đang đói, chúng dùng hết sức la to: bánh, bánh! Và với những tiếng kêu ấy, giống như những mũi tên sắc bén, chúng làm rướm máu cõi lòng cha chúng khiến ông phải lùng cho bằng được bánh ăn cho con cái mình. Thì con cũng thế, con đang đói khát đây, lạy Cha chúng con; xin Cha hãy lắng nghe lời con kêu cầu: Lạy Cha, bánh, bánh! Xin Cha chí thánh đoái thương mở rộng dạ nhân từ (Lc 1:78) và vì Cha có thể làm được, nên xin Cha cứu giúp và ban cho con Cha bánh ơn phúc của Cha và Bánh thiêng liêng trong Bí Tích Rất Thánh.
Ngoài ra, lạy Cha, xin Cha ban cho chúng con bánh thơm ngon và dịu dàng là lời Cha, xin Cha hãy bẻ bánh ấy cho chúng con, nhờ các thừa tác viên, tức các vị giảng thuyết của Cha, xẻ bánh ấy thành nhiều mẩu cho chúng con; làm cho lời ấy sinh hoa trái trong linh hồn chúng con, như hạt giống rơi vào đất tốt và sinh hoa trái gấp trăm (Mt 13:8).
Sau cùng, lạy Cha, giờ đây con đang phủ phục dưới bàn ăn Uy Linh tối cao Cha, nơi đoàn lũ Thiên Thần và các Thánh đang ăn uống; qùy trước mặt phương phi Cha, khiêm hạ trước nhan thánh Cha như những con chó hèn hạ phục dưới bàn ăn của chủ mình (Mt 15:27) mong chờ những mẩu bánh rơi rụng, xin Cha đoái thương cho con được vinh dự hưởng của thơm tho dịu ngọt mà các Thánh đang hưởng nơi bàn ăn Của Cha, ngõ hầu, trong lúc nguyện gẫm, con nếm được một chút gì đó trong số những điều con cái Cha trên Trời đang được hưởng. Lạy Cha, chớ chi buổi nguyện gẫm của con đừng khô cằn và nguội lạnh, nhưng dịu ngọt và êm ái nhờ bánh an ủi và thăm viếng của Cha.
Lời Cầu thứ năm: Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Lạy Cha, chúng con nghèo và nợ nần chồng chất; còn Cha, Cha giầu có và là người tài trợ chúng con; người giầu phải tha nợ cho người nghèo: nên xin Cha tha nợ cho chúng con. Lạy Cha, xin xót thương con Cha, kẻ mắc nợ cũng nhiều như phạm tội. Có người cha nào lại không tha bất cứ nợ nần nào cho đứa con bị sa vào cảnh nghèo khốn khó, khi nó khiêm nhường đến van xin? Và lạy Cha chí thánh, còn có đứa con nào nghèo và nợ nần hơn con? Giờ đây, giống như người thu thuế kia (Lc 18:13), con khiêm nhừng cầu xin Cha: xin Cha tha tội nợ con từng xúc phạm đến Cha. Ôi lạy Thiên Chúa, bản chất Ngài là luôn luôn thương xót và tha thứ,”xin thương xót đứa con tội nghiệp này và tha hết mọi nợ nần của con; lạy Cha, con nhìn nhận nợ nần con vô số (mười ngàn nén) (Mt 18:24), vì con đã phạm trọn bộ lề luật của Cha; nhưng lòng thương xót vô lượng của Cha thắng vượt vô tận tất cả những xúc phạm ấy. Lạy Cha, xin hãy nhớ đến lòng thương xót đời đời của Cha (Tv 24:6) và cũng như Cha đã tỏ lòng thuơng xót biết bao nhiêu tôi tớ Cha, xin cũng đoái thương tha hết mọi tội lỗi của con.
Lạy Cha, con nhớ đến lòng thương xót của Cha đối với dân xưa của Cha, dân mà Cha đã tha thứ tội lỗi không biết bao nhiêu lần (2R 12:13). Lạy Cha, con nhớ Cha đã nhớ đến tôi tớ Đavít của Cha và Cha đã tha tội rất lớn cho ông. Lạy Cha, con cũng nhớ đến Con yêu dấu của Cha, khi còn ở trên thế gian này, đã ghé mắt nhân từ nhìn Tông Đồ của Ngài khi ông chối Ngài, và nhìn Madelaine khi bà hối cải, và sau cùng Ngài đã tiếp đón mọi kẻ tội lỗi biết ăn năn và ăn uống với họ (Lc 7:37; 15:1; 22:55). Cha không thay đổi chút nào; ngày xưa Cha là Thiên Chúa xót thương, giờ đây Cha vẫn xót thương chẳng kém; Cha vẫn là Thiên Chúa ngày xưa, lòng thương xót của Cha không cùng vì nó vốn vô biên; nó không bao giờ ngừng nghỉ vì nó không có điểm ngừng, nếu không, Bầu Trời đã bị khóa kín; lòng thương xót Cha không bao giờ ngừng, vì cũng như lửa, nó luôn luôn cháy miễn là có chất đốt, lòng thương xót Cha cũng thế bao lâu còn tội lỗi để thiêu hủy và nợ nần để tha nợ thì nó còn đó. Lòng thương xót Chúa từ đời này đến đời nọ đối với những kẻ kính sợ Ngài (Lc 1:50): ca khúc của Mẹ rất thánh Con đầy phúc Cha là Chúa Giêsu Kitô, đã nói thế. Người biết rõ lòng thương xót ấy quả vô biên. Lạy Chúa, Chúa đặt ranh giới cho biển khơi, nhưng Chúa để ngỏ lòng thương xót Chúa không bờ không bến, để nó luôn đi tìm kẻ có tội, nợ nần chồng chất, mà tha thứ. Lạy Cha, này đây lòng thương xót Cha đang gặp kẻ tội lỗi trên hết mọi kẻ tội lỗi, kẻ nợ nần nhiều hơn bất cứ con cháu Adong nào khác: xin hãy xóa hết mọi tội lỗi con, tha hết số nợ nần quá lớn của con và luôn tiến lên phía trước mà tìm các con nợ khác. Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm (Ps 41:8); con cái nghèo hèn kêu cầu (Cha xót thương). Ước chi vực thẳm nuốt chửng vực thẳm; chớ chi vực thẳm các khốn cùng bất tận của con được tan hòa trong vực thẳm (lòng từ bi Cha). Lạy Cha, con biết mọi tội lỗi con, dù nhiều đến đâu, và mọi tội lỗi thế gian, trước lòng từ bi Cha chỉ như cọng rơm trước ngọn lửa vĩ đại. Sau cùng, lạy Cha chí thánh, nhờ lượng từ bi vô biên của Cha, nhờ phúc đức Cuộc Khổ Nạn mà Con Cha yêu dấu từng chịu trên thánh giá và nhờ lời bầu cử của Rất Thánh Đồng Trinh và mọi kẻ được tuyển chọn từ thuở đầu sáng thế, con xin Cha đoái thương tha nợ cho chúng con.
Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Lạy Cha, con cũng cầu xin Cha ban cho con đủ nhân đức và ơn thánh Cha để con tha thứ trọn vẹn cho những ai xúc phạm đến con; và lạy Cha, nếu Cha thấy trong tâm hồn con còn điều chi chưa hoàn hảo chống lại những kẻ xúc phạm con, thì vì ngọn lửa bác ái của Cha, xin Cha hãy làm nó biến đi, hãy thiêu rụi nó đi. Xin Cha đừng để bất cứ vết tích hay bóng tối nào của lòng thù oán xót lại trong tâm hồn con, để con nói thật lòng được rằng: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
Lạy Cha, chúng con là môi trường của cám dỗ. Kẻ thù chúng con là ma quỷ luôn rảo quanh chúng con tìm đường cắn xé (1Pr 5:8). Lạy Cha, xin ban các phương thế, xin đến cứu giúp con; kẻ thù con đông như cát biển mà lại nhiều kinh nghiệm chiến đấu; linh hồn con mỏi mòn, yếu đuối, bất lực nếu Cha không đến trợ giúp con. Cầm mộc khiên, xin đứng dậy phù trì; vung gươm giáo chống lại những người bắt bớ con (Tv 34:2); hãy nói với linh hồn con: Ta là sự cứu thoát của con. Ôi lạy Chúa, chớ chi linh hồn khốn khổ này luôn cần đến ơn thánh Cha, sự phù trì cứu giúp của Cha để con khỏi sa chước cám dỗ! Con chiên bé nhỏ giữa bầy lang sói chắc chắn sẽ bị tiêu diệt nếu người chăn chiên không cứu nó; lạy Cha, cũng thế, linh hồn con đang ở giữa biết bao lang sói hòng vây kín tấn công con trong một thế giới nó luôn bị hàng nghìn dịp tội rù quyến, với một xác thịt luôn chống lại nó, nó làm gì được nếu không được Chúa phù trì?
Lạy Cha chí thánh, con ngước mắt lên Trời nơi con sẽ nhận được ơn phù trì; sự phù trì của con phát xuất từ Chúa, Đấng tạo thành trời đất. Ôi lạy Cha nhân hậu và Thiên Chúa mọi ủi an, xin Cha hãy đến cứu giúp con; lạy Chúa, hãy mau đến cứu giúp con. Lạy Cha chí thánh, bao giờ Chúa phán xử những kẻ bách hại con? (Tv 120:1; 2Cor 1:3; Tv 69:2; 118:84). Lạy Chúa, xin Chúa phán xét những kẻ ám hại linh hồn con, xin ban cho con ơn cứu giúp của Chúa để con đừng sa ngã, để con đừng xúc phạm đến Chúa. Lạy Cha, con không cầu xin Cha giải thoát con khỏi các cơn cám dỗ, nhưng con xin Cha ban cho con ơn thánh và sức mạnh để con chống trả và đánh trả cách can trường. Vì tình mến Cha, con sẵn sàng chịu ưu phiền và lo lắng ở đời này, miễn là trong những ưu phiền lo lắng ấy, linh hồn con không nao núng. Lạy Chúa, cũng như vàng đã trở nên đẹp đẽ hơn (nhờ được luyện) trong lò thế nào (Pr 17:3; 27:21; Kn 3:6), linh hồn con, nhờ được liệng vào lò ưu phiền, cũng trở nên tinh ròng, sáng láng hơn và lóng lánh hơn thể ấy. Xin cho nó đừng như rơm rạ vì thiếu sức mạnh nên đã chịu để lửa thiêu rụi tiêu tán. Xin cho con được như các Thánh là những vị khi còn sống trên dương gian, bị liệng vào lửa, vẫn mạnh mẽ, cương quyết và như kim cương đá qúy nhờ lửa mà trở thành lộng lẫy sáng láng. Lạy Cha, Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, để chúng con đừng xúc phạm đến Uy Linh tối cao Chúa.
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Lạy Cha, con nhìn nhận Cha đã thương xót con nhiều vì Cha đã gìn giữ con khỏi nhiều sự dữ mà con rất đáng phải chịu do tội lỗi mình; biết bao lần con đã phạm tội, biết bao lần con đã đáng bị phạt sa hỏa ngục đời đời. Lạy Cha, những kẻ chịu sự khốn cùng này đông xiết bao! Họ là những kẻ còn phạm tội ít hơn con nữa; chỉ có điều họ đã không được ơn thống hối như con, nên đã phải chết khốn khổ trong tội và do đó bị mất linh hồn! Lạy Cha, con xin Cha từ nay giải thoát con khỏi mọi lỗi lầm, để con thoát được hình phạt hỏa ngục; Lạy Chúa, xin đừng để con xúc phạm đến Chúa nữa; phạm đến Chúa trong quá khứ đã quá đủ rồi. Lạy Chúa, ước chi tội lỗi con đừng nhân thừa gấp bội như cát biển (G 6:3) và sao trời; chớ chi hỏa ngục đừng nuốt trửng con và hố sâu đừng ngậm lại chôn sống con (Tv 68:16).
Lạy Cha, Cha đã giải thoát con khỏi nhiều sự dữ ở trên đời này. Có biết bao kẻ mù lòa, câm điếc và tàng tật trong số con cái Adong! Nhưng lạy Chúa, Chúa đã gìn giữ con khỏi những sự dữ ấy, mặc dù con cũng là con cái Adong như họ và là kẻ tội lỗi hơn họ nữa; tuy nhiên, điều ấy cũng chẳng ích lợi gì cho con, nếu Chúa không giải thoát con khỏi sự dữ tội lỗi. Bởi thế, con xin Chúa giải thoát con khỏi tội khỏi lỗi khỏi hình phạt do tội mang lại. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lạy Cha, Cha đã giải thoát con khỏi bóng tối và sự mù lòa của những người Thổ, người Hồi, người Do Thái, người Ngoại Giáo và lương dân, cho con được sinh ra trong lòng Thánh Giáo Hội; lạy Cha, xin Cha giải thoát con khỏi bóng tối và sự mù lòa của tội để con được vui hưởng máu thánh và công nghiệp Con đầy phúc của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, và được kể vào số con cái Cha, vốn là con cái của ánh sáng (Lc 16:8; Eph 5:8; 1Tx 5:5) trong Nước Cha.
Lạy Cha, con nhớ đến người đàn bà miền Tơ cô a (Thécua) tốt lành đã vào chầu vua Đavít xin tha tội cho Absalon; và vị vua này, khi nghe biết lời cầu xin ấy là do sáng kiến của tướng Giôáp (2S 14), người vua rất sủng ái, đã lập tức chuẩn ý lời bà cầu xin. Lạy Cha, Con chí thánh và được Cha sủng ái là Chúa Giêsu Kitô cũng truyền cho con đọc kinh này và đã sai con đến với Cha để con cầu xin những điều chứa trong kinh ấy. Lạy Cha, xin đừng nhìn đến con là kẻ tội lỗi nhiều hơn mọi kẻ tội lỗi, nhưng xin nhìn đến mọi đấng Thánh của Cha, kể cả Đấng Thánh Hóa các vị nữa (1Th 1); và vì tình yêu của Cha đối với Ngài, xin Cha ban cho con điều Ngài truyền con xin Cha.
Lạy Cha, con cũng nhớ truyện các con Giacóp không được tái hiện trước mặt Giuse mà không mang theo đứa em út là Bengiamin (St 42:20; 43:3; 44:23); chúng con cũng thế, chúng con không được phép xuất hiện trước nhan thánh Chúa nếu không có người anh cả của chúng con là Con duy nhất Cha, Chúa Giêsu Kitô. Vậy lạy Cha, này đây con đến trước nhan Cha cùng với Con chí thánh Cha là Chúa Giêsu. Con dâng Ngài lên Cha, và cúi đầu khẩn xin Cha nhờ công nghiệp của Ngài và nhờ Cái Chết và cuộc Khổ Nạn rất thánh của Ngài, xin Cha đoái thương ban cho con điều chính Ngài, trong Lời Kinh và lời khẩn cầu vốn là của Ngài này, đã truyền cho con phải xin Cha, để linh hồn con trọn vẹn thuộc về Cha, luôn ngợi khen và chúc tụng Cha đến muôn đời muôn thuở. Amen.
Vũ Văn An
Ngày Lễ Thánh Francois de Sales, 24-01- 2008
[*] Các Thánh Vịnh trong tài liệu này ghi theo lối đánh số cũ.
[**] Câu này, nguyên văn tiếng Pháp như sau: Les justes sont dans l’attente de la justice que vous me rendrez. Các bản dịch mới đều dịch câu này khác hẳn: Bao kẻ lành xúm lại mừng con, vì con đã được Ngài thi ân giáng phúc (Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ)
Con đường Ơn gọi nữ tử Đức Bà thánh Tâm
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
12:10 17/02/2008
CON ĐƯỜNG ƠN GỌI NỮ TỬ ĐỨC BÀ THÁNH TÂM
... Tôi mồ côi Mẹ năm lên 8 tuổi. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày thơ ấu buồn thảm vì mất Mẹ. Tôi cũng nhớ như in vào ngày Rước Lễ lần đầu năm đó, tôi thân thưa với Đức Mẹ MARIA như sau:
- Lạy Mẹ, Mẹ có bằng lòng nhận con làm con của Mẹ và Mẹ trở thành Mẹ của con, nhiều hơn một chút, so với các trẻ khác, bởi vì, tất cả đều có một người mẹ rồi không?
Từ ngày ấy, tôi chọn Đức Mẹ MARIA làm Mẹ của tôi.
Ngoài ra, cứ mỗi lần giải tội cho tôi xong, Cha Sở thường âu yếm ra lệnh cho tôi:
- Bây giờ, con hãy đến cầu nguyện với Đức Mẹ đi!
Đó là câu nói mà tôi thích nghe nhất, sau mỗi lần xưng tội. Vì thế, nếu có lần nào Cha Sở lỡ quên, tôi liền nhắc Cha nói câu đó với tôi. Đây là giây phút mong chờ và hạnh phúc nhất! Tôi mau mắn đến quỳ dưới chân tượng Đức Mẹ MARIA. Tôi kể lể cho Đức Mẹ nghe mọi tâm tình của tôi: Nỗi buồn, niềm vui, cái cô đơn của đứa trẻ mất Mẹ. Đôi lúc tôi cũng trách Đức Mẹ sao để tôi phải mồ côi Mẹ quá sớm! Giờ đây khi nghĩ lại chặng đời thơ ngây trải qua bên tượng Đức Mẹ ấy, tôi mới hiểu rằng:
- Chính đó là con đường Đức Mẹ dìu dắt đưa tôi đến với Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU!
Sau đó là tuổi dậy thì từ 12 đến 17: thời kỳ của khủng hoảng, của lang thang, lầm lạc mất hướng đi cuộc đời. Thế nhưng, khi tất cả hầu như vô nghĩa, chả còn gì để bám víu nương tựa, thì tôi lại được một sức mạnh vô hình hướng dẫn, một sự hiện diện vô cùng thân thương, luôn luôn gần kề bên tôi! Đó là sự hiện diện của Người Mẹ Thiên Quốc mà tôi chọn làm Mẹ thật ngày tôi lên 8 tuổi.
Bước vào tuổi trưởng thành, tôi lại bắt đầu kể lể cho Đức Mẹ những tâm tình kín ẩn nhất của tôi và tự đặt cuộc đời tôi trong bàn tay dẫn dắt của Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ lại đưa tôi đến với Đức Chúa GIÊSU, giờ đây trở thành tất cả lý tưởng cuộc đời tôi.
Thế rồi, một ngày tôi hành hương đến Issoudun (Trung Pháp) nơi có đền thánh Đức Mẹ và là trụ sở Các Linh Mục Thừa Sai Thánh Tâm. Tại đây, tôi ngạc nhiên khám phá ra tước hiệu Đức Bà Thánh Tâm, niềm hy vọng của những người tuyệt vọng.
Sau lần hành hương ấy, tôi tìm hiểu Các Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm và xin gia nhập dòng. Đối với tôi, trở thành nữ tử Đức Bà Thánh Tâm có nghĩa là, trước tiên, cùng với Đức Mẹ MARIA dâng lời chúc tụng THIÊN CHÚA và cảm tạ Ngài về mọi kỳ công Ngài thực hiện nơi tôi cũng như nơi người khác.
Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm còn có nghĩa biết giữ thinh lặng trước tất cả những gì tôi không hiểu trong cuộc đời tôi cũng như trong cuộc đời các anh chị em tôi. Đây không phải là thứ thinh lặng ”chết” mà là thinh lặng mang ”niềm hy vọng” nơi Sức Mạnh Tình Yêu. Niềm hy vọng vượt qua mọi dáng vẽ bề ngoài.
Ngoài ra, Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm đồng nghĩa với việc biết lắng nghe, đặc biệt lắng nghe những người bị thương tổn vì cuộc đời, cần được người khác nhìn nhận phẩm giá của mình.
Sau cùng, Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm là chấp nhận trở thành người hiện diện kín đáo và quan tâm săn sóc những người cần được giúp đỡ, với con tim hiền mẫu của Đức Mẹ MARIA. Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm không lôi cuốn người khác về cho riêng mình, nhưng đưa người khác đến với Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU, Vị Vua của loài người.
Chứng từ của Chị Sylvia Binot, người Pháp. Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm là chi nhánh nữ của Dòng Thừa Sai Thánh Tâm do Cha Jules Chevalier (1824-1907) thành lập ngày 8-12-1854 tại Pháp.
... ”Quả thế, THIÊN CHÚA là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. . Như thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Chúa GIÊSU đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham. Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng THIÊN CHÚA, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Thư gởi tín hữu Do-thái 2,10+14-18).
(”Annales d'Issoudun”, Mai/1999, trang 8-9)
... Tôi mồ côi Mẹ năm lên 8 tuổi. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày thơ ấu buồn thảm vì mất Mẹ. Tôi cũng nhớ như in vào ngày Rước Lễ lần đầu năm đó, tôi thân thưa với Đức Mẹ MARIA như sau:
- Lạy Mẹ, Mẹ có bằng lòng nhận con làm con của Mẹ và Mẹ trở thành Mẹ của con, nhiều hơn một chút, so với các trẻ khác, bởi vì, tất cả đều có một người mẹ rồi không?
Từ ngày ấy, tôi chọn Đức Mẹ MARIA làm Mẹ của tôi.
Ngoài ra, cứ mỗi lần giải tội cho tôi xong, Cha Sở thường âu yếm ra lệnh cho tôi:
- Bây giờ, con hãy đến cầu nguyện với Đức Mẹ đi!
Đó là câu nói mà tôi thích nghe nhất, sau mỗi lần xưng tội. Vì thế, nếu có lần nào Cha Sở lỡ quên, tôi liền nhắc Cha nói câu đó với tôi. Đây là giây phút mong chờ và hạnh phúc nhất! Tôi mau mắn đến quỳ dưới chân tượng Đức Mẹ MARIA. Tôi kể lể cho Đức Mẹ nghe mọi tâm tình của tôi: Nỗi buồn, niềm vui, cái cô đơn của đứa trẻ mất Mẹ. Đôi lúc tôi cũng trách Đức Mẹ sao để tôi phải mồ côi Mẹ quá sớm! Giờ đây khi nghĩ lại chặng đời thơ ngây trải qua bên tượng Đức Mẹ ấy, tôi mới hiểu rằng:
- Chính đó là con đường Đức Mẹ dìu dắt đưa tôi đến với Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU!
Sau đó là tuổi dậy thì từ 12 đến 17: thời kỳ của khủng hoảng, của lang thang, lầm lạc mất hướng đi cuộc đời. Thế nhưng, khi tất cả hầu như vô nghĩa, chả còn gì để bám víu nương tựa, thì tôi lại được một sức mạnh vô hình hướng dẫn, một sự hiện diện vô cùng thân thương, luôn luôn gần kề bên tôi! Đó là sự hiện diện của Người Mẹ Thiên Quốc mà tôi chọn làm Mẹ thật ngày tôi lên 8 tuổi.
Bước vào tuổi trưởng thành, tôi lại bắt đầu kể lể cho Đức Mẹ những tâm tình kín ẩn nhất của tôi và tự đặt cuộc đời tôi trong bàn tay dẫn dắt của Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ lại đưa tôi đến với Đức Chúa GIÊSU, giờ đây trở thành tất cả lý tưởng cuộc đời tôi.
Thế rồi, một ngày tôi hành hương đến Issoudun (Trung Pháp) nơi có đền thánh Đức Mẹ và là trụ sở Các Linh Mục Thừa Sai Thánh Tâm. Tại đây, tôi ngạc nhiên khám phá ra tước hiệu Đức Bà Thánh Tâm, niềm hy vọng của những người tuyệt vọng.
Sau lần hành hương ấy, tôi tìm hiểu Các Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm và xin gia nhập dòng. Đối với tôi, trở thành nữ tử Đức Bà Thánh Tâm có nghĩa là, trước tiên, cùng với Đức Mẹ MARIA dâng lời chúc tụng THIÊN CHÚA và cảm tạ Ngài về mọi kỳ công Ngài thực hiện nơi tôi cũng như nơi người khác.
Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm còn có nghĩa biết giữ thinh lặng trước tất cả những gì tôi không hiểu trong cuộc đời tôi cũng như trong cuộc đời các anh chị em tôi. Đây không phải là thứ thinh lặng ”chết” mà là thinh lặng mang ”niềm hy vọng” nơi Sức Mạnh Tình Yêu. Niềm hy vọng vượt qua mọi dáng vẽ bề ngoài.
Ngoài ra, Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm đồng nghĩa với việc biết lắng nghe, đặc biệt lắng nghe những người bị thương tổn vì cuộc đời, cần được người khác nhìn nhận phẩm giá của mình.
Sau cùng, Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm là chấp nhận trở thành người hiện diện kín đáo và quan tâm săn sóc những người cần được giúp đỡ, với con tim hiền mẫu của Đức Mẹ MARIA. Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm không lôi cuốn người khác về cho riêng mình, nhưng đưa người khác đến với Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU, Vị Vua của loài người.
Chứng từ của Chị Sylvia Binot, người Pháp. Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm là chi nhánh nữ của Dòng Thừa Sai Thánh Tâm do Cha Jules Chevalier (1824-1907) thành lập ngày 8-12-1854 tại Pháp.
... ”Quả thế, THIÊN CHÚA là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. . Như thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Chúa GIÊSU đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham. Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng THIÊN CHÚA, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Thư gởi tín hữu Do-thái 2,10+14-18).
(”Annales d'Issoudun”, Mai/1999, trang 8-9)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tòa Thánh: bảo vệ môi trường và trái đất là trách nhiệm của mỗi người.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
00:36 17/02/2008
Những cố gắng của Đúc Giáo Hoàng để bảo vệ môi trường.
NEW YORK (Zenit.org).-Sự dấn thân cá nhân của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI bảo vệ môi trường và trái đất, được chứng tỏ một phần bởi nhiều sự kêu gọi công khai của ngài, đã linh hứng một sự thay đổi trong những cách sống ủng hộ môi trường, Tòa Thánh ghi nhận.
Tổng Giám Mục Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên-Hiệp-Quốc, đã khẳng định thứ Tư này trong khoá hợp thứ 62 của Đại hội Đồng U.N. với danh hiệu “ Đề Cập sự Thay Đổi Khí Hậu: Liên-Hiệp-Quốc và Thế Giới làm Việc.”
Việc tranh cãi đang tiến hành về sự thay đổi khí hậu đã giúp tập trung vào trách nhiệm không thể tránh được của mỗi người và mọi người phải chăm sóc môi trường, qua đó xây dựng sự đồng thuận xung quanh mục tiêu chung là đề bạt một môi trươg lành mạnh cho các thế hệ hiện tại và tương lai,” ngài lưu ý.
Trong cố gắng này, ngài khẳng định, “Toà Thánh bảo đảm sự cộng tác của mình.”
Cách riêng, Tổng Giám Mục Migliore ghi chú công việc bởi Đức Thánh Cha đích thân thực hiện.
“Sự dân thân cá nhân và nhiều tiếng kêu công khai của đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phát động những chiến dịch quan tâm đối với với một cảm giác đổi mới về sự tôn trọng đối với và sự cần thiết bảo vệ tạo vật của Thiên Chúa. Các cá nhân và các tập thể đã bắt đầu thay đổi cách sống của mình, vì ý thức rằng cách cư xử cá nhân và tập thể tác động khí hậu và sự lành mạnh toàn diện của môi trường.
“Tuy những thay đổi kiểu sống như thế thỉnh thoảng xem ra không thích hợp, tất cả sáng kiến nhỏ làm giảm hay bù đắp vết chân các-bon, dầu đó là sự tránh sử dụng không cần thiết việc chuyên chở hay là sự cố gắng hàng ngày giảm thiểu sự tiêu hao năng lực, góp phần làm nhẹ sự thoái hóa môi trường và chứng tỏ sự dấn thân chăm lo mội trường.”
Vị giám chức cũng lưu ý những bước chân thực tế của Tòa Thánh tham gia trong sự bảo vệ môi trường. Ngài nhắc tới việc xử dụng năng lượng mặt trời dự định đặt tại Quốc gia Vatican. Một dự án sẽ hoàn thành năm nay và sẽ cung cấp tất cả năng lượng cho Đại Thính Đường Phaolô VI. Số thặng dư sẽ được sử dụng cho những nơi khác.
Và tổng giám mục đã ghi nhận sự tham gia trong chương trình trồng cây tại Hungary, chương trình này sẽ “ cung cấp những lợi ích môi trường cho quốc gia này, giúp tái phục hồi giải đất xuống cấp về mặt môi trường, và cung cấp những việc làm địa phương.”
Tổng giám mục Migliore đề cao trách nhiệm chia sẻ của các cá nhân và các quốc gia trong việc bảo vệ hành tinh.
“Mọi cá nhân và quốc gia có nhiệm vụ nhận lãnh cách nghiêm túc sự chia sẻ của mình về trách nhiệm hầu gặp và thi hành phương pháp cân đối nhất có thể cho thách đố này. Sự phát triển lâu dài cung cấp chìa khóa cho một chiến lược coi trọng cách hài hoà những đòi hỏi của sự bảo vệ môi trường, sự thay đổi khí hậu, sự phát triển kinh tế và những nhu cầu cơ bản nhân bản.”
Sạch và xanh
Đại diện Toà Thánh khuyến khích việc sử dụng “những kỹ thuật sạch,” ngài nói chúng là một “bộ phận quan trọng của sự phát triển lâu dài.”
Và ngài đề nghị những quốc gia đang phát triển phải được giúp trong việc học từ những lỗi lầm do các bên đối tác kỹ nghệ cao đã thực hiện.
“Sự góp chung những những tài nguyên biến nhữrng sáng kiến làm nhẹ bớt lỗi lầm và thích nghi, tới được hầu hết mọi người, như vậy giúp những kẻ ít được trang bị hơn theo đuổi sự phát triển đang khi bảo vệ môi trường”.
Tổng Giám mục Migliore lại thúc đẩy các thị trường bảo hộ “những kinh tế xanh” và không “ủng hộ sự đòi hỏi những của cải mà việc sản xuất ra chúng gây nên sự xuống cấp môi trường.”
“”Những người tiêu thụ phải ý thức rằng những mẫu tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp tới sự lành mạnh môi trường. Như vậy nhờ sự tùy thuộc nhau, sự liên đới và trách nhiệm, các cá nhân và quốc gia chung nhau sẽ có khả năng hơn làm cân đối những nhu cầu của sự phát triển lâu dài với những nhu cầu quản lý tốt ở mọi cấp bậc.”
“Trên thực tế, thách đố của sự thay đổi khí hậu ngay lập tức là từ cá nhân, địa phương, quốc gia và toàn cầu. Dĩ nhiên, nó thúc đẩy một sự trả lời phối hợp mọi cấp bậc, với những chương trình giảm nhẹ sai lầm và thích nghi đồng thời cá nhân, địa phưong, quốc gia và hoàn cầu trong quan niệm và phạm vi của họ. ”
NEW YORK (Zenit.org).-Sự dấn thân cá nhân của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI bảo vệ môi trường và trái đất, được chứng tỏ một phần bởi nhiều sự kêu gọi công khai của ngài, đã linh hứng một sự thay đổi trong những cách sống ủng hộ môi trường, Tòa Thánh ghi nhận.
Tổng Giám Mục Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên-Hiệp-Quốc, đã khẳng định thứ Tư này trong khoá hợp thứ 62 của Đại hội Đồng U.N. với danh hiệu “ Đề Cập sự Thay Đổi Khí Hậu: Liên-Hiệp-Quốc và Thế Giới làm Việc.”
Việc tranh cãi đang tiến hành về sự thay đổi khí hậu đã giúp tập trung vào trách nhiệm không thể tránh được của mỗi người và mọi người phải chăm sóc môi trường, qua đó xây dựng sự đồng thuận xung quanh mục tiêu chung là đề bạt một môi trươg lành mạnh cho các thế hệ hiện tại và tương lai,” ngài lưu ý.
Trong cố gắng này, ngài khẳng định, “Toà Thánh bảo đảm sự cộng tác của mình.”
Cách riêng, Tổng Giám Mục Migliore ghi chú công việc bởi Đức Thánh Cha đích thân thực hiện.
“Sự dân thân cá nhân và nhiều tiếng kêu công khai của đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phát động những chiến dịch quan tâm đối với với một cảm giác đổi mới về sự tôn trọng đối với và sự cần thiết bảo vệ tạo vật của Thiên Chúa. Các cá nhân và các tập thể đã bắt đầu thay đổi cách sống của mình, vì ý thức rằng cách cư xử cá nhân và tập thể tác động khí hậu và sự lành mạnh toàn diện của môi trường.
“Tuy những thay đổi kiểu sống như thế thỉnh thoảng xem ra không thích hợp, tất cả sáng kiến nhỏ làm giảm hay bù đắp vết chân các-bon, dầu đó là sự tránh sử dụng không cần thiết việc chuyên chở hay là sự cố gắng hàng ngày giảm thiểu sự tiêu hao năng lực, góp phần làm nhẹ sự thoái hóa môi trường và chứng tỏ sự dấn thân chăm lo mội trường.”
Vị giám chức cũng lưu ý những bước chân thực tế của Tòa Thánh tham gia trong sự bảo vệ môi trường. Ngài nhắc tới việc xử dụng năng lượng mặt trời dự định đặt tại Quốc gia Vatican. Một dự án sẽ hoàn thành năm nay và sẽ cung cấp tất cả năng lượng cho Đại Thính Đường Phaolô VI. Số thặng dư sẽ được sử dụng cho những nơi khác.
Và tổng giám mục đã ghi nhận sự tham gia trong chương trình trồng cây tại Hungary, chương trình này sẽ “ cung cấp những lợi ích môi trường cho quốc gia này, giúp tái phục hồi giải đất xuống cấp về mặt môi trường, và cung cấp những việc làm địa phương.”
Tổng giám mục Migliore đề cao trách nhiệm chia sẻ của các cá nhân và các quốc gia trong việc bảo vệ hành tinh.
“Mọi cá nhân và quốc gia có nhiệm vụ nhận lãnh cách nghiêm túc sự chia sẻ của mình về trách nhiệm hầu gặp và thi hành phương pháp cân đối nhất có thể cho thách đố này. Sự phát triển lâu dài cung cấp chìa khóa cho một chiến lược coi trọng cách hài hoà những đòi hỏi của sự bảo vệ môi trường, sự thay đổi khí hậu, sự phát triển kinh tế và những nhu cầu cơ bản nhân bản.”
Sạch và xanh
Đại diện Toà Thánh khuyến khích việc sử dụng “những kỹ thuật sạch,” ngài nói chúng là một “bộ phận quan trọng của sự phát triển lâu dài.”
Và ngài đề nghị những quốc gia đang phát triển phải được giúp trong việc học từ những lỗi lầm do các bên đối tác kỹ nghệ cao đã thực hiện.
“Sự góp chung những những tài nguyên biến nhữrng sáng kiến làm nhẹ bớt lỗi lầm và thích nghi, tới được hầu hết mọi người, như vậy giúp những kẻ ít được trang bị hơn theo đuổi sự phát triển đang khi bảo vệ môi trường”.
Tổng Giám mục Migliore lại thúc đẩy các thị trường bảo hộ “những kinh tế xanh” và không “ủng hộ sự đòi hỏi những của cải mà việc sản xuất ra chúng gây nên sự xuống cấp môi trường.”
“”Những người tiêu thụ phải ý thức rằng những mẫu tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp tới sự lành mạnh môi trường. Như vậy nhờ sự tùy thuộc nhau, sự liên đới và trách nhiệm, các cá nhân và quốc gia chung nhau sẽ có khả năng hơn làm cân đối những nhu cầu của sự phát triển lâu dài với những nhu cầu quản lý tốt ở mọi cấp bậc.”
“Trên thực tế, thách đố của sự thay đổi khí hậu ngay lập tức là từ cá nhân, địa phương, quốc gia và toàn cầu. Dĩ nhiên, nó thúc đẩy một sự trả lời phối hợp mọi cấp bậc, với những chương trình giảm nhẹ sai lầm và thích nghi đồng thời cá nhân, địa phưong, quốc gia và hoàn cầu trong quan niệm và phạm vi của họ. ”
Loạt bài chuẩn bị chuyến Tông Du đầu tiên tới Hoa Kỳ của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI
Ngọc Loan
07:08 17/02/2008
St Columban- California:
Kính thưa Quý Vị, thưa các Bạn,
Để chuẩn bị tinh thần và chào mừng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ đặt chân lần đầu tiên tới Hoa Kỳ vơi tư cách Giáo Hoàng vào ngày 15/4, cũng là chuyến tông du thứ 8 trong triều Giáo Hoàng, một loạt 15 bài liên quan đến Đức Giáo Hoàng Biển Đức đến Hoa Kỳ sẽ lần lượt cho lên mạng Vietcatholic trong thời gian tới đây.
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã đưa ra chủ để cho chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI vào tháng 4 tới đây là “Đức Kitô niềm Hy Vọng của Chúng Ta”.
Thưa Quý Vị, thưa Các Bạn, để mở đầu cho loạt bài này, trước tiên vẫn là:
Chương trình chi tiết chuyến Tông Du của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tại Hoa Kỳ:
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI lần đầu tiên với tư cách Giáo Hoàng sẽ đến Hoa Kỳ với hàng loạt những cuộc tiếp kiến gặp gỡ khác nhau giữa các hàng Giám Mục, Tu Sĩ và Chủng Sinh tại Hoa Kỳ, cácnhà lãnh đạo chính quyền, các đại diện liên tôn và đại kết, các học giả trí thức trên thế giới và tín hữu Công Giáo Hoà Kỳ.
Những biến cố được tổ chức tại Washington và tại New York từ ngày 15-20/4 bao gồm buổi gặp gỡ Tổng Thống George W. Bush và Đệ Nhất Phu Nhân tại Nhà Trắng (Tòa Bạch Ốc) và cuộc viếng thăm “Ground Zero” tại Manhattan nơi xảy ra cuộc khủng bố không tặc Tòa Tháp Đôi 11/9.
Cuộc gặp gỡ và trình bày sứ điệp của Ngài trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào ngày 18/4, là một dịp để Ngài trình bày những nền tảng quan trọng toàn cầu nhất trong triều đại 3 năm Giáo Hoàng của Ngài.
Là chuyến Tông Du thứ 8 và là chuyến tông du đầu tiên tới Hoa Kỳ trong triều Giáo Hoàng Biển Đức XVI kể từ khi có chuyến Tông Du cuối cùng của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chỉ vỏn vẹn 30 tiếng đồng hồ tại St Louis- Hoa Kỳ vào năm 1999.
Ban tổ chức chuyến Tông Du Giáo Hoàng đã tường trình cho biết số người yêu cầu có vé để tham dự 2 Thánh Lễ rất cao tại Công Viên Quốc Gia ở Washington và tại Vận Động Trường Yankee ở NewYork, và chắc chắn rằng Ban Tổ Chức sẽ không đảm bảo để mọi người có vé để được tham dự Thánh Lễ vì đã ngoài quá con số cho phép.
Riêng tại Vatican, các giáo sĩ đã tỏ ra nhộn nhịp càng ngày càng tăng vì các Ngài kỳ vọng đây sẽ là chuyến tông du quan trọng nhất so với các năm vừa qua.
Thứ Ba, 15/4
Đức Giáo Hoàng sẽ đến Phi Trường Quân Sự Andrews, thuộc ngoại ô Washington vào xế chiều trong chuyến bay của hãng hàng không Alitalia kéo dài 9 tiếng đồng hồ. Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush sẽ ra nghênh đón và chào mừng Đức Giáo Hoàng. Tổng Thống Bush sẽ đọc một bài chào mừng ngắn lên Đức Thánh Cha và Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đọc một bài đáp từ. Sau đó Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ đến thẳng tới Dinh Sứ Thần Tòa Thánh để nghỉ ngơi sau 9 tiếng đồng hồ trên máy bay.
Thứ Tư 16/4
Tổng Thống George W. Bush sẽ chào mừng Đức Giáo Hoàng tại phía Nam của Nhà Trắng vào lúc 10 g 30 sáng, sau đó sẽ có một buổi gặp gỡ riêng giữa 2 vị tại Nhà Trắng. Đây cũng là lần thứ 2 trong lịch sử triều đại các Giáo Hoàng, là Đức Giáo Hoàng đã viếng thăm Nhà Trắng. Hôm này cũng trùng vào ngày sinh nhật thứ 81 của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI.
Lúc 5 g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự buổi đọc Kinh Chiều với khoảng 350 Giám Mục Hoa Kỳ tại Đền Thánh Quốc Gia Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Washington. Trước đó Đức Giáo Hoàng sẽ chào mừng nhiều người nghênh đón Ngài dọc theo con đường đưa đến Đền Thánh Quốc Gia.
Thứ Năm 17/4
Lúc 10 giờ sáng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Công Viên Quốc Gia, đây là biến cố đầu tiên được diễn ra tại Vận Động Trường mới mà không phải là trận đấu baseball.
Lúc 5 giờ chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ và ban bài diễn văn tới hơn 200 Trường Cao Đẳng và Đại Học Công Giáo tại Đại Học Công Giáo America ở vùng Đông Bắc Washington, tại đây cũng có sự tham sự của Ban Giám Thị các trường Trung Học Công Giáo từ các Giáo Phận trên khắp đất nước Hoa Kỳ.
Lúc 6g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ cùng với các đại diện Phật Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Đạo Sikhs, Ấn Giáo và đại diện các tôn giáo bạn trong buổi cầu nguyện chung tại Trung Tâm Văn Hoa Gioan Phaolô II.
Thứ Sáu, 18/4
Sau khi đáp chuyến bay từ Washington tới New York, Đức Giáo Hoàng sẽ thuyết trình trước Đại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào lúc 10g45 sáng. Theo truyền thống Giáo Hoàng của các vị tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc 2 lần vào năm 1979 và năm 1995, và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tới đây vào năm 1965.
Lúc 6g30 chiêu, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự buổi cầu nguyện với các tôn giáo Kitô Giáo như Tin Lành... tại Thánh Đường Thánh Giuse (St Joseph), đây là một giáo xứ có tầm vóc lịch sử của người Đức tại Yorkville thuộc Manhattan.
Thứ Bảy 19/4
Lúc 9g15 sáng, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự Thánh lễ tại Nhà Thờ Chánh Tòa St Patrick nằm giữa thị trấn Manhattan dành cho các Linh Mục, Tu Sĩ các Dòng Tu và các Phó Tế. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm đánh dấu đúng 3 năm ngày tuyển cử Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI.
Lúc 4g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ giới trẻ tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở Yonkers, thuộc phía Bắc Thành Phố New York. Đức Giáo Hoàng cũng gặp gỡ 50 bạn trẻ khuyết tật, và đức Giáo Hoàng sẽ ban một bài huấn từ tới các bạn trẻ, trong số bao gồm đến cả hàng trăm chủng sinh. Trong buổi này được coi như là buổi tập họp cầu nguyện.
Chúa Nhật 20/4
Lúc 9g30 sáng, Đức Giáo Hoàng sẽ viếng thăm “ground zero”, nơi xảy ra khủng bố không tặc vào ngày 11/9/2001 tại Tòa Tháp Đôi của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới.
Lúc 2g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Vận Động Trường Yankee. Buổi cử hành phụng vụ này cũng đánh dấu 200 năm thành lập Tổng Giáo Phận New York, Tổng Giáo Phận Boston, Tổng Giáo Phận Philadelphia và Louisville, Ky., cũng như đánh dấu 200 năm, giáo phận Baltimore được nâng lên hàng Tổng Giáo Phận, đây là Giáo Phận cổ kính nhất của Hoa Kỳ, là Giáo Phận đầu tiên được thành lập trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tới phi trường Quốc Tế John F. Kennedy lúc 8 giờ tồi và đáp chuyến bay Shepherd One của hãng hàng không Alitalia để trở về Vatican.
Đối với những ai không có cơ hội lấy được vé để tham dự Thánh Lễ tại 2 vận động trường do Đức Thánh Cha chủ tế, thế nhưng vẫn có thể xem thấy tận mắt và chào mừng Giáo Hoàng tại dọc các đường phố, vì Tòa Thánh đã mang chiếc xe bọc kính của Giáo Hoàng đến Hoa Kỳ và sẽ được xử dụng tại Washington và New York.
Kính thưa Quý Vị, thưa các Bạn,
Để chuẩn bị tinh thần và chào mừng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ đặt chân lần đầu tiên tới Hoa Kỳ vơi tư cách Giáo Hoàng vào ngày 15/4, cũng là chuyến tông du thứ 8 trong triều Giáo Hoàng, một loạt 15 bài liên quan đến Đức Giáo Hoàng Biển Đức đến Hoa Kỳ sẽ lần lượt cho lên mạng Vietcatholic trong thời gian tới đây.
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã đưa ra chủ để cho chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI vào tháng 4 tới đây là “Đức Kitô niềm Hy Vọng của Chúng Ta”.
Thưa Quý Vị, thưa Các Bạn, để mở đầu cho loạt bài này, trước tiên vẫn là:
Chương trình chi tiết chuyến Tông Du của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tại Hoa Kỳ:
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI lần đầu tiên với tư cách Giáo Hoàng sẽ đến Hoa Kỳ với hàng loạt những cuộc tiếp kiến gặp gỡ khác nhau giữa các hàng Giám Mục, Tu Sĩ và Chủng Sinh tại Hoa Kỳ, cácnhà lãnh đạo chính quyền, các đại diện liên tôn và đại kết, các học giả trí thức trên thế giới và tín hữu Công Giáo Hoà Kỳ.
Những biến cố được tổ chức tại Washington và tại New York từ ngày 15-20/4 bao gồm buổi gặp gỡ Tổng Thống George W. Bush và Đệ Nhất Phu Nhân tại Nhà Trắng (Tòa Bạch Ốc) và cuộc viếng thăm “Ground Zero” tại Manhattan nơi xảy ra cuộc khủng bố không tặc Tòa Tháp Đôi 11/9.
Cuộc gặp gỡ và trình bày sứ điệp của Ngài trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào ngày 18/4, là một dịp để Ngài trình bày những nền tảng quan trọng toàn cầu nhất trong triều đại 3 năm Giáo Hoàng của Ngài.
Là chuyến Tông Du thứ 8 và là chuyến tông du đầu tiên tới Hoa Kỳ trong triều Giáo Hoàng Biển Đức XVI kể từ khi có chuyến Tông Du cuối cùng của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chỉ vỏn vẹn 30 tiếng đồng hồ tại St Louis- Hoa Kỳ vào năm 1999.
Ban tổ chức chuyến Tông Du Giáo Hoàng đã tường trình cho biết số người yêu cầu có vé để tham dự 2 Thánh Lễ rất cao tại Công Viên Quốc Gia ở Washington và tại Vận Động Trường Yankee ở NewYork, và chắc chắn rằng Ban Tổ Chức sẽ không đảm bảo để mọi người có vé để được tham dự Thánh Lễ vì đã ngoài quá con số cho phép.
Riêng tại Vatican, các giáo sĩ đã tỏ ra nhộn nhịp càng ngày càng tăng vì các Ngài kỳ vọng đây sẽ là chuyến tông du quan trọng nhất so với các năm vừa qua.
Thứ Ba, 15/4
Đức Giáo Hoàng sẽ đến Phi Trường Quân Sự Andrews, thuộc ngoại ô Washington vào xế chiều trong chuyến bay của hãng hàng không Alitalia kéo dài 9 tiếng đồng hồ. Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush sẽ ra nghênh đón và chào mừng Đức Giáo Hoàng. Tổng Thống Bush sẽ đọc một bài chào mừng ngắn lên Đức Thánh Cha và Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đọc một bài đáp từ. Sau đó Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ đến thẳng tới Dinh Sứ Thần Tòa Thánh để nghỉ ngơi sau 9 tiếng đồng hồ trên máy bay.
Thứ Tư 16/4
Tổng Thống George W. Bush sẽ chào mừng Đức Giáo Hoàng tại phía Nam của Nhà Trắng vào lúc 10 g 30 sáng, sau đó sẽ có một buổi gặp gỡ riêng giữa 2 vị tại Nhà Trắng. Đây cũng là lần thứ 2 trong lịch sử triều đại các Giáo Hoàng, là Đức Giáo Hoàng đã viếng thăm Nhà Trắng. Hôm này cũng trùng vào ngày sinh nhật thứ 81 của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI.
Lúc 5 g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự buổi đọc Kinh Chiều với khoảng 350 Giám Mục Hoa Kỳ tại Đền Thánh Quốc Gia Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Washington. Trước đó Đức Giáo Hoàng sẽ chào mừng nhiều người nghênh đón Ngài dọc theo con đường đưa đến Đền Thánh Quốc Gia.
Thứ Năm 17/4
Lúc 10 giờ sáng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Công Viên Quốc Gia, đây là biến cố đầu tiên được diễn ra tại Vận Động Trường mới mà không phải là trận đấu baseball.
Lúc 5 giờ chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ và ban bài diễn văn tới hơn 200 Trường Cao Đẳng và Đại Học Công Giáo tại Đại Học Công Giáo America ở vùng Đông Bắc Washington, tại đây cũng có sự tham sự của Ban Giám Thị các trường Trung Học Công Giáo từ các Giáo Phận trên khắp đất nước Hoa Kỳ.
Lúc 6g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ cùng với các đại diện Phật Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Đạo Sikhs, Ấn Giáo và đại diện các tôn giáo bạn trong buổi cầu nguyện chung tại Trung Tâm Văn Hoa Gioan Phaolô II.
Thứ Sáu, 18/4
Sau khi đáp chuyến bay từ Washington tới New York, Đức Giáo Hoàng sẽ thuyết trình trước Đại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào lúc 10g45 sáng. Theo truyền thống Giáo Hoàng của các vị tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc 2 lần vào năm 1979 và năm 1995, và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tới đây vào năm 1965.
Lúc 6g30 chiêu, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự buổi cầu nguyện với các tôn giáo Kitô Giáo như Tin Lành... tại Thánh Đường Thánh Giuse (St Joseph), đây là một giáo xứ có tầm vóc lịch sử của người Đức tại Yorkville thuộc Manhattan.
Thứ Bảy 19/4
Lúc 9g15 sáng, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự Thánh lễ tại Nhà Thờ Chánh Tòa St Patrick nằm giữa thị trấn Manhattan dành cho các Linh Mục, Tu Sĩ các Dòng Tu và các Phó Tế. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm đánh dấu đúng 3 năm ngày tuyển cử Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI.
Lúc 4g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ giới trẻ tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở Yonkers, thuộc phía Bắc Thành Phố New York. Đức Giáo Hoàng cũng gặp gỡ 50 bạn trẻ khuyết tật, và đức Giáo Hoàng sẽ ban một bài huấn từ tới các bạn trẻ, trong số bao gồm đến cả hàng trăm chủng sinh. Trong buổi này được coi như là buổi tập họp cầu nguyện.
Chúa Nhật 20/4
Lúc 9g30 sáng, Đức Giáo Hoàng sẽ viếng thăm “ground zero”, nơi xảy ra khủng bố không tặc vào ngày 11/9/2001 tại Tòa Tháp Đôi của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới.
Lúc 2g30 chiều, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Vận Động Trường Yankee. Buổi cử hành phụng vụ này cũng đánh dấu 200 năm thành lập Tổng Giáo Phận New York, Tổng Giáo Phận Boston, Tổng Giáo Phận Philadelphia và Louisville, Ky., cũng như đánh dấu 200 năm, giáo phận Baltimore được nâng lên hàng Tổng Giáo Phận, đây là Giáo Phận cổ kính nhất của Hoa Kỳ, là Giáo Phận đầu tiên được thành lập trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tới phi trường Quốc Tế John F. Kennedy lúc 8 giờ tồi và đáp chuyến bay Shepherd One của hãng hàng không Alitalia để trở về Vatican.
Đối với những ai không có cơ hội lấy được vé để tham dự Thánh Lễ tại 2 vận động trường do Đức Thánh Cha chủ tế, thế nhưng vẫn có thể xem thấy tận mắt và chào mừng Giáo Hoàng tại dọc các đường phố, vì Tòa Thánh đã mang chiếc xe bọc kính của Giáo Hoàng đến Hoa Kỳ và sẽ được xử dụng tại Washington và New York.
Kinh Truyên tin chúa nhựt 17-2-08: cuộc Biến hình báo trước sự Phục sinh
Bình Hoà
16:33 17/02/2008
Như đã nói lần trước, trong nguyên gốc latinh, mùa phụng vụ mà chúng ta đang sống được mang tên mùa “Bốn Mươi” (Quadragesima), dựa theo thời gian 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong sa mạc, cũng như thời gian mà xưa kia ông Mosê và ông Elia chuẩn bị để diện kiến Thiên Chúa trên núi Horeb. Thực ra, đây là thời gian Giáo hội chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm vào đêm Vọng Phục sinh. Các bài đọc Sách Thánh trong các Chúa nhựt đều mang tính cách huấn giáo, lần lượt trình bày cuộc giao tranh chiến đấu với tội lỗi và sự dữ, việc biến đổi trở nên Con Thiên Chúa, cũng như hồng ân sự sống mà bí tích mang lại. Tuy nhiên, bài huấn dụ trưa chúa nhựt hôm qua không nhắm đến các dự tòng, nhưng cho các tín hữu. Chú giải đoạn Tin mừng về cuộc biến hình trên núi, đức thánh cha đã suy nghĩ về núi như là điạ điểm nâng cao tâm hồn, nơi gặp gỡ Thiên Chúa; cách riêng móc nối đề tài với chúa nhựt tuần trước, ngài cho thấy rằng cuộc chiến đấu với ma quỷ trong sa mạc và cuộc biến hình trên núi làm nên cột mốc của hành trình đức tin, đi từ cái chết trên thập giá đến vinh quang Phục sinh.
Anh chị em thân mến
Hôm qua kết thúc ở dinh Tông tòa tuần tĩnh tâm hằng năm dành cho Giáo hoàng và các cộng sự viên của Giáo triều. Tôi xin cám ơn những ai đã gần gũi với chúng tôi về tinh thần; nguyện xin Chúa ban thưởng lòng quảng đại của họ. Hôm nay, chúa nhựt thứ hai mùa Bốn Mươi, tiếp tục hành trình thống hối, phụng vụ sau khi đã trình bày Tin mừng thuật lại những cuộc cám dỗ của Chúa Giêsu vào tuần trước, hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về biến cố trọng đại của cuộc biến hình trên núi. Cả hai quang cảnh được ghép lại với nhau để tiên báo mầu nhiệm Vượt qua: cuộc chiến đấu chống lại tên cám dỗ báo trước sự giao tranh cuối cùng trong hồi Tử nạn, còn ánh sáng tỏa từ thân thể hiển dung báo trước vinh quang của sự Phục sinh. Một đàng chúng ta nhìn thấy đức Giêsu như là người phàm chia sẻ thân phận của chúng ta ngay cả trong cơn cám dỗ; đàng khác, chúng ta chiêm ngắm Người như là Con Thiên Chúa, biến đổi nhân tính chúng ta trở nên thiên tính. Như vậy có thể nói được rằng hai chúa nhựt này là cột trụ chống đỡ toàn thể toà nhà mùa Bốn Mươi cho đến lễ Phục sinh, và thậm chí toàn thể kiến trúc của đời sống Kitô hữu, tựu trung vào tiến trình Vượt qua, từ cái chết đến sự sống.
Núi – núi Tabor cũng như núi Sinai – là nơi gần gũi với Thiên Chúa. Đó là điạ điểm được nâng cao, vượt lên trên cuộc sống thường ngày, nơi mà ta có thể hít thở bầu khí trong lành của vũ trụ. Núi là nơi cầu nguyện, nơi mà con người hiện diện với Thiên Chúa, giống như ông Mosê và ông Elia, xuất hiện bên cạnh Chúa Giêsu hiển dung và đàm đạo về cuộc “xuất hành” đang chờ đón ở Giêrusalem, nghĩa là về cuộc Vượt qua. Việc biến hình là một hiện tượng diễn ra lúc cầu nguyện: khi cầu nguyện, đức Giêsu đắm mình trong Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa, gắn bó ý chí con người với ý định yêu thương của Chúa Cha, và như thế ánh sáng đã chiếm đoạt lấy Người và tỏ hiện sự thật về bản chất của Người, đó là Người là Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng. Ngay cả tấm áo của đức Giêsu cũng trở nên trắng toát và rạng rỡ. Điều này làm ta nghĩ tới bí tích Thánh tẩy, nghĩ tới tấm áo trắng được trao cho các tân tòng. Phàm ai tái sinh nhờ bi tích Thánh tẩy thì được khoác lấy ánh sáng, tiên báo cho cuộc sống trên trời mà sách Khải huyền diễn tả qua biểu tượng của tấm áo trắng tinh (xc Kh 7.9.13). Đây là nòng cốt của vấn đề: cuộc biến hình báo trước sự Phục sinh, nhưng sự phục sinh giả thiết sự chết. Chúa Giêsu đã tỏ hiện cho các tông đồ vinh quang của mình, ngõ hầu họ có sức lực để đương đầu với cơn vấp phạm của thập giá, và hiểu rằng cần phải trải qua nhiều gian nan thì mới được vào Vương quốc Thiên Chúa. Tiếng nói của Chúa Cha vọng từ trời cao công bố rằng đức Giêsu là Con yêu dấu của mình, và thêm vào lời răn tựa như hồi lãnh phép rửa ở sông Giorđanô: “Hãy nghe lời Người” (Mt 17,5). Để đi vào cuộc sống bất diệt, cần phải nghe đức Giêsu, đi theo con đường thập giá, mang trong tâm hồn niềm hy vọng phục sinh. “Spe salvi”, được cứu độ nhờ hy vọng. Hôm nay ta cũng có thể nói “được biến hình nhờ hy vọng”.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Đức Maria, nhận biết Người là thụ tạo đã được biến đổi sâu xa nhờ ân sủng của Chúa. Chúng ta hãy ký thác bản thân nhờ Mẹ dẫn dắt, tin tưởng và quảng đại tiến bước trong hành trình mùa Bốn Mươi.
Anh chị em thân mến
Hôm qua kết thúc ở dinh Tông tòa tuần tĩnh tâm hằng năm dành cho Giáo hoàng và các cộng sự viên của Giáo triều. Tôi xin cám ơn những ai đã gần gũi với chúng tôi về tinh thần; nguyện xin Chúa ban thưởng lòng quảng đại của họ. Hôm nay, chúa nhựt thứ hai mùa Bốn Mươi, tiếp tục hành trình thống hối, phụng vụ sau khi đã trình bày Tin mừng thuật lại những cuộc cám dỗ của Chúa Giêsu vào tuần trước, hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về biến cố trọng đại của cuộc biến hình trên núi. Cả hai quang cảnh được ghép lại với nhau để tiên báo mầu nhiệm Vượt qua: cuộc chiến đấu chống lại tên cám dỗ báo trước sự giao tranh cuối cùng trong hồi Tử nạn, còn ánh sáng tỏa từ thân thể hiển dung báo trước vinh quang của sự Phục sinh. Một đàng chúng ta nhìn thấy đức Giêsu như là người phàm chia sẻ thân phận của chúng ta ngay cả trong cơn cám dỗ; đàng khác, chúng ta chiêm ngắm Người như là Con Thiên Chúa, biến đổi nhân tính chúng ta trở nên thiên tính. Như vậy có thể nói được rằng hai chúa nhựt này là cột trụ chống đỡ toàn thể toà nhà mùa Bốn Mươi cho đến lễ Phục sinh, và thậm chí toàn thể kiến trúc của đời sống Kitô hữu, tựu trung vào tiến trình Vượt qua, từ cái chết đến sự sống.
Núi – núi Tabor cũng như núi Sinai – là nơi gần gũi với Thiên Chúa. Đó là điạ điểm được nâng cao, vượt lên trên cuộc sống thường ngày, nơi mà ta có thể hít thở bầu khí trong lành của vũ trụ. Núi là nơi cầu nguyện, nơi mà con người hiện diện với Thiên Chúa, giống như ông Mosê và ông Elia, xuất hiện bên cạnh Chúa Giêsu hiển dung và đàm đạo về cuộc “xuất hành” đang chờ đón ở Giêrusalem, nghĩa là về cuộc Vượt qua. Việc biến hình là một hiện tượng diễn ra lúc cầu nguyện: khi cầu nguyện, đức Giêsu đắm mình trong Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa, gắn bó ý chí con người với ý định yêu thương của Chúa Cha, và như thế ánh sáng đã chiếm đoạt lấy Người và tỏ hiện sự thật về bản chất của Người, đó là Người là Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng. Ngay cả tấm áo của đức Giêsu cũng trở nên trắng toát và rạng rỡ. Điều này làm ta nghĩ tới bí tích Thánh tẩy, nghĩ tới tấm áo trắng được trao cho các tân tòng. Phàm ai tái sinh nhờ bi tích Thánh tẩy thì được khoác lấy ánh sáng, tiên báo cho cuộc sống trên trời mà sách Khải huyền diễn tả qua biểu tượng của tấm áo trắng tinh (xc Kh 7.9.13). Đây là nòng cốt của vấn đề: cuộc biến hình báo trước sự Phục sinh, nhưng sự phục sinh giả thiết sự chết. Chúa Giêsu đã tỏ hiện cho các tông đồ vinh quang của mình, ngõ hầu họ có sức lực để đương đầu với cơn vấp phạm của thập giá, và hiểu rằng cần phải trải qua nhiều gian nan thì mới được vào Vương quốc Thiên Chúa. Tiếng nói của Chúa Cha vọng từ trời cao công bố rằng đức Giêsu là Con yêu dấu của mình, và thêm vào lời răn tựa như hồi lãnh phép rửa ở sông Giorđanô: “Hãy nghe lời Người” (Mt 17,5). Để đi vào cuộc sống bất diệt, cần phải nghe đức Giêsu, đi theo con đường thập giá, mang trong tâm hồn niềm hy vọng phục sinh. “Spe salvi”, được cứu độ nhờ hy vọng. Hôm nay ta cũng có thể nói “được biến hình nhờ hy vọng”.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Đức Maria, nhận biết Người là thụ tạo đã được biến đổi sâu xa nhờ ân sủng của Chúa. Chúng ta hãy ký thác bản thân nhờ Mẹ dẫn dắt, tin tưởng và quảng đại tiến bước trong hành trình mùa Bốn Mươi.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nhóm Bác ái Giáo Phận Hải Phòng thăm Trại phong Chí Linh nhân dịp Mùa chay 2008
Khổng Trung Sơn
02:34 17/02/2008
HẢI PHÒNG -- Nhân dịp Mùa Chay năm nay, Đức Cha Hải Phòng Giuse Vũ Văn Thiên đã cử Cha Gioan Baotixita Vũ Văn Kiện quản lý Toà Giám Mục, và anh chị em Legio Mariae Giáo Phận Hải Phòng đến thăm hỏi và chia sẻ với các bệnh nhân phong Chí Linh Hải Dương.
Phái đoàn đến thăm trại phong gồm Cha trưởng đoàn và 17 thành viên thuộc Comitium Hải Phòng.
Cha Trưởng đoàn và anh chị em Legio Hải Phòng đã có buổi giao lưu với các bệnh nhân phong, mọi người chúc nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất trong ngày đầu xuân mới, cùng hát, cùng chơi, cùng nắm tay nhau trong tình huynh đệ.
Cha Trưởng đoàn và các thành viên trong đoàn đã trao quà Mùa Chay của Đức Giám Mục cho anh chị em Trại Phong. Món quà không lớn, nhưng nói lên sự quan tâm và nhất là tình hiệp thông giữa con người với con người, Mọi người coi nhau như những người thân của mình, phải có trách nhiệm cảm thông và chia sẻ.
Cha Trưởng đoàn dâng lễ tại Nhà nguyện Thánh Giuse cho anh chị em bệnh nhân phong, những người Công Giáo, Tin Lành và có cả một số anh chị em Phật tử nữa. Trong thánh lễ Ngài đã cầu nguyện cho các bệnh nhân còn sống cũng như những người đã qua đời.
Trong bài giảng Cha đã nhấn mạnh đến tình thương và lòng khoan dung của Thiên Chúa đối với con người, vì thế mọi người cần phải có cái nhìn thông cảm và khoan dung với nhau, nhất là tình bác ái và vị tha. Khi anh chị em chia sẻ bác ái cho người khác là chúng ta đã gặp được Chúa. Ngày hôm nay anh chị em Legio không phải tìm Chúa ở đâu xa nhưng anh chị em đã gặp được Cháu qua những bệnh nhân trong trại phong, họ là hình ảnh của Thiên Chúa, khi chúng ta bắt tay các bệnh nhân là chúng ta bắt tay Chúa, khi chúng ta cảm thông với anh chị em bệnh nhân là chúng ta cảm thông với Chúa, khi chúng ta giúp đỡ anh chị em bệnh nhân là giúp đỡ cho chính Chúa.
Thánh lễ đã kết thúc các bệnh nhân phong tham dự cảm thấy thật hạnh phúc khi được cùng nhau chia sẻ tình hiệp thông với mọi người không nghi kỵ, không kỳ thị, nhưng cùng nhau trao cho nhau sự bình an của Chúa ban tặng cho mỗi người, và ước chi sự bình an đó luôn ở trong mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.
Xin Chúa tiếp tục nâng đỡ anh chị em bệnh nhân trong Trại Phong này và nhất là có nhiều tấm lòng hảo tâm giúp đỡ cho anh chị em Trại Phong để anh chị em luôn sống trong bình an, an vui và hạnh phúc.
Phái đoàn đến thăm trại phong gồm Cha trưởng đoàn và 17 thành viên thuộc Comitium Hải Phòng.
Cha Trưởng đoàn và anh chị em Legio Hải Phòng đã có buổi giao lưu với các bệnh nhân phong, mọi người chúc nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất trong ngày đầu xuân mới, cùng hát, cùng chơi, cùng nắm tay nhau trong tình huynh đệ.
Cha Trưởng đoàn và các thành viên trong đoàn đã trao quà Mùa Chay của Đức Giám Mục cho anh chị em Trại Phong. Món quà không lớn, nhưng nói lên sự quan tâm và nhất là tình hiệp thông giữa con người với con người, Mọi người coi nhau như những người thân của mình, phải có trách nhiệm cảm thông và chia sẻ.
Cha Trưởng đoàn dâng lễ tại Nhà nguyện Thánh Giuse cho anh chị em bệnh nhân phong, những người Công Giáo, Tin Lành và có cả một số anh chị em Phật tử nữa. Trong thánh lễ Ngài đã cầu nguyện cho các bệnh nhân còn sống cũng như những người đã qua đời.
Trong bài giảng Cha đã nhấn mạnh đến tình thương và lòng khoan dung của Thiên Chúa đối với con người, vì thế mọi người cần phải có cái nhìn thông cảm và khoan dung với nhau, nhất là tình bác ái và vị tha. Khi anh chị em chia sẻ bác ái cho người khác là chúng ta đã gặp được Chúa. Ngày hôm nay anh chị em Legio không phải tìm Chúa ở đâu xa nhưng anh chị em đã gặp được Cháu qua những bệnh nhân trong trại phong, họ là hình ảnh của Thiên Chúa, khi chúng ta bắt tay các bệnh nhân là chúng ta bắt tay Chúa, khi chúng ta cảm thông với anh chị em bệnh nhân là chúng ta cảm thông với Chúa, khi chúng ta giúp đỡ anh chị em bệnh nhân là giúp đỡ cho chính Chúa.
Thánh lễ đã kết thúc các bệnh nhân phong tham dự cảm thấy thật hạnh phúc khi được cùng nhau chia sẻ tình hiệp thông với mọi người không nghi kỵ, không kỳ thị, nhưng cùng nhau trao cho nhau sự bình an của Chúa ban tặng cho mỗi người, và ước chi sự bình an đó luôn ở trong mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.
Xin Chúa tiếp tục nâng đỡ anh chị em bệnh nhân trong Trại Phong này và nhất là có nhiều tấm lòng hảo tâm giúp đỡ cho anh chị em Trại Phong để anh chị em luôn sống trong bình an, an vui và hạnh phúc.
Hội Cao Niên Công Đồng Công Giáo Nam Úc Mừng Tân Niên 2008
Jos. Vĩnh
07:46 17/02/2008
Hội Cao Niên Công Đồng Công Giáo Nam Úc mừng Xuân Mậu-Tý 2008
.Vào lúc 11giơ 30’ sáng Chúa Nhật, ngày 17/02/2008 (nhằm ngày 11 tết Âm lịch). Hội Cao Niên thuộc Cộng Đồng Công-Giáo Người Việt tại Nam Úc, đã tổ chức đón Xuân Mậu Tý. Sau Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, mặc dù thời tiết bức và gay gắt, tất cả qúi vị trong Hội Cao Niên đã tụ tập về Hội quán Việt Hương để cùng hân hoan dự tiệc mừng Xuân.
Hiện diện trong bữa tiệc, có sự tham dự của Lm. GioanBaotixita Nguyễn- Viết-Huy Sj Phó Quản Nhiệm Cộng Đồng, Soeur Mạnh-Đễ, quí vị trong Ban Mục Vụ, ngoài ra còn có sự hiện diện của bà Maria Ross giám đốc trung tâm chăm sóc sức khoẻ của người già vùng Northern Nam-Úc.
Buổi tiệc được bắt đầu với lời giới thiệu chương trình của anh Thy-Yên, cùng với lời chào mừng, chúc Tết đến quan khách và toàn thể Hội viên của ông Phạm Khánh Tường hội trưởng Hội Cao Niên.
Đáp từ, Cha Huy Phó Quản nhiệm đã gởi lời chúc Tết đến toàn thể qúi vị cao-niên trong Cộng Đồng, với những lời chúc ưu ái và những gì tốt đẹp nhất trong năm 2008.
Cũng trong bữa tiệc này, ông Hội Trưởng đã giới thiệu 3 hội viên, mới ghi danh gia nhập hội.
Buổi tiệc được bắt đầu sau khi Cha Huy cầu nguyện và chúc lành cho bữa ăn, trong lúc đang dùng tiệc, một chương trình văn nghệ Karaoke phụ diễn, dưới sự góp mặt của các ca sĩ hội viên “cây nhà lá vườn”.
Tiệc Xuân năm nay, ẩm thực linh đình, đó là do sự đóng góp dồi dào của những hội viên mà lúc nào tinh thần phục vụ cũng cao như Trường sơn, Biển cả.
Được biết hội Cao Niên của Cộng Đồng hiện thời có 180 hội viên. Hội sinh hoạt và họp thường xuyên hàng tháng vào các ngày Chúa Nhật thứ nhất, sau Thánh lễ 9 giờ 30 sáng.
Hàng năm Ban Chấp Hành Hội có tổ chức 2 ngày đặc biệt cho các hội viên:
-1 ngày đi du ngoạn xa, vào dịp cuối tuần trong tháng Tư
-3 ngày trại cuối tuần vào tháng Mười.
Ngoài ra hội có 2 ngày hội lớn đó là: Tiệc Mừng Xuân và Lễ Mừng Bổn Mạng của Hội.
Hội tuyên nhận thánh tử đạo Emanuel Lê Văn Phụng làm quan Thầy bảo trợ cho hội. Thánh Lễ mừng kính Thánh Bổn Mạng và tiệc mừng được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy.
Hiện tại thời tiết Adelaide đang tăng lên trên 37 độ C, một số quí vị cao niên sức khỏe không cho phép, đã phải ra về sớm. Tuy nhiên, buổi tiệc mừng Xuân đã diễn ra trong bầu không khí vui tươi, hòa lẫn trong tiếng hát, tiếng cười.
Tiệc mừng Tân Niên của Hội Cao Niên kết thúc vào lúc 1 giờ 30’ cùng ngày, kèm theo tiếng chào và những lời chúc tạm biệt chia tay.
Thy-Yên tường trình từ Adelaide
Giáo xứ An Qúy (Đến thánh Antôn - Hải Dương) đón thánh tượng Đức Mẹ Phatima
Phaolô Vũ
09:32 17/02/2008
HẢI PHÒNG -- Trong bầu khí vui tươi của những ngày đầu Xuân Mậu Tý, cộng đoàn đức tin tại An Quý đã long trọng cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Phatima về viếng thăm và chúc lành cho giáo xứ.
Đã từ lâu lắm rồi, sau 53 năm, kể từ cuộc thánh du năm 1954, giáo phận Hải Phòng mới lại có dịp sống lại bầu khí đạo đức, hồ hởi, vui mừng của cuộc đón rước Đức Mẹ Phatima, do Đức Giám mục Francisco Gomes rước về từ PHATIMA. Trong những ngày này, giáo phận Hải Phòng đang sống trong một Mùa Xuân mới với một tâm tình và sắc thái đặc biệt - Mùa Xuân bên Mẹ Phatima. Với biến cố đón rước Đức Mẹ Phatima từ miền Nam trở về, giáo phận Hải Phòng đang cùng với Đức Mẹ được thực sự bước vào một Mùa Xuân của Ân sủng. Bởi nhờ biến cố này và qua lời thỉnh cầu của Đức Giám mục, ngày 17. 10. 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã vui lòng ban Ơn Toàn Xá cho giáo phận trong thời gian 5 năm, từ 01/01/2008 đến 31/12/2012.
Chỉ sau giáo xứ Chính toà Hải Phòng, cộng đoàn đức tin giáo xứ An Quý đã được vinh dự đón rước, cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Phatima để lãnh nhận Ơn Toàn Xá do Đức Giáo Hoàng ban.
Về với giáo xứ An Quý trong những ngày đầu Xuân Mậu Tý, tôi cảm nghiệm được niềm vui thánh thiện và sự trưởng thành của một cộng đoàn đức tin. Với sự kiện đón rước Đức Mẹ Phatima, cộng đoàn đức tin tại An Quý đã lập nên một kỳ tích về những sự kiện lớn lao được diễn ra tại giáo xứ trong một thời gian rất ngắn. Quả vậy, kể từ ngày được thành lập sau khi chia tách ra khỏi giáo xứ Kẻ Sặt và được nâng lên cấp giáo xứ, ngày 08/10/2006, cho đến nay, giáo xứ non trẻ này đã được đón nhận được nhiều niềm vui và hồng ân. Sau biến cố lịch sử thành lập giáo xứ, một niềm vui lớn lao làm nức lòng giáo dân An Quý ở Quê hương cũng như đang định cư ở miền Nam và Hải ngoại, đó là ngày13.06.2007, giáo xứ An Quý đã khánh thành ngôi thánh đường lớn lao và có giá trị nghệ thuật bậc nhất trong giáo phận Hải Phòng để dâng kính thánh Antôn quan thầy. Vinh dự và cảm động hơn nữa, trong những ngày đầu Xuân năm 2008, niềm vui của mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ được nhân lên gấp bội với sự kiện cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Phatima viếng thăm và chúc lành cho đoàn con Mẹ trong giáo xứ.
Được biết, ngay từ hồi 5 giờ sáng ngày 12.02.2008 (tức ngày 06 Tết), một phái đoàn rất đông đảo gồm đại diện các thành phần trong giáo xứ, nhất là các Hội Tràng Hạt đã rộn ràng lên đường đến Toà Giám mục Hải Phòng để đón rước Thánh Tượng. Đức Giám mục giáo phận và quý Cha đã cùng tháp tùng đoàn rước Đức Mẹ về với giáo xứ An Quý.
Một trạm đón tiếp Thánh Tượng đã được chuẩn bị từ cửa ngõ thị trấn. Hàng ngàn tín hữu, với những khuôn mặt vui tươi và ánh mắt xúc động hoà chung muôn sắc mầu của những bộ áo mới và những nhành hồng trên tay cùng với cờ xí và pháo bông rợp trời... đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đầy ắp niềm vui và hương sắc mùa xuân. Quả vậy, giáo xứ An Quý đã chuẩn bị cho cuộc cung nghinh Thánh Tượng bằng những hình thức đạo đức trang trọng nhất để bày tỏ niềm vui mừng hân hoan của đoàn con từ lâu mong chờ được đón Mẹ dấu yêu về với giáo xứ trong những ngày đầu Xuân mới.
Một đoàn rước trang trọng gồm Đức Giám mục, đông đảo quý Cha và hàng ngàn tín hữu đã đưa Thánh Tượng qua những khu phố buôn bán sầm uất, những khu chợ đông đúc, tiến về ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy. Đi trong cuộc rước, hoà cùng tâm tình sốt mến, với những lời ca tiếng hát ca tụng tôn vinh Mẹ Thiên Chúa của cộng đoàn, tôi cầu xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Phatima ban muôn ơn lành cho giáo phận, giáo xứ An Quý và hết thảy mọi người. Cuộc rước Thánh Tượng rất long trọng và trang nghiêm, mang tâm tình đạo đức, thánh thiện là một bằng chứng sống động của lòng tôn kính yêu mến Đức Mẹ. Hình ảnh của cuộc cung nghinh Thánh Tượng gợi lên trong tôi một tâm tình cảm mến Đức Mẹ cách khác lạ, rất khó diễn tả. Chắc rằng những hình ảnh ấy cũng lưu lại trong tâm hồn các tín hữu tham dự cũng như anh chị em tôn giáo bạn được chứng kiến cuộc cung nghinh này những cảm xúc khó quên.
Bài chia sẻ trong thánh lễ tạ ơn, Đức Giám mục đã gợi lên trong tâm hồn các tín hữu lòng sùng kính, mến yêu Đức Mẹ. Đức Mẹ được tôn vinh như là hình ảnh của Thành Thánh Giêrusalem mới; Mẹ là Mùa Xuân Vĩnh Cửu của Hội Thánh. Các tín hữu được mời gọi hướng về Đức Mẹ với tâm tình: Ngưỡng mộ, tin tưởng, yêu mến và cảm tạ tri ân.
Được biết trong thời gian Thánh Tượng lưu lại tại giáo xứ, hàng ngày, các hội đoàn đạo đức có các giờ với các hình thức cầu nguyện tôn vinh Đức Mẹ. Giáo xứ cũng có chương trình cung nghinh Thánh Tượng đến các giáo họ trực thuộc.
Thánh lễ tạ ơn kết thúc trong tâm tình vui mừng khôn xiết của cộng đoàn giáo xứ. Cùng với mọi người, tôi thầm chúc mừng giáo xứ trong những ngày đầu Xuân đã đón nhận một hồng ân cao cả, một món quà vô giá do Thiên Chúa tặng ban là chính Mẹ Maria. Cùng với cộng đoàn Dân Chúa, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho con cái thánh Antôn tại giáo xứ An Quý biết bao nhiêu hồng ân trong năm qua. Tôi cũng không quên cầu nguyện và chúc cho mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ An Quý luôn biết noi gương bắt chước Mẹ: hằng ngày suy gẫm và sống Lời Chúa như Mẹ để thánh hoá bản thân và xây dựng giáo xứ trở thành một cộng đoàn đức tin sống động.
Hy vọng qua sự kiện đón Đức Mẹ đến viếng thăm giáo xứ trong những ngày đầu năm mới này, mọi người, mọi nhà và tất cả mọi người trong giáo xứ An Quý sẽ được hưởng một năm mới muôn phúc lộc chan hoà.
Đã từ lâu lắm rồi, sau 53 năm, kể từ cuộc thánh du năm 1954, giáo phận Hải Phòng mới lại có dịp sống lại bầu khí đạo đức, hồ hởi, vui mừng của cuộc đón rước Đức Mẹ Phatima, do Đức Giám mục Francisco Gomes rước về từ PHATIMA. Trong những ngày này, giáo phận Hải Phòng đang sống trong một Mùa Xuân mới với một tâm tình và sắc thái đặc biệt - Mùa Xuân bên Mẹ Phatima. Với biến cố đón rước Đức Mẹ Phatima từ miền Nam trở về, giáo phận Hải Phòng đang cùng với Đức Mẹ được thực sự bước vào một Mùa Xuân của Ân sủng. Bởi nhờ biến cố này và qua lời thỉnh cầu của Đức Giám mục, ngày 17. 10. 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã vui lòng ban Ơn Toàn Xá cho giáo phận trong thời gian 5 năm, từ 01/01/2008 đến 31/12/2012.
Chỉ sau giáo xứ Chính toà Hải Phòng, cộng đoàn đức tin giáo xứ An Quý đã được vinh dự đón rước, cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Phatima để lãnh nhận Ơn Toàn Xá do Đức Giáo Hoàng ban.
Về với giáo xứ An Quý trong những ngày đầu Xuân Mậu Tý, tôi cảm nghiệm được niềm vui thánh thiện và sự trưởng thành của một cộng đoàn đức tin. Với sự kiện đón rước Đức Mẹ Phatima, cộng đoàn đức tin tại An Quý đã lập nên một kỳ tích về những sự kiện lớn lao được diễn ra tại giáo xứ trong một thời gian rất ngắn. Quả vậy, kể từ ngày được thành lập sau khi chia tách ra khỏi giáo xứ Kẻ Sặt và được nâng lên cấp giáo xứ, ngày 08/10/2006, cho đến nay, giáo xứ non trẻ này đã được đón nhận được nhiều niềm vui và hồng ân. Sau biến cố lịch sử thành lập giáo xứ, một niềm vui lớn lao làm nức lòng giáo dân An Quý ở Quê hương cũng như đang định cư ở miền Nam và Hải ngoại, đó là ngày13.06.2007, giáo xứ An Quý đã khánh thành ngôi thánh đường lớn lao và có giá trị nghệ thuật bậc nhất trong giáo phận Hải Phòng để dâng kính thánh Antôn quan thầy. Vinh dự và cảm động hơn nữa, trong những ngày đầu Xuân năm 2008, niềm vui của mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ được nhân lên gấp bội với sự kiện cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Phatima viếng thăm và chúc lành cho đoàn con Mẹ trong giáo xứ.
Được biết, ngay từ hồi 5 giờ sáng ngày 12.02.2008 (tức ngày 06 Tết), một phái đoàn rất đông đảo gồm đại diện các thành phần trong giáo xứ, nhất là các Hội Tràng Hạt đã rộn ràng lên đường đến Toà Giám mục Hải Phòng để đón rước Thánh Tượng. Đức Giám mục giáo phận và quý Cha đã cùng tháp tùng đoàn rước Đức Mẹ về với giáo xứ An Quý.
Một trạm đón tiếp Thánh Tượng đã được chuẩn bị từ cửa ngõ thị trấn. Hàng ngàn tín hữu, với những khuôn mặt vui tươi và ánh mắt xúc động hoà chung muôn sắc mầu của những bộ áo mới và những nhành hồng trên tay cùng với cờ xí và pháo bông rợp trời... đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đầy ắp niềm vui và hương sắc mùa xuân. Quả vậy, giáo xứ An Quý đã chuẩn bị cho cuộc cung nghinh Thánh Tượng bằng những hình thức đạo đức trang trọng nhất để bày tỏ niềm vui mừng hân hoan của đoàn con từ lâu mong chờ được đón Mẹ dấu yêu về với giáo xứ trong những ngày đầu Xuân mới.
Một đoàn rước trang trọng gồm Đức Giám mục, đông đảo quý Cha và hàng ngàn tín hữu đã đưa Thánh Tượng qua những khu phố buôn bán sầm uất, những khu chợ đông đúc, tiến về ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy. Đi trong cuộc rước, hoà cùng tâm tình sốt mến, với những lời ca tiếng hát ca tụng tôn vinh Mẹ Thiên Chúa của cộng đoàn, tôi cầu xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Phatima ban muôn ơn lành cho giáo phận, giáo xứ An Quý và hết thảy mọi người. Cuộc rước Thánh Tượng rất long trọng và trang nghiêm, mang tâm tình đạo đức, thánh thiện là một bằng chứng sống động của lòng tôn kính yêu mến Đức Mẹ. Hình ảnh của cuộc cung nghinh Thánh Tượng gợi lên trong tôi một tâm tình cảm mến Đức Mẹ cách khác lạ, rất khó diễn tả. Chắc rằng những hình ảnh ấy cũng lưu lại trong tâm hồn các tín hữu tham dự cũng như anh chị em tôn giáo bạn được chứng kiến cuộc cung nghinh này những cảm xúc khó quên.
Bài chia sẻ trong thánh lễ tạ ơn, Đức Giám mục đã gợi lên trong tâm hồn các tín hữu lòng sùng kính, mến yêu Đức Mẹ. Đức Mẹ được tôn vinh như là hình ảnh của Thành Thánh Giêrusalem mới; Mẹ là Mùa Xuân Vĩnh Cửu của Hội Thánh. Các tín hữu được mời gọi hướng về Đức Mẹ với tâm tình: Ngưỡng mộ, tin tưởng, yêu mến và cảm tạ tri ân.
Được biết trong thời gian Thánh Tượng lưu lại tại giáo xứ, hàng ngày, các hội đoàn đạo đức có các giờ với các hình thức cầu nguyện tôn vinh Đức Mẹ. Giáo xứ cũng có chương trình cung nghinh Thánh Tượng đến các giáo họ trực thuộc.
Thánh lễ tạ ơn kết thúc trong tâm tình vui mừng khôn xiết của cộng đoàn giáo xứ. Cùng với mọi người, tôi thầm chúc mừng giáo xứ trong những ngày đầu Xuân đã đón nhận một hồng ân cao cả, một món quà vô giá do Thiên Chúa tặng ban là chính Mẹ Maria. Cùng với cộng đoàn Dân Chúa, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho con cái thánh Antôn tại giáo xứ An Quý biết bao nhiêu hồng ân trong năm qua. Tôi cũng không quên cầu nguyện và chúc cho mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ An Quý luôn biết noi gương bắt chước Mẹ: hằng ngày suy gẫm và sống Lời Chúa như Mẹ để thánh hoá bản thân và xây dựng giáo xứ trở thành một cộng đoàn đức tin sống động.
Hy vọng qua sự kiện đón Đức Mẹ đến viếng thăm giáo xứ trong những ngày đầu năm mới này, mọi người, mọi nhà và tất cả mọi người trong giáo xứ An Quý sẽ được hưởng một năm mới muôn phúc lộc chan hoà.
Tuần mục vụ của chủng sinh Đại chủng viện Thánh Giuse Hà nội
Gioan Đình Sơn
19:18 17/02/2008
HÀ NỘI -- Sau hai tuần nghỉ Tết Nguyên Đán (từ 01/02 đến 14/02/2008), tất cả Chủng sinh của Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà nội đã trở lại trường để tiếp tục “dùi mài kinh sử”. Bất chấp cái giá lạnh cắt da cắt thịt của đợt rét đậm kéo dài, sáng ngày 17/02/2008 anh em chủng sinh đã lên đường đi mục vụ, từng nhóm hăng say đến những nơi được phân công công tác. Nhân dịp này, tôi lần theo các thầy trở lại những ngôi nhà, những người thân trong dịp đầu Xuân mới này.
Đúng 8 giờ 30, tôi cùng nhóm anh em được cử đến mục vụ tại Làng trẻ em SOS Hà nội. Tọa lạc ở ngõ 1- Mai Dịch- Cầu giấy, nơi nuôi dạy các trẻ mồ côi và bán mồ côi, các em không nơi nương tựa…. Hiện tại Làng có gần 160 em tuổi đời từ 5- 16, chia thành 16 nhà, mỗi nhà đều được mang tên các loài hoa như: Cúc vạn thọ, hoa thược dược, hoa mơ, hoa cẩm chướng…
Nhìn thấy dáng bóng các thầy, tụi nhỏ trong làng ùa ra đón mừng. Đúng là cảnh người thân lâu ngày gặp lại. Thân mật và cởi mở, vui vẻ và trẻ trung vẫn là hướng sống của các thầy tại những nơi mục vụ. Với những lời chúc tụng ngọt ngào của ngày đầu xuân, chúc cho năm mới được Khang an- Thịch vượng, các thầy còn chúc các em thêm tuổi thêm xinh tươi và ngoan giỏi…
Tôi sánh bước cùng hai thầy tiến vào nhà hoa cẩm chướng, một ngôi nhà nằm giữa Làng, đẹp và ấm cúng. Tên của ngôi nhà cũng đẹp như y nghĩa của loài hoa vậy: “tượng trưng cho tình bạn, lòng quí mến, tình yêu trong trắng và thanh cao” (http://www.golgift.com/ynghiacacloaihoa.asp). Vừa tới, tôi được mọi người vui vẻ tiếp đón. Mẹ Ngô Thị Bích, 57 tuổi, quê ở Hà Tây là chủ ngôi nhà này cho biết: “…gia đình coi các anh là người nhà từ khi các anh đồng hành vào mỗi sáng Chúa nhật, vì vậy thời gian các anh về quê ăn tết chúng tôi cảm thấy nhớ nhớ, và hôm nay thật vui khi lại thấy các anh trở lại, mạnh khỏe tâm hồn lẫn thể xác…”. Qua buổi nói chuyện với mẹ Bích tôi đã thấy được tình cảm của mọi người trong Làng quí mến và tin tưởng các thầy thế nào, thật tuyệt vời!
Rời Làng trẻ em SOS thân yêu tôi vội đến giáo xứ Hàm Long, một giáo xứ có tiếng về nề nếp xưa nay. Vừa đến nơi tôi đã thấy hình ảnh những lớp học giáo lí đang vui vẻ bởi sự hăng say của thầy và trò. Các thầy đang mải miết với các em trong những trò chơi đầy y nghĩa, thật là “học mà chơi- chơi mà học”. Với tinh thần “phục vụ trong yêu thương” các thầy đã tạo được sự tin tưởng nơi cha xứ và những em nhỏ trong giáo xứ. Dù biết niềm vui còn kéo dài, và cũng biết còn nhiều điểm mục vụ giáo xứ khác đang tưng bừng trong niềm vui chào xuân mới như: Cổ Nhuế, Phùng Khoang… nhưng tôi buộc phải chia tay với mọi người để kịp về lại với gia đình Đại chủng viện.
Thật tiếc, vì thời gian không nhiều nên tôi không đến được hết các điểm mục vụ, song thiết nghĩ hôm nay sẽ là một ngày đầy ý nghĩa: khởi điểm tốt đẹp cho một năm mục vụ và học tập của tất cả các chủng sinh Đại chủng viện.
Thay lời kết, xin mượn mấy vần thơ để cùng chúc moị người nhân dịp đầu Xuân Mậu Tí 2008.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Anh em chúng ta được sum vầy
Vài lời cung chúc Tân Niên Mới
Vạn sự An Khang- vạn sự lành.
Đúng 8 giờ 30, tôi cùng nhóm anh em được cử đến mục vụ tại Làng trẻ em SOS Hà nội. Tọa lạc ở ngõ 1- Mai Dịch- Cầu giấy, nơi nuôi dạy các trẻ mồ côi và bán mồ côi, các em không nơi nương tựa…. Hiện tại Làng có gần 160 em tuổi đời từ 5- 16, chia thành 16 nhà, mỗi nhà đều được mang tên các loài hoa như: Cúc vạn thọ, hoa thược dược, hoa mơ, hoa cẩm chướng…
Nhìn thấy dáng bóng các thầy, tụi nhỏ trong làng ùa ra đón mừng. Đúng là cảnh người thân lâu ngày gặp lại. Thân mật và cởi mở, vui vẻ và trẻ trung vẫn là hướng sống của các thầy tại những nơi mục vụ. Với những lời chúc tụng ngọt ngào của ngày đầu xuân, chúc cho năm mới được Khang an- Thịch vượng, các thầy còn chúc các em thêm tuổi thêm xinh tươi và ngoan giỏi…
Tôi sánh bước cùng hai thầy tiến vào nhà hoa cẩm chướng, một ngôi nhà nằm giữa Làng, đẹp và ấm cúng. Tên của ngôi nhà cũng đẹp như y nghĩa của loài hoa vậy: “tượng trưng cho tình bạn, lòng quí mến, tình yêu trong trắng và thanh cao” (http://www.golgift.com/ynghiacacloaihoa.asp). Vừa tới, tôi được mọi người vui vẻ tiếp đón. Mẹ Ngô Thị Bích, 57 tuổi, quê ở Hà Tây là chủ ngôi nhà này cho biết: “…gia đình coi các anh là người nhà từ khi các anh đồng hành vào mỗi sáng Chúa nhật, vì vậy thời gian các anh về quê ăn tết chúng tôi cảm thấy nhớ nhớ, và hôm nay thật vui khi lại thấy các anh trở lại, mạnh khỏe tâm hồn lẫn thể xác…”. Qua buổi nói chuyện với mẹ Bích tôi đã thấy được tình cảm của mọi người trong Làng quí mến và tin tưởng các thầy thế nào, thật tuyệt vời!
Rời Làng trẻ em SOS thân yêu tôi vội đến giáo xứ Hàm Long, một giáo xứ có tiếng về nề nếp xưa nay. Vừa đến nơi tôi đã thấy hình ảnh những lớp học giáo lí đang vui vẻ bởi sự hăng say của thầy và trò. Các thầy đang mải miết với các em trong những trò chơi đầy y nghĩa, thật là “học mà chơi- chơi mà học”. Với tinh thần “phục vụ trong yêu thương” các thầy đã tạo được sự tin tưởng nơi cha xứ và những em nhỏ trong giáo xứ. Dù biết niềm vui còn kéo dài, và cũng biết còn nhiều điểm mục vụ giáo xứ khác đang tưng bừng trong niềm vui chào xuân mới như: Cổ Nhuế, Phùng Khoang… nhưng tôi buộc phải chia tay với mọi người để kịp về lại với gia đình Đại chủng viện.
Thật tiếc, vì thời gian không nhiều nên tôi không đến được hết các điểm mục vụ, song thiết nghĩ hôm nay sẽ là một ngày đầy ý nghĩa: khởi điểm tốt đẹp cho một năm mục vụ và học tập của tất cả các chủng sinh Đại chủng viện.
Thay lời kết, xin mượn mấy vần thơ để cùng chúc moị người nhân dịp đầu Xuân Mậu Tí 2008.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Anh em chúng ta được sum vầy
Vài lời cung chúc Tân Niên Mới
Vạn sự An Khang- vạn sự lành.
Đầu năm thăm cha xứ cao niên nhất GP Vinh
GP. Vinh
22:27 17/02/2008
Đầu năm, thăm cha xứ cao niên nhất thế giới
Theo những tài liệu và niên giám về hiện tình các giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo hoàn vũ mà chúng tôi biết được, hiện nay số lượng các linh mục trên 90 tuổi không ít, có một điều chắc chắn là với tuổi tác lão thành đó, các ngài đã phải hưu dưỡng từ lâu.
Nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ, với cha già Antôn Bùi Đức Duyệt (94 tuổi đời, 66 tuổi linh mục, cha xứ đương nhiệm của giáo xứ Phú Yên, Giáo phận Vinh), thời gian dường như ngưng đọng và không còn có sức tác động nữa… Chắc chắn ngài không phải là linh mục có tuổi đời hay tuổi linh mục cao nhất, nhưng trong hàng ngũ các cha xứ đương nhiệm, chắc không có ai vượt qua được cha xứ 94 tuổi này.
Theo truyền thống dân tộc, đầu năm mới - xuân Mậu Tý, chúng tôi đã đến chúc tuổi và thăm hỏi vị cha già đáng kính.
Cha Antôn sinh ngày 10.12.1914, tại xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Công giáo đạo đức. Tuy nhiên, mới lên 08 tháng tuổi bé Antôn Duyệt đã mồ côi cha mẹ. Dầu vậy, nhờ vào sự giáo dục của bà nội đã 80 tuổi và nhờ ảnh hưởng đời sống đức tin của xứ đạo Song Ngọc, một vùng đất đón nhận đức tin ngay từ những năm đầu của thế kỷ XVII, cậu đã có một lòng tin yên sâu sắc vào Chúa và hằng ước mong được dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục. Thấy cậu Duyệt ngoan hiền, đạo đức, cha già Diệu đã nhận nuôi cậu ăn học. Với sự thông minh và chăm chỉ, cậu đã có sự tiến bộ trong việc học rất nhanh. Sau khi hết chương trình Tiểu Chủng Viện và 3 năm kẻ giảng, thầy Duyệt được vào Đại Chủng Viện. Mãn kỳ chương trình chủng viện thầy được lãnh nhận tác vụ linh mục vào ngày 18.12.1942.
Với tinh thần hăng say của một linh mục trẻ, cha Antôn được bề trên bổ nhiệm về làm quản xứ Quy Hậu, hạt Bảo Nham, thuộc xã Kỳ Sơn, huyện Tân Kỳ, nằm ở cực tây của giáo phận trong tỉnh Nghệ An, từ 1943 - 1949. Có thể nói, những tháng năm ở đây là thao trường cho đời linh mục của cha. Cảnh rừng thiêng nước độc, đường sá đèo dốc hiểm trở, túng thiếu đủ mọi bề, nhưng cha vẫn luôn vui vẻ và chu toàn bổn phận của một mục tử.
Sau đó cha được chuyển về làm quản xứ Sơn La, hạt Bột Đà, thuộc xã Xuân Sơn, huyện Đô Lương, từ 1949-1973. Tuy là được chuyển về nơi đỡ khó khăn hơn về địa hình nhưng vẫn thuộc vùng đồi núi và gặp phải giai đoạn có nhiều biến động của thời cuộc, nên khó khăn không được vơi đi mà còn như tăng lên nhiều hơn.
Nhưng với sự tin tưởng không việc gì xảy ra ngoài ý Chúa và Thiên Chúa có thể rút ra điều lành từ những sự tiêu cực, nên cha vẫn cảm thấy bình an và tận tình với công việc của một linh mục quản xứ.
Trải qua gần 30 năm trong chức vụ linh mục dưới sự khó khăn về địa lý, kinh tế và lịch sử, cha như đã chín mùi trong kinh nghiệm chăn dắt các linh hồn.Vì thế, cha đã được bổ nhiệm về làm quản xứ và quản hạt Bột Đà, ở xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, từ 1973-1995, để không chỉ lo công việc quản xứ của mình, mà còn để hỗi trợ cho các linh mục khác trong giáo hạt. Và do giáo phận thiếu linh mục, nên cha vẫn còn phải kiêm cả xứ Sơn La nơi mà cha đã làm quản xứ 24 năm qua.
Hơn 50 năm sống với các tín hữu ở vùng đồi núi, lẽ ra cha được nghỉ hưu. Nhưng vì cha vẫn khỏe mạnh và minh mẫn nên bề trên tiếp tục cử ngài đi quản xứ. Như để thay đổi môi trường cho cha, lần này ngài được chuyển về giáo xứ Phú Yên (Tân Yên), hạt Thuận Nghĩa ở vùng duyên hải của huyện Quỳnh Lưu, bên cạnh quê hương của ngài.
Tưởng chừng ở tuổi 81 khi chuyển về quản xứ Phú Yên là để cho ngài dưỡng sức nghỉ hưu. Nhưng không phải thế. Cho đến nay, tức là 14 năm sau, khi đã 94 tuổi, ngài vẫn còn đủ khỏe mạnh, minh mẫn để phục vụ cách tốt đẹp và hiệu quả cho một giáo xứ với khoảng 1.000 giáo dân. Bằng chứng cho điều này là, từ khi cha già về đây, ngoài việc củng cố đời sống đức tin của giáo xứ, các hội đoàn liên quan đến phụng vụ, cha còn thành lập hội Hành Khất Đức Kitô để quy tụ các bạn trẻ lại và hướng dẫn họ làm những công việc từ thiện xã hội như: thu dọn vệ sinh trong giáo xứ, xóm làng, giúp đỡ những gia đình khó khăn, các bệnh nhân, người già cả neo đơn…; hội Thánh Tâm để hằng ngày nguyện cầu lòng thương xót của Chúa; và nhất là, cha quan tâm đặc biệt đến các giáo lý viên và việc học tập giáo lý. Trong bảy năm trở lại đây, các giáo hạt trong giáo phận tổ chức thi giáo lý giữa các xứ với nhau, thì giáo xứ của cha đã 4 lần dành giải quán quân của hạt Thuận Nghĩa, một giáo hạt có số tín hữu đông nhất giáo phận, cũng như đã góp phần trong việc đưa giáo hạt nhà hai lần đạt giải nhất về giáo lý ở cấp giáo phận.
Thấy cha ở độ tuổi bước sang 95 mà vẫn mạnh mẽ, tinh anh, chúng tôi hỏi cha về bí quyết để đạt được điều đó. Cha cười khẽ và nói thật đơn sơ: “Nhờ Chúa và cứ chịu khó”. Tôi xin cha nói rõ hơn. Cha nói: “Có gì ngoài Chúa đâu. Chúa cho khỏe thì mới được, và cứ chịu khó. Nếu gặp khó khăn thì cũng vui vẻ mà đón nhận, sau đó cố gắng giải quyết, phần còn lại hãy phó dâng cho Chúa. Trong ăn uống thì chừng mực, đạm bạc, phù hợp với thiên nhiên, và ngủ nghỉ cũng thế. Đừng để lòng tức giận người khác hay bực bội với con chiên. Nếu họ có thế này thế kia, thì cứ kiên nhẫn. Nếu họ hiểu hay có điều kiện khác thì họ đã không hành xử theo cách mà mình thấy không phải. Ngay cả chuyện thời thế cũng vậy. Cứ đón nhận nó như chính nó, rồi sau đó tùy tình cảnh mà hành động. Điều quan trọng là giữ cho tâm hồn luôn được bình an trong Chúa và kiên trì trong cầu nguyện.”
Quả là một con người chịu khó và khắc khổ. Sau khi nói chuyện với cha già, tôi được chú con tinh thần của cha dẫn vào xem phòng của ngài. Có thể nói, chưa bao giờ tôi ngạc hiên như thế. Nơi ngủ của một linh mục 95 tuổi giữa mùa đông giá lạnh này là hai miếng ván nhỏ ghép lại với nhau dưới một cái chiếu và hai cái chăn mỏng. Đồ đạc cũng chẳng có gì ngoài cái bàn làm việc, giá sách và mấy cái rương chữ thọ - thứ đựng đồ mà xưa kia Nhà Chung phát cho các linh mục trước khi đi coi xứ. Rồi nơi góc phòng, chỗ treo quần áo, tôi thấy có mấy bộ quần áo, không phải là đã rách, nhưng phải nói là đã rất cũ.
Thấy chỗ nằm và quần áo của cha như thế, tôi mới nói với chú ấy, là sao không thay giường nệm và may quần áo cho cha? Chú trả lời: “Mình cũng muốn, và đã nhiều lần xin ngài cho phép để thay nệm, chăn mà ngài không cho. Ngài nói: ‘Sợ nằm rộng rãi, êm ấm quen đi rồi khi gặp chật chội, thiếu thốn lại cảm thấy khó chịu, bực bội’. Còn về quần áo đâu có thiếu. Giáo dân con cháu biếu hoài đi chứ. Nhưng ngài cứ cho người khác không à. Ngài không chịu mặc đồ mới.”
Tôi còn được chú kể nhiều chuyện về cha già. Nhưng có một chuyện liên quan đến đời sống cầu nguyện gần đây mà tôi thấy rất đơn sơ và chân thành nên muốn được kể lại. Chuyện là trước tuần chầu lượt của xứ cha vào ngày 03.02 vừa rồi, cha nói với chú là cha phải cầu nguyện ba điều: ổn định tình hình tại Hà Nội, các tín hữu trong xứ đi lãnh nhận bí tích Giao Hòa đông đủ và xin cho trời khô ráo để tuần chầu Thánh Thể diễn ra được tốt đẹp. Ngày thứ 6 ngày khai mạc tuần chầu, đúng là trời không còn mưa nữa. Nhưng sáng hôm sau trời lại đổ mưa. Chú đó mới đùa cha: “Chắc là tối qua cha không cầu nguyện tiếp chứ gì!?” Cha trả lời: “Thì cứ tưởng trời ráo thế là được rồi!”. Và có lẽ tối hôm đó cha đã thưa chuyện lại lâu hơn với Chúa, nên sáng Chúa nhật trời khô ráo, ấm áp hẳn lên!
Chuyện về đời cha không phải “mèo khen mèo dài đuôi, hay mẹ hát con khen hay”, mà người ngoài cũng nhận ra điều đó. Trong khi đi dạo quanh nhà thờ, tôi hỏi một ông trong xứ về cha già. Ông trả lời ngay: “Chịu khó và đạo đức thì có lẽ khó ai theo nổi cha già! Không đòi hỏi, không yêu sách. Tuy tuổi đã rất cao nhưng không quá khoảng cách với thế hệ trẻ; giáo dân dễ gần gũi”.
94 tuổi đời và 66 năm linh mục hẳn là còn rất nhiều chuyện về cuộc đời của cha. Nhưng vì thấy cha không muốn nói nhiều về mình nên chúng tôi cũng không dám quấy động tâm hồn an tĩnh của cha thêm nữa.
Sau khi chúc tuổi và chia tay, trên đường về nhà, tôi nhớ đến lời Thánh vịnh 92, 12-15 như nói về cha:
“Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li-băng
được trồng nơi nhà Chúa,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta;
già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”.
Cầu mong cho cha già Antôn tiếp tục khỏe mạnh và sống lâu, để cha không chỉ giữ kỷ lục “cha xứ” già nhất mà còn là “linh mục” cao tuổi nhất trong Giáo Hội. Và khi đó, cây cổ thụ sẽ càng tỏa bóng sum sê che mát cho lữ khách, cũng như nhiều cánh hoa lan sẽ mọc lên từ đó để tô đẹp cho cuộc đời
Theo những tài liệu và niên giám về hiện tình các giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo hoàn vũ mà chúng tôi biết được, hiện nay số lượng các linh mục trên 90 tuổi không ít, có một điều chắc chắn là với tuổi tác lão thành đó, các ngài đã phải hưu dưỡng từ lâu.
Nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ, với cha già Antôn Bùi Đức Duyệt (94 tuổi đời, 66 tuổi linh mục, cha xứ đương nhiệm của giáo xứ Phú Yên, Giáo phận Vinh), thời gian dường như ngưng đọng và không còn có sức tác động nữa… Chắc chắn ngài không phải là linh mục có tuổi đời hay tuổi linh mục cao nhất, nhưng trong hàng ngũ các cha xứ đương nhiệm, chắc không có ai vượt qua được cha xứ 94 tuổi này.
Theo truyền thống dân tộc, đầu năm mới - xuân Mậu Tý, chúng tôi đã đến chúc tuổi và thăm hỏi vị cha già đáng kính.
Cha Antôn sinh ngày 10.12.1914, tại xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Công giáo đạo đức. Tuy nhiên, mới lên 08 tháng tuổi bé Antôn Duyệt đã mồ côi cha mẹ. Dầu vậy, nhờ vào sự giáo dục của bà nội đã 80 tuổi và nhờ ảnh hưởng đời sống đức tin của xứ đạo Song Ngọc, một vùng đất đón nhận đức tin ngay từ những năm đầu của thế kỷ XVII, cậu đã có một lòng tin yên sâu sắc vào Chúa và hằng ước mong được dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục. Thấy cậu Duyệt ngoan hiền, đạo đức, cha già Diệu đã nhận nuôi cậu ăn học. Với sự thông minh và chăm chỉ, cậu đã có sự tiến bộ trong việc học rất nhanh. Sau khi hết chương trình Tiểu Chủng Viện và 3 năm kẻ giảng, thầy Duyệt được vào Đại Chủng Viện. Mãn kỳ chương trình chủng viện thầy được lãnh nhận tác vụ linh mục vào ngày 18.12.1942.
Với tinh thần hăng say của một linh mục trẻ, cha Antôn được bề trên bổ nhiệm về làm quản xứ Quy Hậu, hạt Bảo Nham, thuộc xã Kỳ Sơn, huyện Tân Kỳ, nằm ở cực tây của giáo phận trong tỉnh Nghệ An, từ 1943 - 1949. Có thể nói, những tháng năm ở đây là thao trường cho đời linh mục của cha. Cảnh rừng thiêng nước độc, đường sá đèo dốc hiểm trở, túng thiếu đủ mọi bề, nhưng cha vẫn luôn vui vẻ và chu toàn bổn phận của một mục tử.
Sau đó cha được chuyển về làm quản xứ Sơn La, hạt Bột Đà, thuộc xã Xuân Sơn, huyện Đô Lương, từ 1949-1973. Tuy là được chuyển về nơi đỡ khó khăn hơn về địa hình nhưng vẫn thuộc vùng đồi núi và gặp phải giai đoạn có nhiều biến động của thời cuộc, nên khó khăn không được vơi đi mà còn như tăng lên nhiều hơn.
Nhưng với sự tin tưởng không việc gì xảy ra ngoài ý Chúa và Thiên Chúa có thể rút ra điều lành từ những sự tiêu cực, nên cha vẫn cảm thấy bình an và tận tình với công việc của một linh mục quản xứ.
Trải qua gần 30 năm trong chức vụ linh mục dưới sự khó khăn về địa lý, kinh tế và lịch sử, cha như đã chín mùi trong kinh nghiệm chăn dắt các linh hồn.Vì thế, cha đã được bổ nhiệm về làm quản xứ và quản hạt Bột Đà, ở xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, từ 1973-1995, để không chỉ lo công việc quản xứ của mình, mà còn để hỗi trợ cho các linh mục khác trong giáo hạt. Và do giáo phận thiếu linh mục, nên cha vẫn còn phải kiêm cả xứ Sơn La nơi mà cha đã làm quản xứ 24 năm qua.
Hơn 50 năm sống với các tín hữu ở vùng đồi núi, lẽ ra cha được nghỉ hưu. Nhưng vì cha vẫn khỏe mạnh và minh mẫn nên bề trên tiếp tục cử ngài đi quản xứ. Như để thay đổi môi trường cho cha, lần này ngài được chuyển về giáo xứ Phú Yên (Tân Yên), hạt Thuận Nghĩa ở vùng duyên hải của huyện Quỳnh Lưu, bên cạnh quê hương của ngài.
Tưởng chừng ở tuổi 81 khi chuyển về quản xứ Phú Yên là để cho ngài dưỡng sức nghỉ hưu. Nhưng không phải thế. Cho đến nay, tức là 14 năm sau, khi đã 94 tuổi, ngài vẫn còn đủ khỏe mạnh, minh mẫn để phục vụ cách tốt đẹp và hiệu quả cho một giáo xứ với khoảng 1.000 giáo dân. Bằng chứng cho điều này là, từ khi cha già về đây, ngoài việc củng cố đời sống đức tin của giáo xứ, các hội đoàn liên quan đến phụng vụ, cha còn thành lập hội Hành Khất Đức Kitô để quy tụ các bạn trẻ lại và hướng dẫn họ làm những công việc từ thiện xã hội như: thu dọn vệ sinh trong giáo xứ, xóm làng, giúp đỡ những gia đình khó khăn, các bệnh nhân, người già cả neo đơn…; hội Thánh Tâm để hằng ngày nguyện cầu lòng thương xót của Chúa; và nhất là, cha quan tâm đặc biệt đến các giáo lý viên và việc học tập giáo lý. Trong bảy năm trở lại đây, các giáo hạt trong giáo phận tổ chức thi giáo lý giữa các xứ với nhau, thì giáo xứ của cha đã 4 lần dành giải quán quân của hạt Thuận Nghĩa, một giáo hạt có số tín hữu đông nhất giáo phận, cũng như đã góp phần trong việc đưa giáo hạt nhà hai lần đạt giải nhất về giáo lý ở cấp giáo phận.
Thấy cha ở độ tuổi bước sang 95 mà vẫn mạnh mẽ, tinh anh, chúng tôi hỏi cha về bí quyết để đạt được điều đó. Cha cười khẽ và nói thật đơn sơ: “Nhờ Chúa và cứ chịu khó”. Tôi xin cha nói rõ hơn. Cha nói: “Có gì ngoài Chúa đâu. Chúa cho khỏe thì mới được, và cứ chịu khó. Nếu gặp khó khăn thì cũng vui vẻ mà đón nhận, sau đó cố gắng giải quyết, phần còn lại hãy phó dâng cho Chúa. Trong ăn uống thì chừng mực, đạm bạc, phù hợp với thiên nhiên, và ngủ nghỉ cũng thế. Đừng để lòng tức giận người khác hay bực bội với con chiên. Nếu họ có thế này thế kia, thì cứ kiên nhẫn. Nếu họ hiểu hay có điều kiện khác thì họ đã không hành xử theo cách mà mình thấy không phải. Ngay cả chuyện thời thế cũng vậy. Cứ đón nhận nó như chính nó, rồi sau đó tùy tình cảnh mà hành động. Điều quan trọng là giữ cho tâm hồn luôn được bình an trong Chúa và kiên trì trong cầu nguyện.”
Quả là một con người chịu khó và khắc khổ. Sau khi nói chuyện với cha già, tôi được chú con tinh thần của cha dẫn vào xem phòng của ngài. Có thể nói, chưa bao giờ tôi ngạc hiên như thế. Nơi ngủ của một linh mục 95 tuổi giữa mùa đông giá lạnh này là hai miếng ván nhỏ ghép lại với nhau dưới một cái chiếu và hai cái chăn mỏng. Đồ đạc cũng chẳng có gì ngoài cái bàn làm việc, giá sách và mấy cái rương chữ thọ - thứ đựng đồ mà xưa kia Nhà Chung phát cho các linh mục trước khi đi coi xứ. Rồi nơi góc phòng, chỗ treo quần áo, tôi thấy có mấy bộ quần áo, không phải là đã rách, nhưng phải nói là đã rất cũ.
Thấy chỗ nằm và quần áo của cha như thế, tôi mới nói với chú ấy, là sao không thay giường nệm và may quần áo cho cha? Chú trả lời: “Mình cũng muốn, và đã nhiều lần xin ngài cho phép để thay nệm, chăn mà ngài không cho. Ngài nói: ‘Sợ nằm rộng rãi, êm ấm quen đi rồi khi gặp chật chội, thiếu thốn lại cảm thấy khó chịu, bực bội’. Còn về quần áo đâu có thiếu. Giáo dân con cháu biếu hoài đi chứ. Nhưng ngài cứ cho người khác không à. Ngài không chịu mặc đồ mới.”
Tôi còn được chú kể nhiều chuyện về cha già. Nhưng có một chuyện liên quan đến đời sống cầu nguyện gần đây mà tôi thấy rất đơn sơ và chân thành nên muốn được kể lại. Chuyện là trước tuần chầu lượt của xứ cha vào ngày 03.02 vừa rồi, cha nói với chú là cha phải cầu nguyện ba điều: ổn định tình hình tại Hà Nội, các tín hữu trong xứ đi lãnh nhận bí tích Giao Hòa đông đủ và xin cho trời khô ráo để tuần chầu Thánh Thể diễn ra được tốt đẹp. Ngày thứ 6 ngày khai mạc tuần chầu, đúng là trời không còn mưa nữa. Nhưng sáng hôm sau trời lại đổ mưa. Chú đó mới đùa cha: “Chắc là tối qua cha không cầu nguyện tiếp chứ gì!?” Cha trả lời: “Thì cứ tưởng trời ráo thế là được rồi!”. Và có lẽ tối hôm đó cha đã thưa chuyện lại lâu hơn với Chúa, nên sáng Chúa nhật trời khô ráo, ấm áp hẳn lên!
Chuyện về đời cha không phải “mèo khen mèo dài đuôi, hay mẹ hát con khen hay”, mà người ngoài cũng nhận ra điều đó. Trong khi đi dạo quanh nhà thờ, tôi hỏi một ông trong xứ về cha già. Ông trả lời ngay: “Chịu khó và đạo đức thì có lẽ khó ai theo nổi cha già! Không đòi hỏi, không yêu sách. Tuy tuổi đã rất cao nhưng không quá khoảng cách với thế hệ trẻ; giáo dân dễ gần gũi”.
94 tuổi đời và 66 năm linh mục hẳn là còn rất nhiều chuyện về cuộc đời của cha. Nhưng vì thấy cha không muốn nói nhiều về mình nên chúng tôi cũng không dám quấy động tâm hồn an tĩnh của cha thêm nữa.
Sau khi chúc tuổi và chia tay, trên đường về nhà, tôi nhớ đến lời Thánh vịnh 92, 12-15 như nói về cha:
“Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li-băng
được trồng nơi nhà Chúa,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta;
già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”.
Cầu mong cho cha già Antôn tiếp tục khỏe mạnh và sống lâu, để cha không chỉ giữ kỷ lục “cha xứ” già nhất mà còn là “linh mục” cao tuổi nhất trong Giáo Hội. Và khi đó, cây cổ thụ sẽ càng tỏa bóng sum sê che mát cho lữ khách, cũng như nhiều cánh hoa lan sẽ mọc lên từ đó để tô đẹp cho cuộc đời
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hãy tiếp tục giữ vững ngọn lửa đã được thắp lên
Quốc Bình
02:26 17/02/2008
Hãy tiếp tục giữ vững ngọn lửa đã được thắp lên
Những diễn biến trong thời gian vừa qua tại Toà Khâm Sứ cho chúng ta một bài học cụ thể về sức mạnh của sự hiệp nhất trong cầu nguyện và trong hành động. Trong lá thư đề ngày 1 Tháng 2 năm 2008, Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đã ca ngợi tinh thần hiệp thông cầu nguyện này. Nhờ đó đã có hướng giải quyết cho vụ Toà Khâm Sứ một cách khả quan.
Ngoài những lợi thế trong các dịp lễ lớn liên tục diễn ra tại Nhà thờ thánh Giuse Hà Nội như: đêm thánh ca mững kỷ niệm nhạc sĩ Kim Long, thánh lễ truyền chức linh mục cho 18 phó tế, dịp mừng lễ Giáng sinh, lễ thượng thọ của Đức Hồng Y Phao lô Giuse Phạm Đình Tụng, còn phải kể đến sự hiệp thông chặt chẽ giữa các chi thể của Giáo Hội Việt Nam. Trong đó, một dấu hiệu đáng mừng là sự trưởng thành của tất cả các chi thể này. Để rồi tạo nên một sức mạnh kỳ diệu có thể dời núi chuyển sông. Các chi thể của Giáo Hội đó nằm dọc theo chiều dài của đất nước Việt Nam yêu dấu: từ Bắc qua Trung tới Nam và xuyên Đại Dương cho tới tận các Châu lục khác trên toàn thế giới, tại đó các cộng đoàn Việt Nam hải ngoại tuy bé nhỏ nhưng tràn trề sức sống và kết dính chặt chẽ với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.
Cứ nhìn vào những biến cố đau thương mà Giáo Hội ấy liên tiếp phải chịu trong suốt dòng lịch sử thì những thành quả ngày hôm nay thật là xứng đáng. Thật vậy, ngay từ thuở bình minh, Giáo Hội Việt nam đã chịu sự bách hại thật khốc liệt. Hàng trăm ngàn Kitô hữu đã dùng máu đào để minh chứng cho niềm tin sắt son của mình. Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Các vua quan và nho sĩ vốn không thiện cảm với đạo Công Giáo đã dẫn đến hàng loạt những cuộc bách hại, và những biện pháp để xoá sổ đạo giáo này bằng cách phân ly các thành viên trong gia đình công giáo, rồi sát nhập họ vào các gia đình lương dân khác nhau. Thế nhưng cánh đồng Tin Mừng tại Việt Nam đã được tưới gội bằng máu các thánh tử đạo đã không ngừng phát triển.
Chuyển sang thời cận đại, với hai cuộc xuất hành: di cư năm 54 vào Miền Nam và sau đó là băng đại dương tìm chân trời tự do sau biến cố 75. Trong hai biến cố ấy, hàng loạt các cơ sở của Giáo Hội bị cưỡng chiếm một cách bất hợp pháp, các hoạt động tôn giáo bị kiểm soát thì với con mắt người đời Giáo hội đó chỉ chờ đợi ngày khánh kiệt mà thôi. Nhưng đối với Thiên Chúa những gì không thể đối với con người đều là có thể. Ngài đã chuyển những ý đồ xấu xa mà con người gây nên thành phương tiện tốt đem lại niềm hy vọng cho con người: “Việc Chúa làm cho chúng tôi vĩ đại thay”. Âu cũng là cách thức để hạt giống Tin Mừng được gieo vãi khắp cùng bờ cõi trái đất, để rồi ngày nay chúng ta nhìn thấy sự phồn thịnh của Giáo Hội ấy trên khắp ba Miền đất nước và tại Hải Ngoại nữa: “Người đi trong nước mắt và người về trong câu ca tay ôm bó lúa lòng mừng bao la”. Một niềm vui hết sức lớn lao, khi mà các chi thể ấy hiệp nhất để cầu cho công lý và hoà bình qua vụ Toà Khâm Sứ tại Hà Nội vừa qua đã gây nên một tiếng vang dội khắp Năm Châu Bốn Biển.
Những gì chúng ta đã làm được tại Toà Khâm Sứ thì cần phải được phát huy hơn nữa tại giáo xứ Thái Hà. Ngọn lửa Công lý đã được thắp lên xin hãy duy trì để ánh sáng đó xua tan bóng đêm u tối bủa vây môi trường chúng ta đang sống. Mỗi người hãy ý thức cho sứ mệnh trong đại này qua lời cầu nguyện, qua tham gia các buổi cầu nguyện, và viết nhiều hơn nữa những cảm xúc tuôn trào có được qua việc làm chứng tá cho Công Lý. Các giáo xứ tại Thủ Đô nói riêng, nên hỗ trợ giáo xứ Thái Hà qua việc cổ động về tinh thần và ghi danh việc cầu nguyện tại đây để chiến dịch cầu nguyện được duy trì và phát huy không ngừng. Qua đó, ngọn lửa Công lý và Hoà bình từ đây được lan toả khắp cả thế giới. Hãy tiếp tục giữ vững lòng nhiệt huyết và trở nên những chiến sỹ không biết mệt mỏi trong cuộc chiến cho công lý và lẽ phải.
Hơn bao giờ hết, chúng ta thật tự hào vì là người con của Giáo Hội Mẹ Việt Nam, là con cháu của các anh hùng tử đạo. Chúng ta có một Giáo Hội đã không ngừng phát triển, và giá trị Tin Mừng đã được bén rễ thật chắc trong từng Kitô hữu. Chúng ta hãy vui lên, vì tên của chúng ta đã được ghi vào sổ sách của Nước Trời.
Những diễn biến trong thời gian vừa qua tại Toà Khâm Sứ cho chúng ta một bài học cụ thể về sức mạnh của sự hiệp nhất trong cầu nguyện và trong hành động. Trong lá thư đề ngày 1 Tháng 2 năm 2008, Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đã ca ngợi tinh thần hiệp thông cầu nguyện này. Nhờ đó đã có hướng giải quyết cho vụ Toà Khâm Sứ một cách khả quan.
Ngoài những lợi thế trong các dịp lễ lớn liên tục diễn ra tại Nhà thờ thánh Giuse Hà Nội như: đêm thánh ca mững kỷ niệm nhạc sĩ Kim Long, thánh lễ truyền chức linh mục cho 18 phó tế, dịp mừng lễ Giáng sinh, lễ thượng thọ của Đức Hồng Y Phao lô Giuse Phạm Đình Tụng, còn phải kể đến sự hiệp thông chặt chẽ giữa các chi thể của Giáo Hội Việt Nam. Trong đó, một dấu hiệu đáng mừng là sự trưởng thành của tất cả các chi thể này. Để rồi tạo nên một sức mạnh kỳ diệu có thể dời núi chuyển sông. Các chi thể của Giáo Hội đó nằm dọc theo chiều dài của đất nước Việt Nam yêu dấu: từ Bắc qua Trung tới Nam và xuyên Đại Dương cho tới tận các Châu lục khác trên toàn thế giới, tại đó các cộng đoàn Việt Nam hải ngoại tuy bé nhỏ nhưng tràn trề sức sống và kết dính chặt chẽ với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.
Cứ nhìn vào những biến cố đau thương mà Giáo Hội ấy liên tiếp phải chịu trong suốt dòng lịch sử thì những thành quả ngày hôm nay thật là xứng đáng. Thật vậy, ngay từ thuở bình minh, Giáo Hội Việt nam đã chịu sự bách hại thật khốc liệt. Hàng trăm ngàn Kitô hữu đã dùng máu đào để minh chứng cho niềm tin sắt son của mình. Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Các vua quan và nho sĩ vốn không thiện cảm với đạo Công Giáo đã dẫn đến hàng loạt những cuộc bách hại, và những biện pháp để xoá sổ đạo giáo này bằng cách phân ly các thành viên trong gia đình công giáo, rồi sát nhập họ vào các gia đình lương dân khác nhau. Thế nhưng cánh đồng Tin Mừng tại Việt Nam đã được tưới gội bằng máu các thánh tử đạo đã không ngừng phát triển.
Chuyển sang thời cận đại, với hai cuộc xuất hành: di cư năm 54 vào Miền Nam và sau đó là băng đại dương tìm chân trời tự do sau biến cố 75. Trong hai biến cố ấy, hàng loạt các cơ sở của Giáo Hội bị cưỡng chiếm một cách bất hợp pháp, các hoạt động tôn giáo bị kiểm soát thì với con mắt người đời Giáo hội đó chỉ chờ đợi ngày khánh kiệt mà thôi. Nhưng đối với Thiên Chúa những gì không thể đối với con người đều là có thể. Ngài đã chuyển những ý đồ xấu xa mà con người gây nên thành phương tiện tốt đem lại niềm hy vọng cho con người: “Việc Chúa làm cho chúng tôi vĩ đại thay”. Âu cũng là cách thức để hạt giống Tin Mừng được gieo vãi khắp cùng bờ cõi trái đất, để rồi ngày nay chúng ta nhìn thấy sự phồn thịnh của Giáo Hội ấy trên khắp ba Miền đất nước và tại Hải Ngoại nữa: “Người đi trong nước mắt và người về trong câu ca tay ôm bó lúa lòng mừng bao la”. Một niềm vui hết sức lớn lao, khi mà các chi thể ấy hiệp nhất để cầu cho công lý và hoà bình qua vụ Toà Khâm Sứ tại Hà Nội vừa qua đã gây nên một tiếng vang dội khắp Năm Châu Bốn Biển.
Những gì chúng ta đã làm được tại Toà Khâm Sứ thì cần phải được phát huy hơn nữa tại giáo xứ Thái Hà. Ngọn lửa Công lý đã được thắp lên xin hãy duy trì để ánh sáng đó xua tan bóng đêm u tối bủa vây môi trường chúng ta đang sống. Mỗi người hãy ý thức cho sứ mệnh trong đại này qua lời cầu nguyện, qua tham gia các buổi cầu nguyện, và viết nhiều hơn nữa những cảm xúc tuôn trào có được qua việc làm chứng tá cho Công Lý. Các giáo xứ tại Thủ Đô nói riêng, nên hỗ trợ giáo xứ Thái Hà qua việc cổ động về tinh thần và ghi danh việc cầu nguyện tại đây để chiến dịch cầu nguyện được duy trì và phát huy không ngừng. Qua đó, ngọn lửa Công lý và Hoà bình từ đây được lan toả khắp cả thế giới. Hãy tiếp tục giữ vững lòng nhiệt huyết và trở nên những chiến sỹ không biết mệt mỏi trong cuộc chiến cho công lý và lẽ phải.
Hơn bao giờ hết, chúng ta thật tự hào vì là người con của Giáo Hội Mẹ Việt Nam, là con cháu của các anh hùng tử đạo. Chúng ta có một Giáo Hội đã không ngừng phát triển, và giá trị Tin Mừng đã được bén rễ thật chắc trong từng Kitô hữu. Chúng ta hãy vui lên, vì tên của chúng ta đã được ghi vào sổ sách của Nước Trời.
Sứ điệp mùa chay: Sám hối và công lý
Tiến Nhân
10:08 17/02/2008
Sứ điệp mùa chay: Sám hối và công lý
Sự kiện Tòa Khâm Sứ đã trở lại «yên tĩnh, bình lặng» sau một thời gian «nóng bỏng». Những tin tức và hình ảnh về TKS trở nên thưa dần, «mát dần». Điều đó không có nghĩa là «chìm xuồng». Tiếng nói công lý vẫn luôn còn đó bao lâu bất công còn tồn tại ! Vả lại, hiện trường có thể «yên tĩnh», nhưng ở hậu trường, người ta vẫn tin rằng đang tiếp tục có những cuộc trao đổi, đối thoại giữa hai bên để đi đến giải pháp cuối cùng mà người dân hằng mong đợi.
Sự «yên tĩnh» của sự kiện như đưa mọi người trở lại với sứ điệp của mùa Chay: sám hối. Đó là một thái độ nhìn lại chính mình trước tôn nhan Thiên Chúa tối cao. Tôi đã đi đúng hướng hay đang đi trệch đường? Tình yêu thuở ban đầu của tôi đối với Thiên Chúa đang còn nồng ấm hay lạc lẽo, trên con đường ngay chính hay lạc lối?
Không sai, tâm tình sám hối luôn là thái độ căn bản của đời sống đức tin của người Kitô hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Đó là một thái độ giúp người Kitô hữu ý thức được, nhờ ơn Chúa, họ đang ở đâu trên con đường sống đức tin, phục vụ Tin Mừng. Thiếu thái độ sám hối- nhìn lại chính mình- này, người Kitô hữu sẽ dễ bị đưa đẩy theo những xu thời của thời cuộc làm phai nhạt đi hương vị, sức sống của Tin Mừng.
Cũng thế, sự yên lặng của sự kiện Tòa Khâm Sứ giúp cho những ai quan tâm đến sự kiện có được một «khoảng cách» cần thiết để nhìn lại cuộc đấu tranh cho công lý này. Cần phải nhấn mạnh đến hai chữ CÔNG LÝ này thật to, thật đậm, để có thể hiểu được những gì đang xảy ra tại Địa Phận Hà Nội. Đấu tranh đòi lại khu đất hay Tòa Khâm Sứ chỉ vì khu đất hay Tòa Khâm Sứ thì đúng là một nguy cơ lệnh đường, vì người Kitô hữu có nguy cơ bám lấy những cái chóng qua, nguy cơ hoài cổ gắn liền với đầu óc thống trị, khải hoàn chiến thắng, nguy cơ tham sân si… Nếu vì những động cơ này, thì thất bại là có rồi, và nếu có thành công, thì thành công chỉ là nhỏ bé nhất thời ! Hành động với những động cơ này sẽ dễ dàng đưa đến một đầu óc đắc thắng lệch lạc, nếu thành công, và sự thất bại ê chề sầu não, nếu không đạt được mục tiêu. Cán cân chênh lệch giữa đấu tranh ý thức hệ chính trị và đấu tranh vì nhân quyền, công lý đích thực, tức là vì phẩm giá của con người, là rất mong manh. Thái độ «sám hối» là cần thiết để nhận ra được sự mong manh đó, để điều chỉnh hướng đi luôn ở trong quỹ đạo của nhân quyền, công lý vì phẩm giá con người. Hẳn có người hoài nghi cho rằng hai chữ công lý chỉ là chiếc vỏ bọc cho một sự ích kỷ hay tham sân si nào đó mà thôi. Người ta có quyền để chất vấn như vậy, thế nhưng người ta không được quên sự kiện rằng sự kiện Tòa Khấm Sứ thẻ hiện một «tiếng kêu thấu trời», một khao khát công lý cần được thực hiện. Một khi đấu tranh vì công lý đích thực, thì «thắng không kêu, bại không ca» là thái độ đích thực của người khao khát chân lý. Không ca thán vì họ biết rằng rồi công lý cũng sẽ đến một ngày; không kêu ngạo đắc thắng vì họ biết rằng công lý là thuộc về con người, nhân loại, chứ không thuộc về kẻ chiến thắng.
Một số Kitô hữu Hàn Quốc, khi quan sát sự kiện Tòa Khâm Sứ này, đã biểu lộ vừa vui mừng vừa lo lắng. Bởi vì họ đã có kinh nghiệm ngay trong Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc của họ. Vui mừng vì thấy Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dấn thân cho công lý, nhưng cung lo lắng về một sự trệch đường nào đó về lâu về dài. Nhớ ngày xưa, khi Giáo Hội Hàn Quốc sống dưới chế độ độc tài, các vị lãnh đạo Công Giáo Hàn Quốc cũng đã thắp nến cầu nguyện cho công lý, thu hút đông đảo dân chúng ngoài Công Giáo tham gia, và Giáo Hội Hàn Quốc đã thành công. Sự độc tài biến mất, nhường chỗ cho công lý, nhân quyền, dân chủ. Giáo Hội Hàn Quốc đã được đánh giá rất cao và yêu mến vào thời bấy giờ. Thế nhưng, đi kém với sự thành công không sám hối này, Giáo Hội Hàn Quốc dần dần bị tai tiếng: sống giàu sang; của cải vật chất, xa dần với người nghèo, tiếng nói bênh vực công lý bị phai mờ …,và hệ quả là người dân Hàn Quốc xa rời Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc. Đó là một bài học đau đơn cho Giáo Hội Hàn Quốc, đẻ rồi giờ đây, họ đã trở lại với thái độ sám hối, cốt lõi của Tin Mừng, phục vụ con người trong sự khiêm tốn, khó nghèo.
Đó cũng là một kinh nghiệm học hỏi quý báu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Giáo Hội CôngGiáo Việt Nam đã có kinh nghiệm về bài học này rồi, bây giờ trong sự kiện Tòa Khâm Sứ, bài học này lại đến để giúp nguời Kitô hữu luôn biết đâu là sự hiện hữu đích thực của họ giữa trần gian. Dĩ nhiên, sám hối không có nghĩa là an phận, cầu toàn, càu hòa, nhắm mắt làm ngơ trước những đòi hỏi của công lý và việc bảo vệ nhân phẩm. Sám hối dĩ nhiên là đặt mình trước tôn nhan Thiên Chúa với tất cả con người ngheo hèn tội lỗi của mình để xin Ngài tha thứ. Tuy nhiên, ngay cả trứoc tôn nhan Thiên Chúa, sám hối một mặt cầu xin ơn công chính hóa, nhưng mặt khác cũng mời gọi về với Đấng là Công Lý. Sám hối như thế là một cuộc đấu tranh không ngừng để đáp lại hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, một nỗ lực về phía con người. Sám hối như thế đã chứa đựng ý nghĩa của «đấu tranh vì công lý», của tôi và của anh chị em tôi trước tôn nhan Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng Công Lý. Văn hào Tolstoi đã có lần nhận định về lời dạy của Chúa Giêsu «nếu ai tát má bên phải của con, thì hay đưa má trái…», đại ý ông nói: Chúa dạy tôi bất bạo động, nhưng ngài không bảo tôi im lặng trước những bất công được gây ra cho người anh em của tôi. Chiều kích đối với Thiên Chúa và đối với con người do đó không hề loại trừ nhau trong sứ điệp sám hối đích thực của Mùa Chay. Chính vì thế trong suốt mùa Chay, bên cạnh sứ điệp sám hối ăn chay hãm mình, luôn vang lên một sứ điệp mạnh mẽ khác: sứ điệp công lý. Sứ điệp này được ngôn sứ Isaia (58,6-7) mô tả như sau:
«Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?
Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?»
Như vậy sứ điệp cốt lõi của mùa Chay là một sứ điệp «sống» chứ không phải là một sứ điệp «chết», một sứ điệp «mở», chứ không phải là một sứ điệp «đóng», một sứ điệp khích lệ» chứ không «gây nản chí», « an đảm» chứ không «sợ sệt», «dấn thân» chứ không «cầu toàn», «phục sinh» chứ không «tiêu tan». Đó thực sự là sứ điệp quan trọng, đích thực, không bi quan và cũng không lạc quan ngây ngô, của mùa chay. Sứ điệp «sám hối và công lý» trong Mùa Chay này hướng đến sư điệp và niềm hy vọng phục sinh, mang chiều kích phục sinh, nơi mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và công lý được thực hiện. Không có và không nói về chiều kích phục sinh của sự sám hối thì người Kitô hữu đang «tôn thờ» sự đau khổ, đang mặc cảm với tội lỗi, thấp kém…, và những kẻ hâu duệ của Nietzsche và như Nietzsche, sẽ còn tiếp tục gọi Kitô giáo là một tôn giáo chết, một tôn giáo yếu nhược. Đang khi sống mùa Chay, sống thân phận của kẻ lữ hành, người Kitô hữu được mời gọi sống trọn vẹn sứ điệp của mùa Chay này với tâm hồn ngay thẳng, thanh thản và không nao núng. Công lý không tự nó đến nhưng cần được bênh vực. Và ai cần phải bênh vực công lý? Câu trả lời thuộc về mỗi người trước nhan Thiên Chúa trong tinh thần sám hối.
Sự kiện Tòa Khâm Sứ đã trở lại «yên tĩnh, bình lặng» sau một thời gian «nóng bỏng». Những tin tức và hình ảnh về TKS trở nên thưa dần, «mát dần». Điều đó không có nghĩa là «chìm xuồng». Tiếng nói công lý vẫn luôn còn đó bao lâu bất công còn tồn tại ! Vả lại, hiện trường có thể «yên tĩnh», nhưng ở hậu trường, người ta vẫn tin rằng đang tiếp tục có những cuộc trao đổi, đối thoại giữa hai bên để đi đến giải pháp cuối cùng mà người dân hằng mong đợi.
Sự «yên tĩnh» của sự kiện như đưa mọi người trở lại với sứ điệp của mùa Chay: sám hối. Đó là một thái độ nhìn lại chính mình trước tôn nhan Thiên Chúa tối cao. Tôi đã đi đúng hướng hay đang đi trệch đường? Tình yêu thuở ban đầu của tôi đối với Thiên Chúa đang còn nồng ấm hay lạc lẽo, trên con đường ngay chính hay lạc lối?
Không sai, tâm tình sám hối luôn là thái độ căn bản của đời sống đức tin của người Kitô hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Đó là một thái độ giúp người Kitô hữu ý thức được, nhờ ơn Chúa, họ đang ở đâu trên con đường sống đức tin, phục vụ Tin Mừng. Thiếu thái độ sám hối- nhìn lại chính mình- này, người Kitô hữu sẽ dễ bị đưa đẩy theo những xu thời của thời cuộc làm phai nhạt đi hương vị, sức sống của Tin Mừng.
Cũng thế, sự yên lặng của sự kiện Tòa Khâm Sứ giúp cho những ai quan tâm đến sự kiện có được một «khoảng cách» cần thiết để nhìn lại cuộc đấu tranh cho công lý này. Cần phải nhấn mạnh đến hai chữ CÔNG LÝ này thật to, thật đậm, để có thể hiểu được những gì đang xảy ra tại Địa Phận Hà Nội. Đấu tranh đòi lại khu đất hay Tòa Khâm Sứ chỉ vì khu đất hay Tòa Khâm Sứ thì đúng là một nguy cơ lệnh đường, vì người Kitô hữu có nguy cơ bám lấy những cái chóng qua, nguy cơ hoài cổ gắn liền với đầu óc thống trị, khải hoàn chiến thắng, nguy cơ tham sân si… Nếu vì những động cơ này, thì thất bại là có rồi, và nếu có thành công, thì thành công chỉ là nhỏ bé nhất thời ! Hành động với những động cơ này sẽ dễ dàng đưa đến một đầu óc đắc thắng lệch lạc, nếu thành công, và sự thất bại ê chề sầu não, nếu không đạt được mục tiêu. Cán cân chênh lệch giữa đấu tranh ý thức hệ chính trị và đấu tranh vì nhân quyền, công lý đích thực, tức là vì phẩm giá của con người, là rất mong manh. Thái độ «sám hối» là cần thiết để nhận ra được sự mong manh đó, để điều chỉnh hướng đi luôn ở trong quỹ đạo của nhân quyền, công lý vì phẩm giá con người. Hẳn có người hoài nghi cho rằng hai chữ công lý chỉ là chiếc vỏ bọc cho một sự ích kỷ hay tham sân si nào đó mà thôi. Người ta có quyền để chất vấn như vậy, thế nhưng người ta không được quên sự kiện rằng sự kiện Tòa Khấm Sứ thẻ hiện một «tiếng kêu thấu trời», một khao khát công lý cần được thực hiện. Một khi đấu tranh vì công lý đích thực, thì «thắng không kêu, bại không ca» là thái độ đích thực của người khao khát chân lý. Không ca thán vì họ biết rằng rồi công lý cũng sẽ đến một ngày; không kêu ngạo đắc thắng vì họ biết rằng công lý là thuộc về con người, nhân loại, chứ không thuộc về kẻ chiến thắng.
Một số Kitô hữu Hàn Quốc, khi quan sát sự kiện Tòa Khâm Sứ này, đã biểu lộ vừa vui mừng vừa lo lắng. Bởi vì họ đã có kinh nghiệm ngay trong Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc của họ. Vui mừng vì thấy Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dấn thân cho công lý, nhưng cung lo lắng về một sự trệch đường nào đó về lâu về dài. Nhớ ngày xưa, khi Giáo Hội Hàn Quốc sống dưới chế độ độc tài, các vị lãnh đạo Công Giáo Hàn Quốc cũng đã thắp nến cầu nguyện cho công lý, thu hút đông đảo dân chúng ngoài Công Giáo tham gia, và Giáo Hội Hàn Quốc đã thành công. Sự độc tài biến mất, nhường chỗ cho công lý, nhân quyền, dân chủ. Giáo Hội Hàn Quốc đã được đánh giá rất cao và yêu mến vào thời bấy giờ. Thế nhưng, đi kém với sự thành công không sám hối này, Giáo Hội Hàn Quốc dần dần bị tai tiếng: sống giàu sang; của cải vật chất, xa dần với người nghèo, tiếng nói bênh vực công lý bị phai mờ …,và hệ quả là người dân Hàn Quốc xa rời Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc. Đó là một bài học đau đơn cho Giáo Hội Hàn Quốc, đẻ rồi giờ đây, họ đã trở lại với thái độ sám hối, cốt lõi của Tin Mừng, phục vụ con người trong sự khiêm tốn, khó nghèo.
Đó cũng là một kinh nghiệm học hỏi quý báu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Giáo Hội CôngGiáo Việt Nam đã có kinh nghiệm về bài học này rồi, bây giờ trong sự kiện Tòa Khâm Sứ, bài học này lại đến để giúp nguời Kitô hữu luôn biết đâu là sự hiện hữu đích thực của họ giữa trần gian. Dĩ nhiên, sám hối không có nghĩa là an phận, cầu toàn, càu hòa, nhắm mắt làm ngơ trước những đòi hỏi của công lý và việc bảo vệ nhân phẩm. Sám hối dĩ nhiên là đặt mình trước tôn nhan Thiên Chúa với tất cả con người ngheo hèn tội lỗi của mình để xin Ngài tha thứ. Tuy nhiên, ngay cả trứoc tôn nhan Thiên Chúa, sám hối một mặt cầu xin ơn công chính hóa, nhưng mặt khác cũng mời gọi về với Đấng là Công Lý. Sám hối như thế là một cuộc đấu tranh không ngừng để đáp lại hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, một nỗ lực về phía con người. Sám hối như thế đã chứa đựng ý nghĩa của «đấu tranh vì công lý», của tôi và của anh chị em tôi trước tôn nhan Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng Công Lý. Văn hào Tolstoi đã có lần nhận định về lời dạy của Chúa Giêsu «nếu ai tát má bên phải của con, thì hay đưa má trái…», đại ý ông nói: Chúa dạy tôi bất bạo động, nhưng ngài không bảo tôi im lặng trước những bất công được gây ra cho người anh em của tôi. Chiều kích đối với Thiên Chúa và đối với con người do đó không hề loại trừ nhau trong sứ điệp sám hối đích thực của Mùa Chay. Chính vì thế trong suốt mùa Chay, bên cạnh sứ điệp sám hối ăn chay hãm mình, luôn vang lên một sứ điệp mạnh mẽ khác: sứ điệp công lý. Sứ điệp này được ngôn sứ Isaia (58,6-7) mô tả như sau:
«Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?
Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?»
Như vậy sứ điệp cốt lõi của mùa Chay là một sứ điệp «sống» chứ không phải là một sứ điệp «chết», một sứ điệp «mở», chứ không phải là một sứ điệp «đóng», một sứ điệp khích lệ» chứ không «gây nản chí», « an đảm» chứ không «sợ sệt», «dấn thân» chứ không «cầu toàn», «phục sinh» chứ không «tiêu tan». Đó thực sự là sứ điệp quan trọng, đích thực, không bi quan và cũng không lạc quan ngây ngô, của mùa chay. Sứ điệp «sám hối và công lý» trong Mùa Chay này hướng đến sư điệp và niềm hy vọng phục sinh, mang chiều kích phục sinh, nơi mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và công lý được thực hiện. Không có và không nói về chiều kích phục sinh của sự sám hối thì người Kitô hữu đang «tôn thờ» sự đau khổ, đang mặc cảm với tội lỗi, thấp kém…, và những kẻ hâu duệ của Nietzsche và như Nietzsche, sẽ còn tiếp tục gọi Kitô giáo là một tôn giáo chết, một tôn giáo yếu nhược. Đang khi sống mùa Chay, sống thân phận của kẻ lữ hành, người Kitô hữu được mời gọi sống trọn vẹn sứ điệp của mùa Chay này với tâm hồn ngay thẳng, thanh thản và không nao núng. Công lý không tự nó đến nhưng cần được bênh vực. Và ai cần phải bênh vực công lý? Câu trả lời thuộc về mỗi người trước nhan Thiên Chúa trong tinh thần sám hối.
Tòa Khâm Sứ - Khả năng nào sẽ đến?
J.B. Nguyễn Hữu Vinh
13:35 17/02/2008
TÒA KHÂM SỨ - KHẢ NĂNG NÀO SẼ ĐẾN?
Một cơ hội mới?
Những cuộc cầu nguyện biểu thị sức mạnh niềm tin của giáo dân Hà Nội tại Tòa Khâm sứ đã gây nên một sự kiện lớn trong đời sống Giáo hội Công giáo Việt Nam cuối năm 2007, đầu năm 2008.
Đỉnh điểm của những cuộc cầu nguyện đòi lại Tòa Khâm sứ đã bị chiếm đoạt là những ngày đêm nóng bỏng giữa bạo quyền đe dọa và bản lĩnh, niềm tin của người giáo dân Hà Nội. Sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội Công giáo, sự quan tâm toàn cầu về quyền lợi và ý nguyện của giáo dân Việt Nam và truyền thông đã giúp họ chứng tỏ sự can đảm của mình. Sự can đảm của giáo dân Hà Nội, mà người ta tưởng rằng chỉ quen nhẫn nhục chịu đựng, đã làm kinh ngạc những người quan tâm.
Sự can đảm đó đã đẩy Nhà cầm quyền vào tình trạng “đi cũng dở, ở không xong”.
Đến gần những ngày Tết cổ truyền, những động thái mới của cả hai bên đã có tác dụng làm xì hơi quả bóng đã quá căng. Những lời hứa của đại diện Nhà nước là sẽ trả lại khu đất và tài sản Tòa Khâm sứ bằng cách này hay cách khác để còn giữ được thể diện cho nhà cầm quyền. Động thái của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội kêu gọi giáo dân tạm ngưng những cuộc tập trung đông đúc cầu nguyện tại Tòa Khâm sứ đã có tác dụng để những ngày xuân được thanh bình, vui vẻ. Vâng lời Tổng Giám mục, giáo dân đã rút khỏi nơi cầu nguyện, cung nghinh Thánh Giá về.
Những căng thẳng của cả hai bên tạm thời được giải tỏa.
Thực ra, kết quả đạt được chưa phải là to lớn khi cả 2 bên đã phải mất một thời gian dài vất vả. Đơn giản là vì nếu có một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc một Nhà nước pháp quyền thật sự thì kết quả tương tự đã đạt được từ lâu mà không cần phức tạp.
Việc căng thẳng bắt nguồn từ nhu cầu cấp bách của Giáo hội Công giáo trước những thiếu thốn chật chội về cơ sở vật chất cho mục vụ, trong khi tài sản của mình vẫn bị chiếm đoạt vô cớ để phục vụ những mục đích không chính đáng dù đã nhiều lần có đơn từ “xin lại”.
Nhưng những tiếng kêu đã vấp phải thái độ trịch thượng, ngạo mạn của nhà cầm quyền vốn quen sử dụng mệnh lệnh và vũ khí đối với nguyện vọng và niềm tin của giáo dân và Giáo hội - một tổ chức của những “công dân hạng hai” .
Điều đó đã được thể hiện và thi hành qua một quá trình dài trong lịch sử thống trị mang tên mỹ miều là “phục vụ nhân dân” của Nhà nước Cộng sản - Một Nhà nước tự coi là luôn luôn đúng, không chấp nhận những điều trái ý, không chấp nhận việc không tuân thủ quyền lực của súng đạn.
Đó cũng là thái độ và cách hành xử thường có của một hệ thống tư tưởng vốn coi đời sống tín ngưỡng của người dân như một sự ngáng trở cho việc xây dựng một chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Một chủ nghĩa muốn trục xuất Chúa Trời ra khỏi vũ trụ, trục xuất tư hữu ra khỏi xã hội, trục xuất thần thánh ra khỏi đời sống và trục xuất linh hồn ra khỏi con người.
Đó cũng là thói quen hành xử của những “chính quyền sinh ra từ họng súng” theo đúng lý thuyết của Mao Trạch Đông.
Và những cách hành xử đó đã kéo quá dài, gần như đã trở thành một đặc tính khó bỏ.
Vì vậy, việc hòa hoãn, đối thoại đã đạt được mở ra một cơ hội mới cho sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau cho cả hai bên.
Khả năng nào sẽ xảy ra?
Trước những sự kiện này, nhiều người, cả Công giáo và không Công giáo đã có suy nghĩ khác nhau. Người cho rằng: Như vậy là đã đạt được ý nguyện của giáo dân và Giáo hội, vì nhà nước đã hứa ở cấp cao, thì phải trả lại bằng một hình thức nào đó, dù muốn hay không, Giáo hội chỉ cần đòi lại được tài sản của mình. Và như vậy, Nhà nước cũng sẽ trả theo đúng lời hứa, vì đây là danh dự của Nhà nước không chỉ riêng với Công giáo mà còn là thể diện với cả thế giới nhìn vào.
Nhưng cũng có những ý kiến ngược lại: Đó chỉ mới là những điều người Cộng sản nói, xưa nay từ nói đến làm của họ là một khoảng cách khá xa, nhiều khi là hai hướng ngược nhau. Hãy chờ xem những điều mà người Cộng sản sẽ làm?
Trước những suy nghĩ khác nhau nói trên, thử xem những điều gì sẽ xảy ra như một phán đoán lúc trà dư, tửu hậu cho hai khả năng: Trả lại và không trả lại.
Trả lại, Nhà nước sẽ mất và được gì?
Nhà nước sẽ chẳng mất gì, tài sản và đất đai kia vẫn là một bộ phận của đất nước. Những hoạt động trên những tài sản, đất đai đó vẫn phục vụ cho những nhu cầu cấp thiết của giáo dân, Giáo hội và qua đó, sẽ sinh lợi nhiều sản phẩm vật chất, tinh thần cho người dân trong cuộc sống tâm linh, bình an, hạnh phúc, góp phần xây dựng xã hội, đất nước tốt đẹp hơn.
Điều duy nhất mà Nhà nước này bị mất, là mất đi một biểu tượng về sự tha hóa của đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà bể bơi, sàn nhảy, khu vui chơi giải trí đàng điếm mọc lên khiêu khích và khinh bỉ một nơi tôn nghiêm như Tòa Tổng Giám mục và nơi tu hành. Mất đi một biểu tượng ngược lại của sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Mất đi một vết đen trước cộng đồng và toàn thế giới của Thủ đô Việt Nam ngàn năm văn hiến.
Có chăng, là khi trả lại khu đất này, một vài dự án khu ăn chơi kia bị dẹp bỏ, có nghĩa là những đồng tiền của nhà đầu tư đã chi ra bằng cách này hay cách khác, cửa trước hay cửa sau… khó có khả năng thu hồi. Và nếu có những khuất tất phía sau bị lôi ra ánh sáng, thì Nhà nước mất đi một số cán bộ đảng viên nay vẫn là những “đồng chí cán bộ đảng viên tốt vì chưa bị lộ”.
Nếu những người Cộng sản biết tôn trọng người dân, tôn trọng Giáo hội và trước hết là tôn trọng chính bản thân họ bằng cách thực hiện những lời đã hứa một cách nhanh chóng, thì đó là một cơ hội để Nhà nước chứng minh thiện chí của mình dù đã hơi muộn.
Việc trả lại sẽ có một tác dụng to lớn về mặt củng cố chút niềm tin còn lại của những ai đã từng tin tưởng vào những lời tuyên bố hào sảng về một Nhà nước “Của dân, do dân và vì dân” . Cũng là dịp bàn dân thiên hạ được biết Nhà nước đang có động thái theo một chiều hướng tích cực để đưa đất nước đi lên theo đà tiến bộ thế giới trên con đường hội nhập với thế giới văn minh mà điển hình là Chính phủ Tiệp (Czech) mới đây đã đưa ra một dự luật để trả lại cho Giáo hội Công giáo những tài sản đã bị cướp đoạt trong thời Cộng sản thống trị ở nước này.
Về mặt tinh thần, khi được trả lại, giáo dân Hà Nội có điều kiện cơ sở cho việc phụng vụ, giáo dục đạo đức Ki-tô cho các tín hữu sâu sắc. Đó là cơ sở để tồn tại và phát triển đạo đức xã hội, giảm thiểu những tệ nạn, những thói hư tật xấu trong xã hội mà mấy chục năm nay, dưới sự lãnh đạo “sáng suốt của đảng”, chỉ thấy càng ngày càng phát triển, đạo đức xã hội càng suy đồi.
Mặt khác, giữa nhà nước và Giáo hội sẽ mở ra một trang mới về quan hệ đối thoại sòng phẳng, chân thành tôn trọng lẫn nhau. Điều đó giúp Nhà nước hiểu hơn những nguyện vọng, những bức xúc cũng như những đóng góp tích cực của một bộ phận không nhỏ nhân dân - một phần của đất nước của dân tộc mà dù muốn, cũng không thể xóa bỏ. Cũng qua đó, Nhà nước không còn phải nghi ngại, không cần phải chi hằng hà sa số tiền của, phương tiện và nhân lực cho những lực lượng theo dõi, trấn áp và ngăn chặn Giáo hội trong những hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và Pháp luật.
Điều đó cũng giúp cho Giáo hội, giáo dân có thể có lòng tin vào một Nhà nước Pháp quyền – mà lòng tin là điều cơ bản cần thiết cho việc thiết lập sự chân thành của bất cứ mối quan hệ nào.
Nhưng nếu không trả lại?
Nếu bằng bất cứ cách nào bước qua những lời hứa đã được trịnh trọng nói ra, có nghĩa là Nhà nước đã đặt cược nốt chút lòng tin hiếm hoi còn lại trong nhân dân. Và khi đó câu nói “Hãy xem việc Cộng sản làm” sẽ có dịp chứng minh.
Thời đại xã hội thông tin, một hành động, một câu nói, một cái nháy mắt nhiều khi đã làm rung chuyển cả thế giới, thì những lời hứa kia làm sao có thể chỉ là những chuyện tào lao.
Vì vậy, không chỉ giáo dân thuộc Giáo phận Hà Nội, mà cả Giáo hội Công giáo Việt Nam, không chỉ là nhân dân trong đất nước này, mà cả thế giới đang chờ xem cách ứng xử của Nhà cầm quyền Hà Nội về vụ đất đai Tòa Khâm sứ.
Những ngọn nến chứng tỏ lòng trung kiên của giáo dân Hà Nội trong những ngày mùa đông rét mướt vừa qua không kể đêm ngày, những dòng người đông đúc đổ về Tòa Khâm sứ khi mà súng đạn đã sẵn sàng đe dọa trút xuống đầu đã nói lên mục đích và quyết tâm của họ.
Vì vậy, nếu không trả lại, Nhà nước sẽ phải mất công sức, thời gian, tiền bạc và lực lượng cho những cuộc cầu nguyện tiếp theo, mà chắc chắn sẽ không chỉ ở mức độ như đã thấy. Những ngọn nến đã đốt lên kia, sẽ có cơ hội bùng cháy dữ dội hơn với cả lòng uất hận.
Và chắc chắn một điều, dù có đến hàng ngàn rào sắt, hàng vạn ổ khóa mà không được trả lại, thì khu đất và tài sản đó cũng không thể hợp pháp đưa vào sử dụng cho bất cứ mục đích sinh lợi nào cho bất cứ ai mà được yên ổn.
Việc Tòa Tổng Giám mục Hà Nội kêu gọi giáo dân tạm ngưng những cuộc cầu nguyện trong đất Tòa Khâm sứ, cung nghinh Thánh giá về, đã là những cách đi bước trước trong quá trình hòa giải, bày tỏ thiện chí của mình đúng với tính chất của một Giáo hội “đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp” .
Nhưng đừng ai nghĩ rằng, có thể lợi dụng điều đó được mãi để đổi trắng thay đen. Qua hơn 60 năm sống dưới chế độ Cộng sản, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã không còn ngây thơ, ngờ nghệch.
Trái lại, một lần nữa Giáo hội đã đặt lá cờ hòa bình vào bàn tay Nhà nước. Việc có phất lá cờ đó lên hay không, là hoàn toàn phụ thuộc vào chính Nhà nước Việt Nam. Nhân dân trong nước và cả thế giới chỉ đánh giá những hành động thiết thực mà thôi.
Đó cũng là một bài toán khó cho những người cầm quyền vốn quen cầm súng đạn, nhưng là một cành ô liu cho những kẻ mong muốn hòa bình.
Giáo hội Công giáo Việt Nam khắp nơi và Giáo hội Hoàn vũ luôn quan tâm và cầu nguyện cho ngọn cờ hòa bình luôn được nêu cao. Tất cả đang chăm chú theo dõi và bền bỉ mong chờ điều đó, mà sự chờ đợi đã quá lâu.
Cầu xin Thiên Chúa của Tình yêu và Công lý sẽ hướng dẫn những người hữu trách để mang lại niềm tin yêu và Công lý trên đất nước này.
Hà Nội, Ngày 17 tháng 2 năm 2008.
Một cơ hội mới?
Những cuộc cầu nguyện biểu thị sức mạnh niềm tin của giáo dân Hà Nội tại Tòa Khâm sứ đã gây nên một sự kiện lớn trong đời sống Giáo hội Công giáo Việt Nam cuối năm 2007, đầu năm 2008.
Đỉnh điểm của những cuộc cầu nguyện đòi lại Tòa Khâm sứ đã bị chiếm đoạt là những ngày đêm nóng bỏng giữa bạo quyền đe dọa và bản lĩnh, niềm tin của người giáo dân Hà Nội. Sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội Công giáo, sự quan tâm toàn cầu về quyền lợi và ý nguyện của giáo dân Việt Nam và truyền thông đã giúp họ chứng tỏ sự can đảm của mình. Sự can đảm của giáo dân Hà Nội, mà người ta tưởng rằng chỉ quen nhẫn nhục chịu đựng, đã làm kinh ngạc những người quan tâm.
Sự can đảm đó đã đẩy Nhà cầm quyền vào tình trạng “đi cũng dở, ở không xong”.
Đến gần những ngày Tết cổ truyền, những động thái mới của cả hai bên đã có tác dụng làm xì hơi quả bóng đã quá căng. Những lời hứa của đại diện Nhà nước là sẽ trả lại khu đất và tài sản Tòa Khâm sứ bằng cách này hay cách khác để còn giữ được thể diện cho nhà cầm quyền. Động thái của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội kêu gọi giáo dân tạm ngưng những cuộc tập trung đông đúc cầu nguyện tại Tòa Khâm sứ đã có tác dụng để những ngày xuân được thanh bình, vui vẻ. Vâng lời Tổng Giám mục, giáo dân đã rút khỏi nơi cầu nguyện, cung nghinh Thánh Giá về.
Những căng thẳng của cả hai bên tạm thời được giải tỏa.
Thực ra, kết quả đạt được chưa phải là to lớn khi cả 2 bên đã phải mất một thời gian dài vất vả. Đơn giản là vì nếu có một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc một Nhà nước pháp quyền thật sự thì kết quả tương tự đã đạt được từ lâu mà không cần phức tạp.
Việc căng thẳng bắt nguồn từ nhu cầu cấp bách của Giáo hội Công giáo trước những thiếu thốn chật chội về cơ sở vật chất cho mục vụ, trong khi tài sản của mình vẫn bị chiếm đoạt vô cớ để phục vụ những mục đích không chính đáng dù đã nhiều lần có đơn từ “xin lại”.
Nhưng những tiếng kêu đã vấp phải thái độ trịch thượng, ngạo mạn của nhà cầm quyền vốn quen sử dụng mệnh lệnh và vũ khí đối với nguyện vọng và niềm tin của giáo dân và Giáo hội - một tổ chức của những “công dân hạng hai” .
Điều đó đã được thể hiện và thi hành qua một quá trình dài trong lịch sử thống trị mang tên mỹ miều là “phục vụ nhân dân” của Nhà nước Cộng sản - Một Nhà nước tự coi là luôn luôn đúng, không chấp nhận những điều trái ý, không chấp nhận việc không tuân thủ quyền lực của súng đạn.
Đó cũng là thái độ và cách hành xử thường có của một hệ thống tư tưởng vốn coi đời sống tín ngưỡng của người dân như một sự ngáng trở cho việc xây dựng một chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Một chủ nghĩa muốn trục xuất Chúa Trời ra khỏi vũ trụ, trục xuất tư hữu ra khỏi xã hội, trục xuất thần thánh ra khỏi đời sống và trục xuất linh hồn ra khỏi con người.
Đó cũng là thói quen hành xử của những “chính quyền sinh ra từ họng súng” theo đúng lý thuyết của Mao Trạch Đông.
Và những cách hành xử đó đã kéo quá dài, gần như đã trở thành một đặc tính khó bỏ.
Vì vậy, việc hòa hoãn, đối thoại đã đạt được mở ra một cơ hội mới cho sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau cho cả hai bên.
Khả năng nào sẽ xảy ra?
Trước những sự kiện này, nhiều người, cả Công giáo và không Công giáo đã có suy nghĩ khác nhau. Người cho rằng: Như vậy là đã đạt được ý nguyện của giáo dân và Giáo hội, vì nhà nước đã hứa ở cấp cao, thì phải trả lại bằng một hình thức nào đó, dù muốn hay không, Giáo hội chỉ cần đòi lại được tài sản của mình. Và như vậy, Nhà nước cũng sẽ trả theo đúng lời hứa, vì đây là danh dự của Nhà nước không chỉ riêng với Công giáo mà còn là thể diện với cả thế giới nhìn vào.
Nhưng cũng có những ý kiến ngược lại: Đó chỉ mới là những điều người Cộng sản nói, xưa nay từ nói đến làm của họ là một khoảng cách khá xa, nhiều khi là hai hướng ngược nhau. Hãy chờ xem những điều mà người Cộng sản sẽ làm?
Trước những suy nghĩ khác nhau nói trên, thử xem những điều gì sẽ xảy ra như một phán đoán lúc trà dư, tửu hậu cho hai khả năng: Trả lại và không trả lại.
Trả lại, Nhà nước sẽ mất và được gì?
Nhà nước sẽ chẳng mất gì, tài sản và đất đai kia vẫn là một bộ phận của đất nước. Những hoạt động trên những tài sản, đất đai đó vẫn phục vụ cho những nhu cầu cấp thiết của giáo dân, Giáo hội và qua đó, sẽ sinh lợi nhiều sản phẩm vật chất, tinh thần cho người dân trong cuộc sống tâm linh, bình an, hạnh phúc, góp phần xây dựng xã hội, đất nước tốt đẹp hơn.
Điều duy nhất mà Nhà nước này bị mất, là mất đi một biểu tượng về sự tha hóa của đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà bể bơi, sàn nhảy, khu vui chơi giải trí đàng điếm mọc lên khiêu khích và khinh bỉ một nơi tôn nghiêm như Tòa Tổng Giám mục và nơi tu hành. Mất đi một biểu tượng ngược lại của sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Mất đi một vết đen trước cộng đồng và toàn thế giới của Thủ đô Việt Nam ngàn năm văn hiến.
Có chăng, là khi trả lại khu đất này, một vài dự án khu ăn chơi kia bị dẹp bỏ, có nghĩa là những đồng tiền của nhà đầu tư đã chi ra bằng cách này hay cách khác, cửa trước hay cửa sau… khó có khả năng thu hồi. Và nếu có những khuất tất phía sau bị lôi ra ánh sáng, thì Nhà nước mất đi một số cán bộ đảng viên nay vẫn là những “đồng chí cán bộ đảng viên tốt vì chưa bị lộ”.
Nếu những người Cộng sản biết tôn trọng người dân, tôn trọng Giáo hội và trước hết là tôn trọng chính bản thân họ bằng cách thực hiện những lời đã hứa một cách nhanh chóng, thì đó là một cơ hội để Nhà nước chứng minh thiện chí của mình dù đã hơi muộn.
Việc trả lại sẽ có một tác dụng to lớn về mặt củng cố chút niềm tin còn lại của những ai đã từng tin tưởng vào những lời tuyên bố hào sảng về một Nhà nước “Của dân, do dân và vì dân” . Cũng là dịp bàn dân thiên hạ được biết Nhà nước đang có động thái theo một chiều hướng tích cực để đưa đất nước đi lên theo đà tiến bộ thế giới trên con đường hội nhập với thế giới văn minh mà điển hình là Chính phủ Tiệp (Czech) mới đây đã đưa ra một dự luật để trả lại cho Giáo hội Công giáo những tài sản đã bị cướp đoạt trong thời Cộng sản thống trị ở nước này.
Về mặt tinh thần, khi được trả lại, giáo dân Hà Nội có điều kiện cơ sở cho việc phụng vụ, giáo dục đạo đức Ki-tô cho các tín hữu sâu sắc. Đó là cơ sở để tồn tại và phát triển đạo đức xã hội, giảm thiểu những tệ nạn, những thói hư tật xấu trong xã hội mà mấy chục năm nay, dưới sự lãnh đạo “sáng suốt của đảng”, chỉ thấy càng ngày càng phát triển, đạo đức xã hội càng suy đồi.
Mặt khác, giữa nhà nước và Giáo hội sẽ mở ra một trang mới về quan hệ đối thoại sòng phẳng, chân thành tôn trọng lẫn nhau. Điều đó giúp Nhà nước hiểu hơn những nguyện vọng, những bức xúc cũng như những đóng góp tích cực của một bộ phận không nhỏ nhân dân - một phần của đất nước của dân tộc mà dù muốn, cũng không thể xóa bỏ. Cũng qua đó, Nhà nước không còn phải nghi ngại, không cần phải chi hằng hà sa số tiền của, phương tiện và nhân lực cho những lực lượng theo dõi, trấn áp và ngăn chặn Giáo hội trong những hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và Pháp luật.
Điều đó cũng giúp cho Giáo hội, giáo dân có thể có lòng tin vào một Nhà nước Pháp quyền – mà lòng tin là điều cơ bản cần thiết cho việc thiết lập sự chân thành của bất cứ mối quan hệ nào.
Nhưng nếu không trả lại?
Nếu bằng bất cứ cách nào bước qua những lời hứa đã được trịnh trọng nói ra, có nghĩa là Nhà nước đã đặt cược nốt chút lòng tin hiếm hoi còn lại trong nhân dân. Và khi đó câu nói “Hãy xem việc Cộng sản làm” sẽ có dịp chứng minh.
Thời đại xã hội thông tin, một hành động, một câu nói, một cái nháy mắt nhiều khi đã làm rung chuyển cả thế giới, thì những lời hứa kia làm sao có thể chỉ là những chuyện tào lao.
Vì vậy, không chỉ giáo dân thuộc Giáo phận Hà Nội, mà cả Giáo hội Công giáo Việt Nam, không chỉ là nhân dân trong đất nước này, mà cả thế giới đang chờ xem cách ứng xử của Nhà cầm quyền Hà Nội về vụ đất đai Tòa Khâm sứ.
Những ngọn nến chứng tỏ lòng trung kiên của giáo dân Hà Nội trong những ngày mùa đông rét mướt vừa qua không kể đêm ngày, những dòng người đông đúc đổ về Tòa Khâm sứ khi mà súng đạn đã sẵn sàng đe dọa trút xuống đầu đã nói lên mục đích và quyết tâm của họ.
Vì vậy, nếu không trả lại, Nhà nước sẽ phải mất công sức, thời gian, tiền bạc và lực lượng cho những cuộc cầu nguyện tiếp theo, mà chắc chắn sẽ không chỉ ở mức độ như đã thấy. Những ngọn nến đã đốt lên kia, sẽ có cơ hội bùng cháy dữ dội hơn với cả lòng uất hận.
Và chắc chắn một điều, dù có đến hàng ngàn rào sắt, hàng vạn ổ khóa mà không được trả lại, thì khu đất và tài sản đó cũng không thể hợp pháp đưa vào sử dụng cho bất cứ mục đích sinh lợi nào cho bất cứ ai mà được yên ổn.
Việc Tòa Tổng Giám mục Hà Nội kêu gọi giáo dân tạm ngưng những cuộc cầu nguyện trong đất Tòa Khâm sứ, cung nghinh Thánh giá về, đã là những cách đi bước trước trong quá trình hòa giải, bày tỏ thiện chí của mình đúng với tính chất của một Giáo hội “đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp” .
Nhưng đừng ai nghĩ rằng, có thể lợi dụng điều đó được mãi để đổi trắng thay đen. Qua hơn 60 năm sống dưới chế độ Cộng sản, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã không còn ngây thơ, ngờ nghệch.
Trái lại, một lần nữa Giáo hội đã đặt lá cờ hòa bình vào bàn tay Nhà nước. Việc có phất lá cờ đó lên hay không, là hoàn toàn phụ thuộc vào chính Nhà nước Việt Nam. Nhân dân trong nước và cả thế giới chỉ đánh giá những hành động thiết thực mà thôi.
Đó cũng là một bài toán khó cho những người cầm quyền vốn quen cầm súng đạn, nhưng là một cành ô liu cho những kẻ mong muốn hòa bình.
Giáo hội Công giáo Việt Nam khắp nơi và Giáo hội Hoàn vũ luôn quan tâm và cầu nguyện cho ngọn cờ hòa bình luôn được nêu cao. Tất cả đang chăm chú theo dõi và bền bỉ mong chờ điều đó, mà sự chờ đợi đã quá lâu.
Cầu xin Thiên Chúa của Tình yêu và Công lý sẽ hướng dẫn những người hữu trách để mang lại niềm tin yêu và Công lý trên đất nước này.
Hà Nội, Ngày 17 tháng 2 năm 2008.
Thái Hà (thơ)
Nhật Diệu
13:56 17/02/2008
THÁI HÀ
Như cuộc hành hương thật vĩ đại
Khắp nơi tuôn đổ về Thái Hà
Tựa thể thiên đàng thu nhỏ lại
Ôi, đẹp làm sao phố Đức Bà
Tự ở nơi lòng, nến đã thắp
Thánh thần giục bước họ lên đường
Hương Thái Hà bỗng nhiên tỏa khắp
Kéo cả nước đi, đi hành hương
Hạt chuỗi trong tay họ lại lần
Có những bà mẹ quên mùa xuân
Ngồi lại nguyện cầu trong gió rét
Đêm về giá lạnh người thưa dần
Đất Thái Hà tường rào vây kín
Như mào gai chúa đội trên đầu
Đầu đau nhức buốt thân tê liệt
Thủ đô rúng lạnh, cả nước đau
Hai miền nam bắc, giữa miền trung
Tài sản giáo hội, đất nhà chung
Lửa đã bắt đi từ ngọn nến
Sẽ cháy cho đến giọt cuối cùng
Giáo hội hiệp nhất đêm như ngày
Hiệp nhất tựa như hai bàn tay
Chấp vào làm một và cầu nguyện
Chủ chăn dạy bảo họ cầu nguyện
Thái Hà tỉnh thức cầu nguyện luôn
Lời ca tiếng hát nghe hay quá
Câu kinh như suối dạt dào tuôn
Mặc cho bão táp với phong ba
Đi trước đoàn tàu, tàu Thái Hà
Đi sau Thái Hà sẽ còn nữa
Cho dù công lý ở nơi xa
Nến hoa thắp sáng, lòng thắp sáng
Hà Nội tim đập đưa máu đi
Tin rằng mai trời sẽ ửng rạng
Thái Hà bền chặt chí kiên trì
Con chúa trong ngoài là một dân
Dù thơ lỡ nhịp chẳng tươi vần
Gởi về Thái Hà đôi giòng chữ
Bên trời lất phất rét mưa xuân.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bệnh Quên
Thụy Miên
08:04 17/02/2008
Bệnh Quên.
Ở đời ai mà lại chẳng có lúc quên, quên từ lúc còn bé, chứ đâu phải đợi tới già rồi mới quên. Tôi xin viết vội bài này, để rồi đến khi quên thì mình đã viết thành bài rồi.
Cái chữ “quên” nó đeo vào người ta, ở bất cứ tuổi nào của đời người.
Cái quên của tuổi trẻ thơ.
Lúc tôi còn bé tí. Ở trường học, tôi thường bị thầy giáo đánh đòn vì quên đến trường đúng giờ, quên làm bài hay quên học bài.
Ở nhà, thì bị mẹ đánh đòn vì tội quên lời mẹ dạy. Ăn cơm quên làm dấu trước khi ăn. Quên khoanh tay chào khách của cha mẹ. Quên không về nói lại những lời nhắn tin của khách. Cũng có khi tôi bị đòn vì bị mất đồ đạc như cái kìm, cái búa đóng đinh của bố tôi. Tôi cho những người bạn của bố mẹ tôi mượn, mà tôi quên không nhớ tên của họ, lâu ngày họ quên không trả thế là mất và tôi bị đòn. Cũng có lần tôi trốn đi lễ ban sáng để chui vào xe bán nước mía ở cổng nhà thờ để ngủ. Chắc có ai đó đã về mách với mẹ tôi, nên hôm đó vừa về đến nhà mẹ tôi đã hỏi:
“Mày hôm nay đi xem lễ, cha giảng bài phúc âm nào?”
Thấy tôi ấp úng, mẹ tôi hỏi tiếp:
“Cha mặc áo lễ mầu gì?”
Tôi có đi xem lễ đâu mà biết, nên đành ấp úng trả lời:
“Dạ! thưa mẹ con quên rồi ạ.” Và tôi đành chiụ một trận đòn mê tơi.
Có lần, tôi nghe thấy vợ tôi la thằng cháu nội lên sáu tuổi như sau:
- “Tiến! Tại sao không để giày lên kệ để giày, mà cháu lại vất lung tung thế này”.
- “Dạ! cháu quên.” Thằng bé sợ sệt, trả lời.
Chữ “quên” nó dùng để chạy tội. Tôi liền phì cười, vì nó giống hệt tôi thủa xưa.
Cái quên của tuổi học trò.
Cái quên cũng xảy ra với tuổi học trò, học sinh như khi đi học thì quên mang sách học hôm ấy, quên không mang bút mực. Hay có khi làm bài thi, thì quên không đọc kỹ câu hỏi, quên không kiểm soát lại câu trả lời trước khi nộp bài. Tôi nhớ cái lần đi thi Tú Tài I, ban B (ban Tóan). Năm ấy, khi tôi làm bài tóan ngay từ câu hỏi số một tôi đã quên không đổi dấu khi chuyển con số từ vế nọ sang vế kia, mà các câu hỏi kế tiếp lại liên quan tới kết qủa câu hỏi số một.
Khi về nhà, tôi ngồi suy nghĩ lại mới biết mình làm sai, nên năm ấy bị thi rớt. Thế mới biết học một năm, thi một vài giờ. Chỉ vì cái tội quên không dò xét lại, nhanh nhẩu nên đoảng đến thế là cùng.
Cũng có khi học cho đã rồi đến trường thi, thì quên hết nên làm bài được ít điểm. Cái quên này có lẽ vì thân xác mệt mỏi nên trí nhớ kém, hoặc hồi hộp, lo sợ mà ra.
Cũng có khi do chểnh mảng, không nghe rõ lệnh để nhớ như câu chuyện sau đây. Vợ chồng tôi đi nghỉ holiday vào mùa hè, dặn con gái út ở nhà tưới vườn rau cùng cây kiểng cho ba mẹ. Thế nhưng vì cháu chểnh mảng đã quên lời dặn, nên khi chúng tôi về thì vườn rau, cây kiểng chẳng còn mấy cây còn sống.
Cái quên của tuổi thanh niên.
Thường ở tuổi này các anh, các chị quên nhiều nhất là quên giờ. Vì có nhiều cái hẹn cùng một lúc. Có nhiều cái hẹn đến bất thình lình nên đành quên cái hẹn đến trước.
Hoặc đôi khi nhớ nhiều qúa mà quên như: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ. Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn.”
Cũng có khi quên vì thói quen nghề nghiệp, như có lần tôi đeo ống nghe vào cổ, tay cầm ống nghe đặt lên ngực của bệnh nhân để nghe tiếng của van tim, tiếng kêu của phổi của người bệnh. Thế nhưng tôi đã quên không bỏ ống nghe vào hai tai của tôi nên tôi chẳng nghe thấy gì cả. Phải mất ít giây, tôi mới khám phá ra cái quên của mình.
Cũng có cái quên méo mó nghề nghiệp một chút. Chuyện là như thế này: Tôi là một trại phó của Trại Tim Mạch, làm ban đêm. Sau khi để các nhân viên khám bệnh và phát thuốc cho các bệnh nhân xong, tôi kiểm soát lại xem các hồ sơ bệnh lý, thuốc uống của bệnh nhân xem có gì thay đổi trong ngày hay không. Tôi phát giác ra nhiều nhân viên đã không ký tên vào chỗ những thuốc đã cho bệnh nhân uống. Khi tôi hỏi, thì nhân viên trả lời đã phát thuốc cho bệnh nhân rồi, nhưng “quên” không ký tên. Tôi cũng đành nhắc nhở họ lần sau nên cẩn thận hơn. Cái quên này thật là thiếu sót trong trách nhiệm, vì nếu một nhân viên nào khác thấy loại thuốc đó chưa ký tên, có nghiã là bệnh nhân chưa uống thuốc và phát thêm cho họ một lần nữa thì hậu quả sẽ ra sao? Vì đây là thuốc trị bệnh tim mạch chứ nào phải thuốc bổ đâu mà muốn uống thêm thì uống.
Cái quên của tuổi trưởng thành.
Người đời thường nói là chẳng mấy ai là không bị quên. Thật đúng vậy. Vợ tôi đã nhiều lần nhắc nhở tôi về việc tôi quên cắm lại điện cho cái tủ lạnh, sau khi tôi rút cái phích cắm điện của cái tủ lạnh ra để sử dụng điện cho các việc khác. Thế mà, sau khi sử dụng xong, tôi lại quên bẵng nó đi làm các thức ăn trong tủ lạnh bị hư thối, mốc meo.
Đối với nhiều người đang ở tuổi trung niên, khỏe mạnh thế mà đã bị bệnh quên mới lạ chứ. Thí dụ như các bà đi chợ thì quên mang tiền, hay ra đến chợ thì quên mua món đồ mình muốn mua. Đến khi về đến nhà thì mới nhớ ra mình còn thiếu món này, món nọ.
Cũng lắm khi mua và trả tiền rồi nhưng lại để quên đồ đạc ở ngòai tiệm. Bởi vậy, ông bà ta đã có câu: “Ra đến chợ, hàng qùa thì nhớ mà hàng chợ thì quên!”
Còn các ông thì vui quá mà quên mất tên bạn, quên mình đã nói gì và quên cả đường về nhà. Tôi vẫn nhớ câu chuyện của một người bạn đã kể cho tôi nghe. Gần nhà anh ta có một người bạn thân, anh bạn thân thường đến nhà anh ta ăn uống, nhậu nhẹt. Thế mà có lần khi tiệc rượu giữa chừng, anh bạn thân quay qua anh ta và hỏi:
- “Này đằng ấy tên là gì vậy, làm ơn cho tớ biết với.”
- “Biết để làm gì?” Người bạn chủ nhà hỏi lại.
- “Thì tớ biết, để tí nữa lúc về, tớ mới biết tên đằng ấy để mà chào.”
Tôi cũng bị quên một cách lãng xẹt như thế này nữa. Xin bạo dạn nói lên cho mọi người nghe. Ở trên nhà định xuống bếp lấy một cái gì đó ở dưới bếp, nhưng khi xuống bếp thì quên chẳng biết mình xuống bếp để làm gì nữa. Tôi đành phải trở đi lên nhà, ngẫm nghĩ đôi phút rồi mới nhớ ra cái lý do mình đi xuống bếp.
Có đôi lần, tôi đã ăn cơm ban chiều rồi mà ít tiếng sau đó, tôi cảm thấy bụng đói và cứ nghĩ là mình chưa ăn cơm chiều. Tôi không thể nào nhớ là mình đã ăn cơm chiều lúc nào, với các thức ăn gì. Phải đợi nhà tôi nhắc nhở lại, tôi mới chịu là mình đã ăn rồi. Cái quên này thì thật là giống cái quên của các cụ lớn tuổi trên 85. Nếu mà cứ thường xuyên xảy ra, thì chắc chắn tôi bị bệnh mất trí nhớ rồi còn gì nữa phải không nào.
Một trong những cái quên tôi sợ nhất là quên hẹn, hay quên lời đã hứa với con, cháu và với các cụ gìa. Thế mà trong đời tôi, đôi lần tôi đã bị vấp phạm làm con cháu hoặc các cụ già phải đợi mong, vất vả chờ ngóng. Có lẽ tại làm việc nhiều qúa nên quên. Tôi chắc một điều là các cha, các cụ cũng có ngày quên làm lễ giỗ cho giáo dân đã xin. Hoặc các bác sĩ quên giờ, để đúng hẹn với bệnh nhân khiến khách hàng phải chờ đợi lâu.
Cũng có người để đồ vật trong túi áo mà cứ yên chí là cất nó ở trong tủ, nên kiếm không thấy và cho rằng đã bị kẻ xấu lấy trộm mất, rồi họ nghi cho kẻ này người nọ lấy. Tôi cũng không thoát khỏi điều này, có lúc cất tiền ở trong tủ mà lại nghĩ mình bỏ trong túi quần, đến khi cần thì sờ đến túi quần không thấy. Hoặc có khi tôi để cặp mắt kiếng ở chỗ này mà lại yên chí, nhớ và đi tìm nó ở chỗ khác nên chẳng kiếm thấy. Đã biết mình hay bị quên, nên tôi đành âm thầm chẳng dám kêu ca và hồ nghi cho ai cả. Tôi chỉ biết đợi thời gian trôi qua may ra tìm thấy, may ra thì nhớ lại được, hoặc có khi vợ tôi tìm thấy cho tôi.
Tôi cũng đã tập thói quen là cất giữ các đồ vật vào đúng chỗ đã định, cấm con cháu không được đổi dời chỗ của những vật dụng trong phòng của tôi. Thế nhưng vẫn có trường hợp ngọai lệ. Nhưng tôi biết chắc một điều là chẳng có ai vào lấy cái kìm, cái mỏ lết, cái tô vít hay cái chià khóa xe của tôi bao giờ cả, ngay cả tiền bạc của tôi, con cháu cũng chẳng có ai tự ý lấy tiêu dùng mà không xin tôi.
Cái quên của bệnh Alzheimer.
Có cái quên thường xảy ra cho các cụ già trên sáu mươi lăm tuổi, như cái quên của người bị chứng bệnh Alzheimer. Triệu chứng của bệnh này là “quên” bởi sự tổn hại của bộ não do tắc nghẽn mạch máu cung cấp cho não tạo nên. Cứ theo thống kê của dân Úc vào năm 2003 đã có hơn hai trăm ngàn người Úc bị chứng bệnh quên này, cần được chăm sóc. Phần đông người bệnh là phái nữ và thuộc giới có trình độ học vấn thấp.
Khoảng ba mươi năm trước đây. Cạnh nhà ba mẹ tôi có một bà cụ độ chừng 80 tuổi. Bà ta ngày nào cũng kêu mất trộm, hôm thì kêu mất cái quần, hôm thì kêu mất đôi dép, có ngày thì kêu mất cái áo.
Bà cụ bắt các con cháu đi tìm cho bằng được mới thôi. Các con cháu tìm chung quanh phòng không thấy, nhưng cuối cùng mới biết cụ đã mặc hai quần hoặc hai áo, nên khi họ kiếm ở trong bọc thì không thấy. Sau này tôi làm việc thiện nguyện ở các viện dưỡng lão cũng thường thấy tình trạng này xảy ra cho các bà cụ.
Ở đất nước Úc này, tôi đã gặp một cụ già độ ngoài 75 tuổi. Ông cụ bị bệnh quên, đi lang thang ở ngoài đường và gặp tôi, cụ hỏi:
“Này anh, anh có biết nhà bà cụ Lan ở đâu không, làm ơn chỉ cho tôi biết với”.
Vì tôi biết bà cụ Lan là tên của vợ ông, nên tôi đã chở ông về đến nhà. Ông cụ quên cả tên mình, quên cả nhà của mình, nhưng lại nhớ tên của cụ bà. Kinh nghiệm này, khiến tôi nghĩ khi về già chắc phải dặn con cháu làm cho cái bảng tên, điạ chỉ, số điện thoại đeo trước ngực, để phòng hờ khi tôi bị lẫn đi ra ngoài đường còn có người dẫn về nhà.
Cái quên của người điên.
Theo truyện cổ Trung Hoa, có một câu chuyện về người điên mà tôi rất thích. Truyện kể như sau:
Ở một làng kia, có một người bị bệnh điên, anh không nhớ gì cả, chẳng nhận ra vợ con, cha mẹ. Anh ta đi lang thang khắp mọi nơi, ai cho gì thì ăn nấy, không đòi hỏi gì cả, chẳng phá phách gì của ai. Người nhà của anh ta tìm đủ mọi thầy thuốc để chữa lành bệnh cho anh. Sau một thời gian dài chữa bệnh, anh ta đã dần dần phục hồi trí nhớ và nhận biết được mọi người chung quanh.
Nhưng sau khi đã trở lại bình thường, anh ta vào bếp cầm lấy con dao phay to, rượt vợ con để chém. Hàng xóm chạy sang can ngăn, hỏi lý do tại sao lại rượt vợ con để chém.
Anh ta trả lời: Khi xưa tôi điên thế mà lại sướng, không phải lo gì, nghĩ gì, và nhớ những gì cho mệt óc. Tôi đang sung sướng như thế thì tại sao lại chữa cho tôi lành bệnh. Để giờ đây tôi phải lo, phải nghĩ, phải nhớ, phải tính toán và phải khổ sở như thế này. Đó là lý do tại sao tôi tức giận, cầm dao rượt chém vợ con của tôi.
Có cái quên mà người đời gọi là quên ơn.
Ở thời xa xưa, thời của Chúa Giêsu cũng có nhiều người quên cùng một lúc, như bài trích Phúc Âm của thánh Luca chương 9, từ câu 12 đến câu 19. Về mười người phong cùi đã được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bệnh. Thế mà chỉ có một mình người thuộc xứ Samaria, ngọai giáo đã trở lại cám ơn Chúa Giêsu mà thôi, còn chín người khác nữa sau khi đã được chữa lành, khỏi bệnh, họ đã quên không trở lại để cám ơn.
Thời nay, nhiều người vượt biên tỵ nạn cũng thế. Họ đã kêu cầu, khấn hứa cùng trời đất, cùng các đấng thiêng liêng, cùng Thiên Chúa rằng sau khi họ đến được bến bờ bình an, họ sẽ ăn ngay ở lành, làm việc phúc đức để đáp trả lại ơn mà Thượng Đế đã ban cho họ trong lúc hiểm nguy như thoát khỏi hải tặc, được đi định cư vv.
Thế nhưng, rất nhiều người đã quên lời khấn hứa ấy, khi họ đã được an cư, lạc nghiệp ở đất nước tự do.
Dân Do Thái ngày xưa cũng vậy. Những người đã từng được Chúa Giêsu chữa khỏi bệnh tật. Những người đã từng được ăn bánh và cá no nê vào những chiều tối, nơi hoang điạ. Những người đã đi theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Những người đã từng tung hô Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Chúa mà đến, khi Người tiến vào thành thánh Giêrusalem. Thế mà họ cuối cùng đã quên. Họ quên hết các phép lạ Người đã làm cho họ, để rồi họ quay trở lại chống đối, lên án, đánh đòn và đem Người đi đóng đanh trên thập giá cho đến chết.
Có cái quên tốt lành.
Chúa Giêsu, vì tình yêu đối với nhân loại. Người đã quên hết mọi lỗi phạm của dân chúng đối với Người. Người khóc thương cho dân thành Giêrusalem, và trước khi chết Người đã cầu nguyện cùng Chúa Cha cho họ:
“Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Luca chương 23, câu 34.
Các linh mục, tu sĩ, các y tá, dược sĩ, bác sĩ và những người làm việc thuộc loại bí mật như lực lượng cảnh sát, quân sự, quốc phòng, và các đoàn thể như hội đoàn Legio Mariae. Họ là những người được huấn luyện để quên, để khỏi tiết lộ những tin tức cá nhân của bệnh nhân, của đơn vị, của quân đội, của quốc phòng.
Thí dụ như Linh mục với phép Bí Tích Giải Tội. Theo cha Nguyễn Tầm Thường đã ví linh mục là những thùng chứa rác tội lỗi, vì qua phép Bí Tích Giải Tội, các cha đã phải nghe biết bao nhiêu tội mà giáo dân đã xưng. Nếu các cha không biết quên, thì các tội ấy như những mùi xu uế sẽ ảm vào người của các cha. Thùng rác ấy trở nên không dùng được nữa, vì mùi hôi của tội lỗi mà con chiên đã bỏ vào thùng rác ấy ngày càng nhiều. Cái quên của người quân binh LegioMariae cũng thế, tất cả mọi điều nghe biết trong phiên họp đều được tuyệt đối giữ bí mật khi bước ra khỏi phòng họp. Cái quên để hoàn thành chức vụ và trách nhiệm của những người kể trên thật là cái quên đáng qúy và tốt lành biết chừng nào.
Trong những lúc làm việc chung với các người lớn tuổi, tôi thường nghe thấy một số các cụ nói về điều này,lỗi nọ của người vắng mặt, một cách rành mạch như chính mình đã mắt thấy tai nghe. Ít có khi nghe nói đến điều tốt, gương sáng của người vắng mặt.
Tôi chợt nhớ về một câu chuyện kể về hai người bạn thân cùng nhau vượt sa mạc.
Một ngày kia, có hai người bạn rất thân thiết cùng nhau vượt sa mạc mênh mông. Trong lúc đi đường mệt mỏi, có một hôm họ cãi vả lẫn nhau và một người bị bạn của mình đấm vào mặt. Anh ta lặng lẽ ngồi xuống và viết lên trên mặt cát giòng chữ như sau;
“Hôm nay, tôi bị người bạn thân nhất của tôi đấm vào mặt.”
Thế rồi, hai người lại tiếp tuc đi cho đến một ngày kia, họ tìm thấy một ốc đảo. Người bị đấm vào mặt xuống tắm, chẳng may bị lún vào chỗ cát di động, và anh ta được người bạn thân cứu thoát. Khi lên tới chỗ an toàn, anh ta tìm một tảng đá lớn và viết vào giòng chữ như sau:
“Hôm nay, tôi đuợc người bạn thân nhất của tôi cứu thoát, khỏi bị lún trong sa mạc.”
Người bạn thân của anh ngạc nhiên, hỏi anh ta tại sao khi bị đấm vào mặt thì viết trên cát, và khi được cứu thoát thì anh ta lại viết trên đá.
Người bị đấm vào mặt im lặng đôi phút rồi trả lời:
“Khi tôi bị làm tổn thương, thì tôi viết trên cát, để gió thổi có thể xóa nó đi mau chóng. Còn khi tôi nhận ơn của anh, thì tôi phải ghi trên đá, để đời đời tôi nhớ ơn anh.”
Hy vọng, chúng ta biết quên đi những tổn thương mà kẻ khác đã làm cho chúng ta, và để nhớ mãi về những ơn mà người khác đã làm cho chúng ta.
Tóm lại, tôi còn quên xót rất nhiều cái quên đáng viết để mọi người đọc.
Ước gì cái bệnh quên đến đúng lúc với mọi người trong lúc tuổi già. Để chúng ta có thể quên đi những lỗi lầm trong qúa khứ của nhau, biết nhớ về những điểm tốt lành của tha nhân. Để học hỏi, bắt chước gương sáng của nhau, và để cùng nhau xây dựng Nước Chúa. Amen.
Linh Đạo Hôn Nhân hiện đại: Thừa tác vụ Hôn nhân
Vũ Văn An
11:35 17/02/2008
Linh Đạo Hôn Nhân hiện đại: Thừa tác vụ Hôn nhân
5. Thừa Tác Vụ Hôn Nhân
Trong sách này, chúng tôi đã đề cập tới ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân. Thực tại tôn giáo của hôn nhân đụng chạm tới cả cuộc sống nội tâm của yêu thương hỗ tương và cam kết lẫn việc nó tham dự vào sứ mệnh to lớn hơn của Chúa Giêsu. Chính cuộc sống nội tâm của hôn nhân đã phát hiện cho ta thấy quyền năng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ta ngạc nhiên khi thấy diễn trình đầy huyền nhiệm gồm cả tận tụy lẫn ngã lòng, cả niềm vui lẫn thỏa hiệp, cả hoài nghi lẫn hạnh phúc từng nối kết chúng ta lại với nhau trong yêu thương. Đôi khi ta biết rõ một cách đáng sợ rằng cái hình ảnh rắc rối và lắm lúc mỏng dòn về cuộc sống chung kia hoàn toàn tùy thuộc ở ta, mà cũng không hẳn hoàn toàn tùy thuộc ta. Nó vừa là trách nhiệm của ta, mà đồng thời cũng là một tặng phẩm ta nhận được.
Lấy nhau trong Chúa là cảm nghiệm được quyền năng và sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống chung của ta: là nhận ra tình yêu hàn gắn của Ngài trong tình yêu em dành cho anh; là cảm nghiệm được lời mời gọi mầu nhiệm của Chúa trong thách thức tăng trưởng và thay đổi cuộc sống chung; là cảm nhận được niềm vui khoái của Chúa trong niềm vui ân ái với nhau của bọn mình; là thấy được sự mầu mỡ phong phú của Chúa trong huyền nhiệm con cái mình. Nhưng ở đây cũng như bất cứ nơi nào khác, cái nhìn Kitô giáo không tự đóng khung chính mình (self-contained). Ta thấy là để ta có thể sống biến đổi nhờ cái thấy đó. Lấy nhau trong Chúa là có được đôi mắt để nhìn ra một ý nghĩa và một hiện diện sâu sắc hơn trong tình yêu hai đứa mình. Nó cũng là việc đáp ứng lại sự hiện diện kia, một hiện diện mời gọi ta cùng nhau vươn quá hiện trạng “chỉ có hai đứa mình” mà ý thức được sự can dự vào công việc của Chúa trong trần gian. Là tín hữu, ta dự phần vào sứ mệnh của Chúa Giêsu: qua các hành vi đức tin và công lý, ta tuyên xưng với các thế hệ tương lai rằng Thiên Chúa chúng ta quả là Chúa Tể. Đối với nhiều người chúng ta, hôn nhân là chủ yếu đối với mục đích tôn giáo rộng lớn hơn của đời ta này. Hôn nhân thử nghiệm và củng cố giá trị nền tảng là các cam kết vốn lên khuôn cuộc sống ta. Chính trong hôn nhân và cuộc sống như gia đình của mình, cảm nghiệm về Thiên Chúa của ta được thâm hậu và tinh lọc. Con cái ta đặc thù hóa và mở rộng cảm thức nơi ta rằng ta liên kết với cả cộng đồng nhân loại và chịu trách nhiệm về tương lai của nhân loại ấy.
Hôn Nhân Như Nguồn Thừa Tác Vụ
Cộng đồng đức tin can dự vào thực tại tôn giáo của hôn nhân. Giáo Hội có một thừa tác vụ đối với hôn nhân: nâng đỡ mối liên hệ, sự cam kết và lối sống của hôn nhân Kitô giáo vốn được coi là hậu cảnh của kinh nghiệm và trưởng thành tôn giáo cho rất nhiều tín hữu. Nhưng dịch vụ đối với hôn nhân này không phải là mối liên kết duy nhất giữa hôn nhân và thừa tác vụ của cộng đồng đức tin. Mà còn có cả một thừa tác vụ dành cho các Kitô hữu đã lập gia đình nữa. Thừa tác vụ là dấu chỉ sự trưởng thành về mặt tôn giáo. Nó được chờ mong, hay đúng hơn nên được chờ mong, nơi tất cả mọi tín hữu đã trưởng thành, không phải chỉ là những vị được nhận diện như là chuyên nghiệp mà là cái khối đại đa số trong cộng đồng đức tin này, mà phần đông lấy vợ lấy chồng, chứ không phải theo đuổi “nghề nghiệp” tu trì. Đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Giáo Hội ngày nay đang bắt đầu chờ mong, một lần nữa, thứ thừa tác vụ của các tín hữu trưởng thành này. Quả là những bước đầu quan trọng. Nếu các Kitô hữu có gia đình được quan niệm chủ yếu chỉ như các đối tượng hay người lãnh nhận thừa tác vụ của Giáo Hội, thì các chương trình từ thừa tác vụ ấy chỉ càng tăng cường tính thụ động và khó lòng góp phần được gì vào tính trưởng thành tôn giáo của họ. Tự quyết, tự lập và tự động lực hóa bản thân mới là dấu chỉ của hành động trưởng thành. Giáo Hội ngày nay được thách thức phải khai triển các phương cách giúp các Kitô hữu có gia đình, và nói tổng quát hơn, các giáo dân Kitô giáo, biết đem những điểm mạnh của tự quyết, tự lập và tự động lực hóa bản thân kia vào cuộc đối thoại hiện đang tiếp diễn trong cộng đồng đức tin. Có nhiều dấu chỉ cho thấy việc ấy không dễ dàng gì, nhưng sự chín mùi tôn giáo chỉ xuất hiện nhờ cách đó mà thôi.
Như thế, hôn nhân và gia đình không phải chỉ là đối tượng của thừa tác vụ Kitô giáo, trong tư cách chỉ là những mối liên hệ cần được chăm sóc và thừa tác cho. Hôn nhân và gia đình tự nó là một nguồn tài nguyên của cộng đồng đức tin, một nguồn cung cấp năng lực và tầm nhìn, một nguồn của thừa tác vụ Kitô giáo. Trong chương cuối cùng này, chúng tôi muốn tóm kết các thể tài khác nhau đã được bàn tới vào chủ đề chung là thừa tác vụ của hôn nhân và gia đình Kitô giáo. Ở đây chúng tôi muốn bàn đến động lực và công lực tôn giáo của hôn nhân.
Thừa tác vụ của hôn nhân này phân thành hai hướng: chăm sóc mình và chăm sóc quá bên ngoài mình. Sự kiện hôn nhân và gia đình Kitô giáo phải tự thừa tác lấy mình, chứ không phải chỉ đơn giản ngồi chờ một thừa tác viên được chính thức đề cử tới thừa tác cho mình đã được nhìn ra ngay trong Bí Tích Hôn Phối: cặp vợ chồng chính là thừa tác viên, là chủ tế bí tích này. Và vì bí tích Hôn Phối không chấm dứt với một nghi thức duy nhất nhưng tiếp diễn cùng với sự tăng trưởng của hôn nhân, ta phải đặt câu hỏi là đôi vợ chồng tiếp tục cử hành bí tích này ra sao. Họ tiếp tục thừa tác ra sao đối với mối liên hệ của chính họ và gia đình đang tăng trưởng của họ?
Thanh Tẩy Các Hoài Mong
Tóm lược các điểm đã bàn từ trước đến nay, ta có thể kể ra hai loại thừa tác vụ gia đình hết sức quan trọng. Loại thứ nhất quan tâm tới các giả thiết ta thừa tự được về hôn nhân; ta có thể đặt tên cho loại này là thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong của ta. Khi kết hôn, ta đem theo với mình một loạt các giả thiết phong phú và phức tạp về điều hôn nhân “nên là”. Các giả thiết này thường là những giả thiết không được nói ra, ngay cả với chính ta. Chúng thường được thừa tự từ các cảm nghiệm ta có về cha mẹ và gia đình mình, từ nền giáo dục Kitô giáo và từ những mô tả về hôn nhân trong đời sống văn hóa của ta. Ta “biết”, một cách không suy nghĩ, hôn nhân là gì, vợ chồng giả thiết phải hành xử ra sao, con cái phải được nuôi dưỡng như thế nào. Một số các hoài mong này tốt và có giá trị; số khác có thể phá hoại hay đơn thuần không xứng hợp với cuộc hôn nhân của ta. Quan trọng hơn hết, chúng xem ra ở bên ngoài ta, ít nhất cũng ở buổi đầu cuộc sống trưởng thành của ta. Phần nhiều chúng là hoài mong của một ai khác chứ không phải của chính ta, chúng là những “của thừa tự” ta mang theo với mình vào hôn nhân.
Khi hôn nhân chín mùi hơn, ta sẽ có được một hiểu biết sâu sắc hơn mình là ai, cuộc hôn nhân và cái gia đình đặc thù này đã nên như thế nào rồi. Ta sẽ bắt đầu một diễn trình cần thiết cùng nhau suy tư về các hoài mong của mình và đánh giá xem hoài mong nào thích hợp với cuộc sống chung và hoài mong nào không thích hợp với nó. Diễn trình này chính là cuộc hành trình đi vào thế giá và tính độc đáo của cuộc nhân của mình. Rất có thể lúc khởi đầu cuộc sống chung, ta tưởng tranh chấp không có chỗ đứng trong hôn nhân. Vì ta được người ta dạy rằng tranh chấp và tranh đua chỉ có hại, nên không thể có chỗ đứng trong căn nhà của chúng ta. Bởi thế khi tranh chấp nổ ra, như nó phải nổ ra, ta bèn bối rối và xấu hổ: cảm nghiệm của ta do đó không đi đôi với hoài mong của ta. Điều này làm ta bẽ mặt và dẫn ta đến việc giập tắt tranh chấp. Ta ráng làm lơ nó vì ta thấy nó không nên có mặt ở đây. Kiểu đáp ứng khác, và là kiểu điển hình cho một thừa tác vụ hữu hiệu đối với mối liên hệ của ta, là khảo sát cái giả thiết ấy về tranh chấp. Ta đã học điều ấy từ đâu và nó giá trị đến mức nào? Há truyền thống Kitô giáo và các nghiên cứu tâm lý học không từng cho thấy tranh chấp vốn là một phần trong bất cứ mối liên hệ có ý nghĩa nào và nó vốn là phương thế mạnh mẽ để tăng trưởng, để thân mật thêm lên rất nhiều đó sao? Há sự chờ mong của ta đối với tranh chấp chỉ là một giả thuyết ngây thơ và vô ích đó sao? Diễn trình suy tư này, nếu được cùng nhau đưa ra, dù là một cách lộn xộn đi chăng nữa, cũng là một thanh tẩy đối với các hoài mong. Nó là một phần trong nhiệm nhặt học quan trọng đang khai diễn về hôn nhân Kitô giáo, một nhiệm nhặt học ta có trách nhiệm phải khai trriển.
Một hoài mong khác được ta mang theo vào hôn nhân có lẽ là mình sẽ thoả mãn được mọi nhu cầu của nhau. Vừa là bạn, vừa là người yêu và người đồng hành: tình yêu hỗ tương của hai đứa mình nồng nàn đến nỗi chẳng đứa nào trong bọn mình thèm một ai khác. Nhưng hôn nhân càng lớn thêm, ta càng thấy cuộc đời chẳng giống như thế. Ta không thể mà cũng chả dám cả quyết ta là tất cả mọi sự đối với nhau. Phải chăng điều ấy có nghĩa là ta đang đi trật ra ngoài tình yêu dành cho nhau hay hôn nhân của ta đang rơi vào thất bại? Có thể như thế lắm, nhưng cũng có thể đó chỉ là dấu chỉ cái hoài mong đầy chất lãng mạn của tuổi trẻ kia đang được thanh tẩy. Cái giả thuyết chung chung về hôn nhân kia đang được kinh nghiệm hôn nhân của ta thử nghiệm và lên khuôn lại. Đây là một cuộc thanh tẩy và là một thứ kỷ luật vì nó thách thức các ý niệm và lý tưởng vốn được ta trân quí, những ý niệm và lý tưởng được ta mang theo với bản thân mình. Và ta biết rằng đơn giản sống cuộc hôn nhân và đời sống gia đình theo những hoài mong ta có được từ bên ngoài và có khi từ ngay bên trong mình đi chăng nữa là làm ngơ, là quên khuấy nét duyên dáng đặc thù trong tình yêu của ta.
Khi khởi sự suy tư về những giả thuyết ta đã đem vào hôn nhân, có lẽ ta đã thấy con số những giả thuyết này không phải là nhỏ: nào là giả thuyết liên quan đến anh phải là ông chồng nuôi sống gia đình, còn em chỉ là bà vợ; nào là hoài mong liên quan đến việc mình phải làm tình ra sao và bao nhiêu lần một tuần; lại còn giả thuyết mình phải có bao nhiêu nhóc tì mà một “cặp vợ chồng Công Giáo tốt” buộc phải có. Mình cũng thấy hôn nhân của mình là giao điểm của nhiều hoài mong, cả của anh lẫn của em; các giả thuyết không nói ra ấy xuất hiện qua những đòi hỏi tế nhị và không tế nhị vợ chồng mình khoác lên nhau.
Thanh tẩy hoài mong là một thừa tác vụ chuyên biệt mà hai vợ chồng được mời gọi đảm nhiệm; nó thử nghiệm tính co dãn (resiliency) trong hôn nhân. Rất có thể ta sẽ bối rối hay mất hướng khi các giả thuyết ta ưa thích từ lâu nay bị tấn kích. Có khi ta còn đau đớn hay buồn khổ khi buộc phải từ bỏ những giả thuyết lâu đời nhưng không còn thích hợp với cuộc hôn nhân của mình nữa. Nhưng, trong thanh tẩy, ta cũng có thể nhìn về phía trước, hướng tới một gọt dũa tinh tuyền hơn cho cuộc tình của mình. Trong diễn trình tinh lọc mà ta là thừa tác viên chính này, ta biến cuộc hôn nhân của ta thành hoàn toàn là của ta. Nó vẫn là một cuộc hôn nhân Việt Nam và Kitô giáo vì đây không phải là một hành trình đi tìm tư riêng. Cuộc hôn nhân Việt Nam và Kitô giáo này nay đã trở thành của ta cách trọn vẹn hơn, với các biểu thức yêu thương, tranh chấp và thông đạt, các khuôn mẫu sinh hoạt gia đình và tham dự vào xã hội thích ứng với ơn gọi hôn nhân đặc thù của ta.
Khả năng thi hành thừa tác vụ này, cũng như các thừa tác vụ khác mà vợ chồng được mời gọi, thực ra cũng đặt căn bản trên một hoài mong. Đó là hoài mong: vợ chồng sẽ lãnh lấy trách nhiệm tôn giáo làm cho hôn nhân của mình trở nên chín chắn. Cuộc sống chung của ta không diễn tiến cách tự động hay tự nhiên, mà ta cũng không mong chờ một thừa tác viên Kitô giáo được cử nhiệm nào đó đứng sẵn bên cạnh để nâng đỡ diễn trình tăng trưởng của ta. Vì ta là thừa tác viên của bí tích Hôn Phối, nên ta cũng phải liên tục là thừa tác viên của diễn trình bí tích đang diễn biến này. Lòng hoài mong vào năng lực tôn giáo của ta là một hoài mong mà Giáo Hội Kitô giáo và các thừa tác viên của Giáo Hội này rất sẵn sàng đem tới cho các cặp vợ chồng.
Thừa tác vụ nội tại về hôn nhân và gia đình này đòi phải có cả tầm nhìn lẫn nhân đức. Ta có thể nói rằng thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong bắt đầu bằng một tầm nhìn, tức là thấy mình có khả năng cùng nhau đối chất thách thức. Sau đó, nhờ nhân đức, ta sẽ theo đuổi thừa tác vụ này. Tóm lại, hai vợ chồng phải được trang bị đầy đủ cho trách nhiệm nhiều đòi hỏi này. Các kỹ năng chuyên biệt giúp hai vợ chồng chia sẻ tâm tư tình cảm một cách cụ thể và không đổ lỗi lẫn nhau và các kỹ năng giúp họ xử lý các tranh chấp sẽ lên khuôn hình thực tiễn cho thừa tác vụ này.
Cử Hành Trong Gia Đình
Cách thứ hai trong đó gia đình tự thừa tác cho chính mình liên quan đến các thực tại chính yếu của đức tin Kitô giáo. Đó là việc tha thứ và cử hành sự hiện diện của Chúa. Mới gần đây thôi, người ta vốn hiểu bí tích Thống Hối và bí tích Thánh Thể rõ ràng tách biệt hẳn cuộc sống hàng ngày của gia đình. Việc thống hối thời đó hoàn toàn là việc riêng giữa Chúa và linh hồn, được thi hành trong nhà thờ. Mối liên kết giữa bí tích và sự tha thứ mà cuộc sống như gia đình thường đòi hỏi và cảm nghiệm vốn dễ dàng bị làm ngơ. Cuộc canh tân bí tích Hòa Giải đã nhấn mạnh nhiều hơn tới các khía cạnh cộng đoàn và công khai của hành vi ăn năn thống hối và tha thứ này. Như đã đề cập tại Chương 24, bước kế tiếp chắc chắn sẽ bao gồm các cố gắng tìm cho ra các phương thế đơn giản và hữu hiệu để gia đình có thể tham dự cách trực tiếp vào việc cử hành sự tha thứ theo Kitô giáo. Nếu hôn nhân và gia đình được kêu gọi tự thừa tác lấy mình, thì lời kêu gọi này chắc chắn phải bao gồm việc học hỏi các cách thế biết tha thứ lẫn nhau. Một nghi thức đơn giản cho gia đình sẽ là nghi thức giúp vợ chồng và gia đình tham dự mạnh mẽ hơn vào hành vi chính yếu này của Kitô giáo. Một khai triển như thế, hiện đang xẩy ra trong nhiều gia đình Kitô giáo, sẽ không hạ giá bí tích Hòa Giải, trái lại, còn làm nó tăng sinh lực hơn.
Hành vi tôn giáo chính yếu thứ hai của cộng đồng Kitô giáo là cử hành sự hiện diện của Chúa. Cuộc canh tân phụng vụ trong Giáo Hội Công Giáo trong mấy thập niên qua đã biến kinh nghiệm này từ “Thánh Lễ do linh mục đọc” thành “Lễ Tạ Ơn do cộng đoàn cử hành”. Tuy nhiên, sự tăng gia tham dự của người giáo dân cho ta thấy cái phần vẫn chưa được phát triển trong thừa tác vụ Kitô giáo: đó là việc cử hành sự hiện diện của Chúa ngay tại gia đình. Nhiều lý do phức tạp thuộc lịch sử đã dẫn tới việc hạn chế các bí tích Hoà Giải và Thánh Thể trong phạm vi nhà thờ cũng như chỉ do các giáo sĩ cử hành. Nhưng vì nay việc hòa giải Kitô giáo đã được di chuyển ra khỏi tòa giải tội, thì việc cử hành sự hiện diện của Chúa cũng đang được thực hiện bên ngoài cung thánh. Việc linh mục cử hành “thánh lễ tại gia” cho thấy ý niệm chính gia đình thực hiện một cử hành tương tự như thế không còn xa lạ nữa. Người ta có thể so sánh việc người chủ gia đình Do Thái cử hành bữa ăn Vượt Qua (Seder) với việc người Kitô hữu cử hành sự hiện diện của Chúa trong tương lai. Trạng huống nhăn nhó của thừa tác vụ gia đình này có thể nhận ra trong lời cầu nguyện khiêm tốn của gia đình trước bữa ăn tối. Nhưng hiện nay, ở nhiều nơi, các gia đình đang thử nghiệm một số hình thức đơn giản để cử hành cả các dịp vui lẫn các dịp buồn trong cuộc sống chung của họ. Những cử hành sự hiện diện của Chúa trong các biến cố quan trọng của cuộc sống gia đình ấy sẽ không thay chỗ lễ Tạ Ơn chung nơi giáo xứ cũng như các cộng đoàn khác nhưng sẽ bổ túc và củng cố nó.
Người Công Giáo đang được dạy rằng có nhiều cách khác nhau để cử hành cả sự tha thứ lẫn sự hiện diện của Chúa. Một số cách đó phải xẩy ra trong các cộng đoàn chính thức, rộng lớn hơn, với các vị cử hành thay mặt cho cộng đoàn và Giáo Hội nói chung. Một số khác xẩy ra trong gia đình và xem ra hai vợ chồng là những người cử hành thích hợp. Hình thức thừa tác vụ bên trong gia đình này còn có một chức năng mạnh mẽ khác: nó dạy con cái ta biết người Kitô hữu phải sống ra sao. Vì hiện nay, ảnh hưởng của các trường Công Giáo đang suy giảm ở một vài khu vực, nên cha mẹ ngày càng được mời gọi tham gia thừa tác vụ này. Ta không còn có ai khác để huấn luyện đức tin cho con cái mình nữa. Nên gia đình một lần nữa đã trở thành địa điểm cho việc đào tạo tôn giáo này. Đối với việc đào tạo ấy, thử hỏi còn có tập chú nào tốt bằng việc gia đình thực hiện tha thứ và cử hành sự hiện diện của Chúa trong các biến cố đời mình? Giống như thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong, thừa tác vụ này cũng cần phải có tầm nhìn và nhân đức: ta phải biết chờ mong nó và khai triển một số kỹ năng căn bản trong việc chia sẻ và cử hành.
Thừa tác vụ hôn nhân cũng được điều hướng để vượt quá nó. Gia đình Kitô giáo là một tài nguyên cho chính nó nhưng cũng là tài nguyên cho cộng đồng rộng lớn hơn. Nó cũng khởi đầu với tầm nhìn và hoài mong: ta phải coi gia đình mình không phải chỉ cho riêng mình. Có nhiều lực đẩy trong cuộc sống của ta hiện nay, như các động lực thúc đẩy ta thèm muốn cho con cái mình trổi vượt cũng như bảo vệ gia đình mình khỏi tội ác và bạo lực. Những lực đẩy này đủ khiến một gia đình tự quay vào chính mình. Khiến nẩy sinh ra cái tâm thức “ta đối mặt với cả thế giới”. Ta liều mình dùng hết mọi cố gắng của mình vào việc đem lại cho cái những điều tốt nhất; chả còn lại gì, cả năng lực lẫn tiền bạc, cho bất cứ ai khác. Nhiều gia đình Kitô giáo ngày nay cảm thấy sâu sắc mình đang rơi vào cơn cám dỗ của gia đình hạch nhân này: cơn cám dỗ cả tập thể quá tự yêu mình (collective narcissism). Việc tự quay vào chính mình mà đôi lúc xem ra rất cần thiết này đã tách biệt ta với người khác, nhất là những ai “không cùng loại” với ta, người xa lạ, người bị bóc lột, người ở ngoài lề được cả Cựu lẫn Tân Ước nhắc đến. Nhiều người chúng ta bị xâu xé giữa các đòi hỏi gắt gao của gia đình mình (“bác ái từ nhà bác ái ra”, ta vốn nhủ ta như thế!) và các nhận xét lặp đi lặp lại vốn làm ta bối rối của Chúa Giêsu: “Ai chuộng cha mẹ hơn Ta không xứng với Ta. Ai chuộng con cái hơn Ta không xứng với Ta” (Mt 10:27). “Ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta” (Mc 3:35). Giải pháp cho thách thức này là để gia đình tìm ra lối đi giữa mặc cảm tội lỗi và đành bỏ rơi. Chúng ta, như gia đình này, được mời gọi góp phần ra sao vào thế giới rộng lớn ngoài kia, săn sóc người nghèo và kém thế như thế nào? Tính trưởng thành trong đáp ứng của ta tùy thuộc hành trình tìm hiểu thế giá gia đình và hôn nhân của mình: biết được mình là ai sẽ giúp ta có được một cảm thức tốt hơn về việc mình có thể cho mình đi như thế nào.
Thừa tác vụ của hôn nhân Kitô giáo như trên không hẳn là một khám phá mới mẻ gì. Nó vốn luôn luôn là một phần phong phú của các cộng đồng Kitô giáo, một sự kiện có lẽ cần được cử hành nhiều hơn vào lúc này. Bất kể đó là một cặp vợ chồng đã về hưu đang giúp bếp nấu cháo cho Hội Thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô hay một gia đình đang đón tiếp một cặp vợ chồng tị nạn và con cái họ, các Kitô hữu luôn luôn thi hành các thừa tác vụ vượt quá bản thân mình hay “người cùng loại” với mình một cách đầy tương cảm. Khía cạnh mới mẻ của thừa tác vụ này có chăng là ở chỗ mối liên hệ giữa giáo sĩ và giáo dân nay đã thay đổi. Lúc sự phân biệt giữa hai lớp người này còn nổi bật, người ta dễ coi thừa tác vụ chỉ là lãnh vực của hàng giáo sĩ còn giáo dân thì chỉ có mỗi trách nhiệm là đóng góp tài chánh cho thừa tác vụ ấy. Nhưng nay, vì sự phân biệt ấy mỗi ngày một lỏng lẻo hơn, nên các Kitô hữu đã ý thức được rằng họ phải đóng góp nhiều thứ hơn là tiền bạc. Điều này không hẳn chì vì hiện nay không có “đủ” giáo sĩ hay tu sĩ để làm công việc nữa mà còn vì sự tăng trưởng về tôn giáo đòi họ phải tham dự không phải chỉ bằng túi tiền vào sứ mệnh công lý và sót thương. Việc người Công Giáo có gia đình chú tâm nhiều hơn vào loại thừa tác vụ này đang thách thức Giáo Hội phải khai triển các kênh đào mới để chuyển thông loại phục vụ này.
Loại thừa tác vụ vượt quá mình của gia đình này không những được thi hành qua các hoạt động chăm sóc, hàn gắn và đối chất bất công mà thôi, nhưng cũng nhờ việc làm chứng tầm thường hơn mà cũng mạnh mẽ hơn. Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích: nghĩa là một dấu chỉ. Cuộc hôn nhân nào và gia đình nào sống thực ơn gọi đặc biệt của mình sẽ nổi bật giữa trần gian. Các quyết định của họ về tiền bạc và của cải, về việc phải dùng năng lực và thì giờ của mình ra sao, không phải giản đơn chỉ là bản sao các giá trị văn hóa và do đó không được ai chú ý. Xác tín của một gia đình Kitô giáo về điều ai là “đồng loại” của mình sẽ mang lại cho nó một sắc diện khác hẳn; tình yêu thương giữa vợ chồng họ cũng như việc kính trọng nhau giữa cha mẹ và con cái của họ sẽ đem đến cho họ một vóc dáng đặc biệt. Ở đây, thừa tác vụ gia đình đã được một chứng tá hầu như vô thức thực hiện: Đó chính là ý nghĩa và niềm hy vọng của hôn nhân Kitô giáo trong tư cách một bí tích đang không ngừng diễn biến.
Thay Đổi Và Tương Lai Hôn Nhân Kitô Giáo
Sau cùng, chúng tôi xin đề cập tới thay đổi: tới sự sống còn của cam kết hôn nhân trong một thế giới đang thay đổi; tới các hoài mong đang thay đổi của ta đối với hôn nhân, với chia sẻ tính dục, với tranh chấp và nhiều khía cạnh khác của cuộc sống chung. Thay đổi có khi được nhìn như kẻ thù: nó đe doạ điều ta đã đạt được và nay đang được ta trân qúi. Nhưng, như đã bàn luận, thay đổi cũng được quan niệm là người bạn tốt. Nó mang đến cho ta cơ may và những mời gọi mới mẻ; nó bắt ta ra khỏi các khuôn mẫu tác phong cứng ngắc và các liên hệ trì trệ để bước vào các khả thể mang đến cuộc sống mới.
Chính Giáo Hội Công Giáo cũng đang thay đổi sâu sắc trong cái hiểu của mình về hôn nhân. Đôi khi ta thấy mình bị đe dọa bởi nhiều giá trị văn hóa đi ngược lại các hy vọng tôn giáo sâu sắc nhất của mình. Ta cũng có thể bị đe dọa bởi điều nhiều người Công Giáo chúng ta từng gây ra cho tính dục và hôn nhân nhân bản. Khi giải thích tính dục ấy như điều ta dễ sa phạm hơn cả, như cái phần tội lỗi hơn hết trong bản thân mình, là ta đã khoác lên cái phần đáng yêu, tuy đôi khi hơi ngang ngược này, của đời người một cái bóng quá nặng nề. Là Kitô hữu, ta vốn tuyên xưng Chúa đã mặc lấy xác phàm, trở thành một người như chúng ta. Nhưng rồi lại giải thích rằng việc mặc xác phàm ấy không có tính tính dục và không có tính sinh dục (non-sexual and non-genital), do đó mà truyền thừalại một Nhập Thể có sửa đổi.
Nhưng cả điều đó cũng có thể cho ta hy vọng. Nếu, trong tư cách Kitô hữu, ta từng đưa ra những giải thích hơi đen tối ấy về tính dục, thì ta cũng có thể căn cứ trên cảm nghiệm sâu sắc nhất của ta về tình yêu vợ chồng và ơn Chúa soi dẫn mà sửa lại quan điểm về tính dục ấy. Đối với hôn nhân cũng thế. Trong tư cách Kitô hữu, có lúc ta cũng đã giải thích khá cứng ngắc và khắt khe về hôn nhân. Từ một lý tưởng kỳ diệu trong liên hệ yêu thương bền bỉ ta đã làm nó khô cứng trở thành một thực tại siêu hình không thể nào biết thay đổi là gì. Một giải thích như thế, rất thường khi, đã dẫn ta tới việc bất khoan dung đối với những người có cuộc hôn nhân không những chỉ mỏng dòn mà còn tan vỡ nữa. Và một khi đã tưởng tượng rằng mối liên hệ hôn nhân giữa vợ chồng là một “phẩm trật” giữa bề trên và bề dưới, ta khó có thể bỏ qua cái hình ảnh mà giờ đây chẳng còn ăn nhập gì nữa. Nhưng cả ở đây nữa ta cũng hy vọng sẽ có thay đổi trong hình ảnh tôn giáo của ta về hôn nhân và các thay đổi theo hướng hỗ tương đã được khởi đầu trong các thực hành phụng vụ và chăm sóc mục vụ của ta.
Những thay đổi trong cái hiểu tôn giáo của ta về hôn nhân này đem hy vọng lại cho nhiều cặp vợ chồng ngày nay. Chúng cũng đem theo chúng cho ta một cái hiểu sâu sắc hơn về trách nhiệm của chính mình. Bằng hôn nhân của mình, ta cho các thế hệ tương lai hay đối với Kitô hữu, tính dục, hôn nhân và chung thủy là như thế nào. Ta là ngôn sứ, dù tốt dù xấu, của tương lai hôn nhân Kitô giáo. Ta là người truyền thừa, chuyển giao đức tin của mình. Việc chuyển giao này không diễn ra cách trườu tượng; nó mang hình thức cụ thể trong các hành vi thân mật và thủy chung đối với nhau của ta. Ta ráng sống thủy chung là điều nhất thiết phải có hai mặt: thủy chung với quá khứ tôn giáo của mình, với các mạc khải phong phú của nó, và thủy chung với cuộc hành trình hiện nay, với các mạc khải, đôi khi chẳng rõ rệt gì, của nó. Là người thực tế, ta biết chắc mình có thể dễ lầm lẫn như các tổ tiên tôn giáo của mình khi xưa. Về phương diện này, ta đừng mong có những thay đổi quan trọng! Nhưng khi đã tin rằng Thiên Chúa luôn hiện diện với ta, ta có thể dự ứng điều này: trong cuộc hành trình của mình, ta sẽ liên tục gặp gỡ tình yêu của Ngài, trong niềm vui chia sẻ tính dục, trong cảnh thân mật gay cấn hơn của tranh chấp, trong ân hận về tội lỗi liên tiếp của mình, trong sức mạnh của yêu thương tận tụy. Và cùng với diễn tiến của hành trình hôn nhân nói chung, hôn nhân Kitô giáo sẽ tiếp tục được tỏ hiện.
5. Thừa Tác Vụ Hôn Nhân
Trong sách này, chúng tôi đã đề cập tới ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân. Thực tại tôn giáo của hôn nhân đụng chạm tới cả cuộc sống nội tâm của yêu thương hỗ tương và cam kết lẫn việc nó tham dự vào sứ mệnh to lớn hơn của Chúa Giêsu. Chính cuộc sống nội tâm của hôn nhân đã phát hiện cho ta thấy quyền năng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ta ngạc nhiên khi thấy diễn trình đầy huyền nhiệm gồm cả tận tụy lẫn ngã lòng, cả niềm vui lẫn thỏa hiệp, cả hoài nghi lẫn hạnh phúc từng nối kết chúng ta lại với nhau trong yêu thương. Đôi khi ta biết rõ một cách đáng sợ rằng cái hình ảnh rắc rối và lắm lúc mỏng dòn về cuộc sống chung kia hoàn toàn tùy thuộc ở ta, mà cũng không hẳn hoàn toàn tùy thuộc ta. Nó vừa là trách nhiệm của ta, mà đồng thời cũng là một tặng phẩm ta nhận được.
Lấy nhau trong Chúa là cảm nghiệm được quyền năng và sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống chung của ta: là nhận ra tình yêu hàn gắn của Ngài trong tình yêu em dành cho anh; là cảm nghiệm được lời mời gọi mầu nhiệm của Chúa trong thách thức tăng trưởng và thay đổi cuộc sống chung; là cảm nhận được niềm vui khoái của Chúa trong niềm vui ân ái với nhau của bọn mình; là thấy được sự mầu mỡ phong phú của Chúa trong huyền nhiệm con cái mình. Nhưng ở đây cũng như bất cứ nơi nào khác, cái nhìn Kitô giáo không tự đóng khung chính mình (self-contained). Ta thấy là để ta có thể sống biến đổi nhờ cái thấy đó. Lấy nhau trong Chúa là có được đôi mắt để nhìn ra một ý nghĩa và một hiện diện sâu sắc hơn trong tình yêu hai đứa mình. Nó cũng là việc đáp ứng lại sự hiện diện kia, một hiện diện mời gọi ta cùng nhau vươn quá hiện trạng “chỉ có hai đứa mình” mà ý thức được sự can dự vào công việc của Chúa trong trần gian. Là tín hữu, ta dự phần vào sứ mệnh của Chúa Giêsu: qua các hành vi đức tin và công lý, ta tuyên xưng với các thế hệ tương lai rằng Thiên Chúa chúng ta quả là Chúa Tể. Đối với nhiều người chúng ta, hôn nhân là chủ yếu đối với mục đích tôn giáo rộng lớn hơn của đời ta này. Hôn nhân thử nghiệm và củng cố giá trị nền tảng là các cam kết vốn lên khuôn cuộc sống ta. Chính trong hôn nhân và cuộc sống như gia đình của mình, cảm nghiệm về Thiên Chúa của ta được thâm hậu và tinh lọc. Con cái ta đặc thù hóa và mở rộng cảm thức nơi ta rằng ta liên kết với cả cộng đồng nhân loại và chịu trách nhiệm về tương lai của nhân loại ấy.
Hôn Nhân Như Nguồn Thừa Tác Vụ
Cộng đồng đức tin can dự vào thực tại tôn giáo của hôn nhân. Giáo Hội có một thừa tác vụ đối với hôn nhân: nâng đỡ mối liên hệ, sự cam kết và lối sống của hôn nhân Kitô giáo vốn được coi là hậu cảnh của kinh nghiệm và trưởng thành tôn giáo cho rất nhiều tín hữu. Nhưng dịch vụ đối với hôn nhân này không phải là mối liên kết duy nhất giữa hôn nhân và thừa tác vụ của cộng đồng đức tin. Mà còn có cả một thừa tác vụ dành cho các Kitô hữu đã lập gia đình nữa. Thừa tác vụ là dấu chỉ sự trưởng thành về mặt tôn giáo. Nó được chờ mong, hay đúng hơn nên được chờ mong, nơi tất cả mọi tín hữu đã trưởng thành, không phải chỉ là những vị được nhận diện như là chuyên nghiệp mà là cái khối đại đa số trong cộng đồng đức tin này, mà phần đông lấy vợ lấy chồng, chứ không phải theo đuổi “nghề nghiệp” tu trì. Đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Giáo Hội ngày nay đang bắt đầu chờ mong, một lần nữa, thứ thừa tác vụ của các tín hữu trưởng thành này. Quả là những bước đầu quan trọng. Nếu các Kitô hữu có gia đình được quan niệm chủ yếu chỉ như các đối tượng hay người lãnh nhận thừa tác vụ của Giáo Hội, thì các chương trình từ thừa tác vụ ấy chỉ càng tăng cường tính thụ động và khó lòng góp phần được gì vào tính trưởng thành tôn giáo của họ. Tự quyết, tự lập và tự động lực hóa bản thân mới là dấu chỉ của hành động trưởng thành. Giáo Hội ngày nay được thách thức phải khai triển các phương cách giúp các Kitô hữu có gia đình, và nói tổng quát hơn, các giáo dân Kitô giáo, biết đem những điểm mạnh của tự quyết, tự lập và tự động lực hóa bản thân kia vào cuộc đối thoại hiện đang tiếp diễn trong cộng đồng đức tin. Có nhiều dấu chỉ cho thấy việc ấy không dễ dàng gì, nhưng sự chín mùi tôn giáo chỉ xuất hiện nhờ cách đó mà thôi.
Như thế, hôn nhân và gia đình không phải chỉ là đối tượng của thừa tác vụ Kitô giáo, trong tư cách chỉ là những mối liên hệ cần được chăm sóc và thừa tác cho. Hôn nhân và gia đình tự nó là một nguồn tài nguyên của cộng đồng đức tin, một nguồn cung cấp năng lực và tầm nhìn, một nguồn của thừa tác vụ Kitô giáo. Trong chương cuối cùng này, chúng tôi muốn tóm kết các thể tài khác nhau đã được bàn tới vào chủ đề chung là thừa tác vụ của hôn nhân và gia đình Kitô giáo. Ở đây chúng tôi muốn bàn đến động lực và công lực tôn giáo của hôn nhân.
Thừa tác vụ của hôn nhân này phân thành hai hướng: chăm sóc mình và chăm sóc quá bên ngoài mình. Sự kiện hôn nhân và gia đình Kitô giáo phải tự thừa tác lấy mình, chứ không phải chỉ đơn giản ngồi chờ một thừa tác viên được chính thức đề cử tới thừa tác cho mình đã được nhìn ra ngay trong Bí Tích Hôn Phối: cặp vợ chồng chính là thừa tác viên, là chủ tế bí tích này. Và vì bí tích Hôn Phối không chấm dứt với một nghi thức duy nhất nhưng tiếp diễn cùng với sự tăng trưởng của hôn nhân, ta phải đặt câu hỏi là đôi vợ chồng tiếp tục cử hành bí tích này ra sao. Họ tiếp tục thừa tác ra sao đối với mối liên hệ của chính họ và gia đình đang tăng trưởng của họ?
Thanh Tẩy Các Hoài Mong
Tóm lược các điểm đã bàn từ trước đến nay, ta có thể kể ra hai loại thừa tác vụ gia đình hết sức quan trọng. Loại thứ nhất quan tâm tới các giả thiết ta thừa tự được về hôn nhân; ta có thể đặt tên cho loại này là thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong của ta. Khi kết hôn, ta đem theo với mình một loạt các giả thiết phong phú và phức tạp về điều hôn nhân “nên là”. Các giả thiết này thường là những giả thiết không được nói ra, ngay cả với chính ta. Chúng thường được thừa tự từ các cảm nghiệm ta có về cha mẹ và gia đình mình, từ nền giáo dục Kitô giáo và từ những mô tả về hôn nhân trong đời sống văn hóa của ta. Ta “biết”, một cách không suy nghĩ, hôn nhân là gì, vợ chồng giả thiết phải hành xử ra sao, con cái phải được nuôi dưỡng như thế nào. Một số các hoài mong này tốt và có giá trị; số khác có thể phá hoại hay đơn thuần không xứng hợp với cuộc hôn nhân của ta. Quan trọng hơn hết, chúng xem ra ở bên ngoài ta, ít nhất cũng ở buổi đầu cuộc sống trưởng thành của ta. Phần nhiều chúng là hoài mong của một ai khác chứ không phải của chính ta, chúng là những “của thừa tự” ta mang theo với mình vào hôn nhân.
Khi hôn nhân chín mùi hơn, ta sẽ có được một hiểu biết sâu sắc hơn mình là ai, cuộc hôn nhân và cái gia đình đặc thù này đã nên như thế nào rồi. Ta sẽ bắt đầu một diễn trình cần thiết cùng nhau suy tư về các hoài mong của mình và đánh giá xem hoài mong nào thích hợp với cuộc sống chung và hoài mong nào không thích hợp với nó. Diễn trình này chính là cuộc hành trình đi vào thế giá và tính độc đáo của cuộc nhân của mình. Rất có thể lúc khởi đầu cuộc sống chung, ta tưởng tranh chấp không có chỗ đứng trong hôn nhân. Vì ta được người ta dạy rằng tranh chấp và tranh đua chỉ có hại, nên không thể có chỗ đứng trong căn nhà của chúng ta. Bởi thế khi tranh chấp nổ ra, như nó phải nổ ra, ta bèn bối rối và xấu hổ: cảm nghiệm của ta do đó không đi đôi với hoài mong của ta. Điều này làm ta bẽ mặt và dẫn ta đến việc giập tắt tranh chấp. Ta ráng làm lơ nó vì ta thấy nó không nên có mặt ở đây. Kiểu đáp ứng khác, và là kiểu điển hình cho một thừa tác vụ hữu hiệu đối với mối liên hệ của ta, là khảo sát cái giả thiết ấy về tranh chấp. Ta đã học điều ấy từ đâu và nó giá trị đến mức nào? Há truyền thống Kitô giáo và các nghiên cứu tâm lý học không từng cho thấy tranh chấp vốn là một phần trong bất cứ mối liên hệ có ý nghĩa nào và nó vốn là phương thế mạnh mẽ để tăng trưởng, để thân mật thêm lên rất nhiều đó sao? Há sự chờ mong của ta đối với tranh chấp chỉ là một giả thuyết ngây thơ và vô ích đó sao? Diễn trình suy tư này, nếu được cùng nhau đưa ra, dù là một cách lộn xộn đi chăng nữa, cũng là một thanh tẩy đối với các hoài mong. Nó là một phần trong nhiệm nhặt học quan trọng đang khai diễn về hôn nhân Kitô giáo, một nhiệm nhặt học ta có trách nhiệm phải khai trriển.
Một hoài mong khác được ta mang theo vào hôn nhân có lẽ là mình sẽ thoả mãn được mọi nhu cầu của nhau. Vừa là bạn, vừa là người yêu và người đồng hành: tình yêu hỗ tương của hai đứa mình nồng nàn đến nỗi chẳng đứa nào trong bọn mình thèm một ai khác. Nhưng hôn nhân càng lớn thêm, ta càng thấy cuộc đời chẳng giống như thế. Ta không thể mà cũng chả dám cả quyết ta là tất cả mọi sự đối với nhau. Phải chăng điều ấy có nghĩa là ta đang đi trật ra ngoài tình yêu dành cho nhau hay hôn nhân của ta đang rơi vào thất bại? Có thể như thế lắm, nhưng cũng có thể đó chỉ là dấu chỉ cái hoài mong đầy chất lãng mạn của tuổi trẻ kia đang được thanh tẩy. Cái giả thuyết chung chung về hôn nhân kia đang được kinh nghiệm hôn nhân của ta thử nghiệm và lên khuôn lại. Đây là một cuộc thanh tẩy và là một thứ kỷ luật vì nó thách thức các ý niệm và lý tưởng vốn được ta trân quí, những ý niệm và lý tưởng được ta mang theo với bản thân mình. Và ta biết rằng đơn giản sống cuộc hôn nhân và đời sống gia đình theo những hoài mong ta có được từ bên ngoài và có khi từ ngay bên trong mình đi chăng nữa là làm ngơ, là quên khuấy nét duyên dáng đặc thù trong tình yêu của ta.
Khi khởi sự suy tư về những giả thuyết ta đã đem vào hôn nhân, có lẽ ta đã thấy con số những giả thuyết này không phải là nhỏ: nào là giả thuyết liên quan đến anh phải là ông chồng nuôi sống gia đình, còn em chỉ là bà vợ; nào là hoài mong liên quan đến việc mình phải làm tình ra sao và bao nhiêu lần một tuần; lại còn giả thuyết mình phải có bao nhiêu nhóc tì mà một “cặp vợ chồng Công Giáo tốt” buộc phải có. Mình cũng thấy hôn nhân của mình là giao điểm của nhiều hoài mong, cả của anh lẫn của em; các giả thuyết không nói ra ấy xuất hiện qua những đòi hỏi tế nhị và không tế nhị vợ chồng mình khoác lên nhau.
Thanh tẩy hoài mong là một thừa tác vụ chuyên biệt mà hai vợ chồng được mời gọi đảm nhiệm; nó thử nghiệm tính co dãn (resiliency) trong hôn nhân. Rất có thể ta sẽ bối rối hay mất hướng khi các giả thuyết ta ưa thích từ lâu nay bị tấn kích. Có khi ta còn đau đớn hay buồn khổ khi buộc phải từ bỏ những giả thuyết lâu đời nhưng không còn thích hợp với cuộc hôn nhân của mình nữa. Nhưng, trong thanh tẩy, ta cũng có thể nhìn về phía trước, hướng tới một gọt dũa tinh tuyền hơn cho cuộc tình của mình. Trong diễn trình tinh lọc mà ta là thừa tác viên chính này, ta biến cuộc hôn nhân của ta thành hoàn toàn là của ta. Nó vẫn là một cuộc hôn nhân Việt Nam và Kitô giáo vì đây không phải là một hành trình đi tìm tư riêng. Cuộc hôn nhân Việt Nam và Kitô giáo này nay đã trở thành của ta cách trọn vẹn hơn, với các biểu thức yêu thương, tranh chấp và thông đạt, các khuôn mẫu sinh hoạt gia đình và tham dự vào xã hội thích ứng với ơn gọi hôn nhân đặc thù của ta.
Khả năng thi hành thừa tác vụ này, cũng như các thừa tác vụ khác mà vợ chồng được mời gọi, thực ra cũng đặt căn bản trên một hoài mong. Đó là hoài mong: vợ chồng sẽ lãnh lấy trách nhiệm tôn giáo làm cho hôn nhân của mình trở nên chín chắn. Cuộc sống chung của ta không diễn tiến cách tự động hay tự nhiên, mà ta cũng không mong chờ một thừa tác viên Kitô giáo được cử nhiệm nào đó đứng sẵn bên cạnh để nâng đỡ diễn trình tăng trưởng của ta. Vì ta là thừa tác viên của bí tích Hôn Phối, nên ta cũng phải liên tục là thừa tác viên của diễn trình bí tích đang diễn biến này. Lòng hoài mong vào năng lực tôn giáo của ta là một hoài mong mà Giáo Hội Kitô giáo và các thừa tác viên của Giáo Hội này rất sẵn sàng đem tới cho các cặp vợ chồng.
Thừa tác vụ nội tại về hôn nhân và gia đình này đòi phải có cả tầm nhìn lẫn nhân đức. Ta có thể nói rằng thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong bắt đầu bằng một tầm nhìn, tức là thấy mình có khả năng cùng nhau đối chất thách thức. Sau đó, nhờ nhân đức, ta sẽ theo đuổi thừa tác vụ này. Tóm lại, hai vợ chồng phải được trang bị đầy đủ cho trách nhiệm nhiều đòi hỏi này. Các kỹ năng chuyên biệt giúp hai vợ chồng chia sẻ tâm tư tình cảm một cách cụ thể và không đổ lỗi lẫn nhau và các kỹ năng giúp họ xử lý các tranh chấp sẽ lên khuôn hình thực tiễn cho thừa tác vụ này.
Cử Hành Trong Gia Đình
Cách thứ hai trong đó gia đình tự thừa tác cho chính mình liên quan đến các thực tại chính yếu của đức tin Kitô giáo. Đó là việc tha thứ và cử hành sự hiện diện của Chúa. Mới gần đây thôi, người ta vốn hiểu bí tích Thống Hối và bí tích Thánh Thể rõ ràng tách biệt hẳn cuộc sống hàng ngày của gia đình. Việc thống hối thời đó hoàn toàn là việc riêng giữa Chúa và linh hồn, được thi hành trong nhà thờ. Mối liên kết giữa bí tích và sự tha thứ mà cuộc sống như gia đình thường đòi hỏi và cảm nghiệm vốn dễ dàng bị làm ngơ. Cuộc canh tân bí tích Hòa Giải đã nhấn mạnh nhiều hơn tới các khía cạnh cộng đoàn và công khai của hành vi ăn năn thống hối và tha thứ này. Như đã đề cập tại Chương 24, bước kế tiếp chắc chắn sẽ bao gồm các cố gắng tìm cho ra các phương thế đơn giản và hữu hiệu để gia đình có thể tham dự cách trực tiếp vào việc cử hành sự tha thứ theo Kitô giáo. Nếu hôn nhân và gia đình được kêu gọi tự thừa tác lấy mình, thì lời kêu gọi này chắc chắn phải bao gồm việc học hỏi các cách thế biết tha thứ lẫn nhau. Một nghi thức đơn giản cho gia đình sẽ là nghi thức giúp vợ chồng và gia đình tham dự mạnh mẽ hơn vào hành vi chính yếu này của Kitô giáo. Một khai triển như thế, hiện đang xẩy ra trong nhiều gia đình Kitô giáo, sẽ không hạ giá bí tích Hòa Giải, trái lại, còn làm nó tăng sinh lực hơn.
Hành vi tôn giáo chính yếu thứ hai của cộng đồng Kitô giáo là cử hành sự hiện diện của Chúa. Cuộc canh tân phụng vụ trong Giáo Hội Công Giáo trong mấy thập niên qua đã biến kinh nghiệm này từ “Thánh Lễ do linh mục đọc” thành “Lễ Tạ Ơn do cộng đoàn cử hành”. Tuy nhiên, sự tăng gia tham dự của người giáo dân cho ta thấy cái phần vẫn chưa được phát triển trong thừa tác vụ Kitô giáo: đó là việc cử hành sự hiện diện của Chúa ngay tại gia đình. Nhiều lý do phức tạp thuộc lịch sử đã dẫn tới việc hạn chế các bí tích Hoà Giải và Thánh Thể trong phạm vi nhà thờ cũng như chỉ do các giáo sĩ cử hành. Nhưng vì nay việc hòa giải Kitô giáo đã được di chuyển ra khỏi tòa giải tội, thì việc cử hành sự hiện diện của Chúa cũng đang được thực hiện bên ngoài cung thánh. Việc linh mục cử hành “thánh lễ tại gia” cho thấy ý niệm chính gia đình thực hiện một cử hành tương tự như thế không còn xa lạ nữa. Người ta có thể so sánh việc người chủ gia đình Do Thái cử hành bữa ăn Vượt Qua (Seder) với việc người Kitô hữu cử hành sự hiện diện của Chúa trong tương lai. Trạng huống nhăn nhó của thừa tác vụ gia đình này có thể nhận ra trong lời cầu nguyện khiêm tốn của gia đình trước bữa ăn tối. Nhưng hiện nay, ở nhiều nơi, các gia đình đang thử nghiệm một số hình thức đơn giản để cử hành cả các dịp vui lẫn các dịp buồn trong cuộc sống chung của họ. Những cử hành sự hiện diện của Chúa trong các biến cố quan trọng của cuộc sống gia đình ấy sẽ không thay chỗ lễ Tạ Ơn chung nơi giáo xứ cũng như các cộng đoàn khác nhưng sẽ bổ túc và củng cố nó.
Người Công Giáo đang được dạy rằng có nhiều cách khác nhau để cử hành cả sự tha thứ lẫn sự hiện diện của Chúa. Một số cách đó phải xẩy ra trong các cộng đoàn chính thức, rộng lớn hơn, với các vị cử hành thay mặt cho cộng đoàn và Giáo Hội nói chung. Một số khác xẩy ra trong gia đình và xem ra hai vợ chồng là những người cử hành thích hợp. Hình thức thừa tác vụ bên trong gia đình này còn có một chức năng mạnh mẽ khác: nó dạy con cái ta biết người Kitô hữu phải sống ra sao. Vì hiện nay, ảnh hưởng của các trường Công Giáo đang suy giảm ở một vài khu vực, nên cha mẹ ngày càng được mời gọi tham gia thừa tác vụ này. Ta không còn có ai khác để huấn luyện đức tin cho con cái mình nữa. Nên gia đình một lần nữa đã trở thành địa điểm cho việc đào tạo tôn giáo này. Đối với việc đào tạo ấy, thử hỏi còn có tập chú nào tốt bằng việc gia đình thực hiện tha thứ và cử hành sự hiện diện của Chúa trong các biến cố đời mình? Giống như thừa tác vụ thanh tẩy các hoài mong, thừa tác vụ này cũng cần phải có tầm nhìn và nhân đức: ta phải biết chờ mong nó và khai triển một số kỹ năng căn bản trong việc chia sẻ và cử hành.
Thừa tác vụ hôn nhân cũng được điều hướng để vượt quá nó. Gia đình Kitô giáo là một tài nguyên cho chính nó nhưng cũng là tài nguyên cho cộng đồng rộng lớn hơn. Nó cũng khởi đầu với tầm nhìn và hoài mong: ta phải coi gia đình mình không phải chỉ cho riêng mình. Có nhiều lực đẩy trong cuộc sống của ta hiện nay, như các động lực thúc đẩy ta thèm muốn cho con cái mình trổi vượt cũng như bảo vệ gia đình mình khỏi tội ác và bạo lực. Những lực đẩy này đủ khiến một gia đình tự quay vào chính mình. Khiến nẩy sinh ra cái tâm thức “ta đối mặt với cả thế giới”. Ta liều mình dùng hết mọi cố gắng của mình vào việc đem lại cho cái những điều tốt nhất; chả còn lại gì, cả năng lực lẫn tiền bạc, cho bất cứ ai khác. Nhiều gia đình Kitô giáo ngày nay cảm thấy sâu sắc mình đang rơi vào cơn cám dỗ của gia đình hạch nhân này: cơn cám dỗ cả tập thể quá tự yêu mình (collective narcissism). Việc tự quay vào chính mình mà đôi lúc xem ra rất cần thiết này đã tách biệt ta với người khác, nhất là những ai “không cùng loại” với ta, người xa lạ, người bị bóc lột, người ở ngoài lề được cả Cựu lẫn Tân Ước nhắc đến. Nhiều người chúng ta bị xâu xé giữa các đòi hỏi gắt gao của gia đình mình (“bác ái từ nhà bác ái ra”, ta vốn nhủ ta như thế!) và các nhận xét lặp đi lặp lại vốn làm ta bối rối của Chúa Giêsu: “Ai chuộng cha mẹ hơn Ta không xứng với Ta. Ai chuộng con cái hơn Ta không xứng với Ta” (Mt 10:27). “Ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta” (Mc 3:35). Giải pháp cho thách thức này là để gia đình tìm ra lối đi giữa mặc cảm tội lỗi và đành bỏ rơi. Chúng ta, như gia đình này, được mời gọi góp phần ra sao vào thế giới rộng lớn ngoài kia, săn sóc người nghèo và kém thế như thế nào? Tính trưởng thành trong đáp ứng của ta tùy thuộc hành trình tìm hiểu thế giá gia đình và hôn nhân của mình: biết được mình là ai sẽ giúp ta có được một cảm thức tốt hơn về việc mình có thể cho mình đi như thế nào.
Thừa tác vụ của hôn nhân Kitô giáo như trên không hẳn là một khám phá mới mẻ gì. Nó vốn luôn luôn là một phần phong phú của các cộng đồng Kitô giáo, một sự kiện có lẽ cần được cử hành nhiều hơn vào lúc này. Bất kể đó là một cặp vợ chồng đã về hưu đang giúp bếp nấu cháo cho Hội Thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô hay một gia đình đang đón tiếp một cặp vợ chồng tị nạn và con cái họ, các Kitô hữu luôn luôn thi hành các thừa tác vụ vượt quá bản thân mình hay “người cùng loại” với mình một cách đầy tương cảm. Khía cạnh mới mẻ của thừa tác vụ này có chăng là ở chỗ mối liên hệ giữa giáo sĩ và giáo dân nay đã thay đổi. Lúc sự phân biệt giữa hai lớp người này còn nổi bật, người ta dễ coi thừa tác vụ chỉ là lãnh vực của hàng giáo sĩ còn giáo dân thì chỉ có mỗi trách nhiệm là đóng góp tài chánh cho thừa tác vụ ấy. Nhưng nay, vì sự phân biệt ấy mỗi ngày một lỏng lẻo hơn, nên các Kitô hữu đã ý thức được rằng họ phải đóng góp nhiều thứ hơn là tiền bạc. Điều này không hẳn chì vì hiện nay không có “đủ” giáo sĩ hay tu sĩ để làm công việc nữa mà còn vì sự tăng trưởng về tôn giáo đòi họ phải tham dự không phải chỉ bằng túi tiền vào sứ mệnh công lý và sót thương. Việc người Công Giáo có gia đình chú tâm nhiều hơn vào loại thừa tác vụ này đang thách thức Giáo Hội phải khai triển các kênh đào mới để chuyển thông loại phục vụ này.
Loại thừa tác vụ vượt quá mình của gia đình này không những được thi hành qua các hoạt động chăm sóc, hàn gắn và đối chất bất công mà thôi, nhưng cũng nhờ việc làm chứng tầm thường hơn mà cũng mạnh mẽ hơn. Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích: nghĩa là một dấu chỉ. Cuộc hôn nhân nào và gia đình nào sống thực ơn gọi đặc biệt của mình sẽ nổi bật giữa trần gian. Các quyết định của họ về tiền bạc và của cải, về việc phải dùng năng lực và thì giờ của mình ra sao, không phải giản đơn chỉ là bản sao các giá trị văn hóa và do đó không được ai chú ý. Xác tín của một gia đình Kitô giáo về điều ai là “đồng loại” của mình sẽ mang lại cho nó một sắc diện khác hẳn; tình yêu thương giữa vợ chồng họ cũng như việc kính trọng nhau giữa cha mẹ và con cái của họ sẽ đem đến cho họ một vóc dáng đặc biệt. Ở đây, thừa tác vụ gia đình đã được một chứng tá hầu như vô thức thực hiện: Đó chính là ý nghĩa và niềm hy vọng của hôn nhân Kitô giáo trong tư cách một bí tích đang không ngừng diễn biến.
Thay Đổi Và Tương Lai Hôn Nhân Kitô Giáo
Sau cùng, chúng tôi xin đề cập tới thay đổi: tới sự sống còn của cam kết hôn nhân trong một thế giới đang thay đổi; tới các hoài mong đang thay đổi của ta đối với hôn nhân, với chia sẻ tính dục, với tranh chấp và nhiều khía cạnh khác của cuộc sống chung. Thay đổi có khi được nhìn như kẻ thù: nó đe doạ điều ta đã đạt được và nay đang được ta trân qúi. Nhưng, như đã bàn luận, thay đổi cũng được quan niệm là người bạn tốt. Nó mang đến cho ta cơ may và những mời gọi mới mẻ; nó bắt ta ra khỏi các khuôn mẫu tác phong cứng ngắc và các liên hệ trì trệ để bước vào các khả thể mang đến cuộc sống mới.
Chính Giáo Hội Công Giáo cũng đang thay đổi sâu sắc trong cái hiểu của mình về hôn nhân. Đôi khi ta thấy mình bị đe dọa bởi nhiều giá trị văn hóa đi ngược lại các hy vọng tôn giáo sâu sắc nhất của mình. Ta cũng có thể bị đe dọa bởi điều nhiều người Công Giáo chúng ta từng gây ra cho tính dục và hôn nhân nhân bản. Khi giải thích tính dục ấy như điều ta dễ sa phạm hơn cả, như cái phần tội lỗi hơn hết trong bản thân mình, là ta đã khoác lên cái phần đáng yêu, tuy đôi khi hơi ngang ngược này, của đời người một cái bóng quá nặng nề. Là Kitô hữu, ta vốn tuyên xưng Chúa đã mặc lấy xác phàm, trở thành một người như chúng ta. Nhưng rồi lại giải thích rằng việc mặc xác phàm ấy không có tính tính dục và không có tính sinh dục (non-sexual and non-genital), do đó mà truyền thừalại một Nhập Thể có sửa đổi.
Nhưng cả điều đó cũng có thể cho ta hy vọng. Nếu, trong tư cách Kitô hữu, ta từng đưa ra những giải thích hơi đen tối ấy về tính dục, thì ta cũng có thể căn cứ trên cảm nghiệm sâu sắc nhất của ta về tình yêu vợ chồng và ơn Chúa soi dẫn mà sửa lại quan điểm về tính dục ấy. Đối với hôn nhân cũng thế. Trong tư cách Kitô hữu, có lúc ta cũng đã giải thích khá cứng ngắc và khắt khe về hôn nhân. Từ một lý tưởng kỳ diệu trong liên hệ yêu thương bền bỉ ta đã làm nó khô cứng trở thành một thực tại siêu hình không thể nào biết thay đổi là gì. Một giải thích như thế, rất thường khi, đã dẫn ta tới việc bất khoan dung đối với những người có cuộc hôn nhân không những chỉ mỏng dòn mà còn tan vỡ nữa. Và một khi đã tưởng tượng rằng mối liên hệ hôn nhân giữa vợ chồng là một “phẩm trật” giữa bề trên và bề dưới, ta khó có thể bỏ qua cái hình ảnh mà giờ đây chẳng còn ăn nhập gì nữa. Nhưng cả ở đây nữa ta cũng hy vọng sẽ có thay đổi trong hình ảnh tôn giáo của ta về hôn nhân và các thay đổi theo hướng hỗ tương đã được khởi đầu trong các thực hành phụng vụ và chăm sóc mục vụ của ta.
Những thay đổi trong cái hiểu tôn giáo của ta về hôn nhân này đem hy vọng lại cho nhiều cặp vợ chồng ngày nay. Chúng cũng đem theo chúng cho ta một cái hiểu sâu sắc hơn về trách nhiệm của chính mình. Bằng hôn nhân của mình, ta cho các thế hệ tương lai hay đối với Kitô hữu, tính dục, hôn nhân và chung thủy là như thế nào. Ta là ngôn sứ, dù tốt dù xấu, của tương lai hôn nhân Kitô giáo. Ta là người truyền thừa, chuyển giao đức tin của mình. Việc chuyển giao này không diễn ra cách trườu tượng; nó mang hình thức cụ thể trong các hành vi thân mật và thủy chung đối với nhau của ta. Ta ráng sống thủy chung là điều nhất thiết phải có hai mặt: thủy chung với quá khứ tôn giáo của mình, với các mạc khải phong phú của nó, và thủy chung với cuộc hành trình hiện nay, với các mạc khải, đôi khi chẳng rõ rệt gì, của nó. Là người thực tế, ta biết chắc mình có thể dễ lầm lẫn như các tổ tiên tôn giáo của mình khi xưa. Về phương diện này, ta đừng mong có những thay đổi quan trọng! Nhưng khi đã tin rằng Thiên Chúa luôn hiện diện với ta, ta có thể dự ứng điều này: trong cuộc hành trình của mình, ta sẽ liên tục gặp gỡ tình yêu của Ngài, trong niềm vui chia sẻ tính dục, trong cảnh thân mật gay cấn hơn của tranh chấp, trong ân hận về tội lỗi liên tiếp của mình, trong sức mạnh của yêu thương tận tụy. Và cùng với diễn tiến của hành trình hôn nhân nói chung, hôn nhân Kitô giáo sẽ tiếp tục được tỏ hiện.
Thông Báo
Phân Ưu: Bà Cố Maria Bùi Thị Mai mới qua đời tại Việt Nam
VietCatholic
02:45 17/02/2008
Phân Ưu
Chúng tôi vừa được tin
Bà Maria Bùi Thị Mai
(Thân mẫu của Thầy Nguyễn Trường Giang)
vừa được Chúa gọi về Nhà Cha trên Trời
hồi 16h ngày mồng 2 Tết (tức 8/2/2008), hượng thọ 78 tuổi.
Thánh lễ An táng được cử hành ngày 11/2/2008
với sự hiện diện của nhiều linh mục và chủng sinh ĐCV Thánh Giuse,
cũng như giáo dân thuộc giáo xứ của Bà Cố Maria.
Chúng tôi xin chia buồn cùng Thầy Trường Giang và gia quyến.
Thầy Trường Giang là cộng tác viên đắc lực của VietCatholic.
Xin qúi vị tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn Maria và
xin Chúa thưởng công cuộc sống vĩnh cửu trên Nước Trời.
LM Trần Công Nghị
và toàn Ban VietCatholic
Giới thiệu Chương trình Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo Anh Ngữ
VietCatholic Network
02:47 17/02/2008
Chương trình được để tại đây: http://vietcatholic.net/newsdictionary
Trong cuốn Mordern Catholic Dictionary (Tự Điển Công Giáo Hiện Đại), cha John A. Hardon, dòng Tên, viết như sau:
"Nhu cầu phải có một cuốn Tự Điển Công Giáo Hiện Đại xem ra là hiển nhiên. Nhiều biến cố đã xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo từ khi khai diễn Công Đồng Chung Vatican II năm 1962. Chính Công Đồng này đã là một biến cố lịch sử mà 16 tài liệu của Công Đồng, được xác nhận bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã có một ảnh hưởng sâu sắc trong tư duy của các tín hữu. Một trong những hệ quả là nhiều từ mới và nhiều thành ngữ đã đi vào kho từ vựng Công Giáo cũng như những từ cũ đã mang lấy nhiều ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc.
Hơn thế nữa, thế giới trong đó các tín hữu đang sống đã và đang trải qua những thay đổi cả thể, một vài thay đổi này nói được là sâu sắc nhất trong Kitô Giáo từ thời các thánh Tông Đồ".
Với một người nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ, nhu cầu có một cuốn Tự Điển Công Giáo Hiện Đại còn hiển nhiên như vậy, huống gì là chúng ta, những người sử dụng Anh ngữ như một ngôn ngữ thứ hai.
Tình hình xem ra còn khẩn thiết hơn nữa trong thời Internet hiện nay. Kỹ thuật truyền thông qua mạng lưới điện toán toàn cầu đang cống hiến cho Giáo Hội một phương tiện ngoạn mục để truyền giáo và thông tin trong nội bộ Giáo Hội. Trong thời gian vừa qua, một số lượng tài liệu khổng lồ bằng Anh ngữ đã được đưa lên mạng lưới điện toán toàn cầu. Tuy nhiên, số tài liệu chuyển dịch sang Việt ngữ rất giới hạn. Chẳng hạn nói về Tin Tức của Giáo Hội, trong một ngày, VietCatholic chỉ có khả năng dịch được 10%-20% số lượng tin tức mà VietCatholic nhận được từ các cơ quan thông tin của Giáo Hội trong ngày. Bộ Giáo Sĩ có một chương trình nhằm cung cấp những kiến thức thần học cho các linh mục và tu sĩ qua hình thức hội thoại quốc tế hai tháng một lần. Những bài thuyết trình rất hay này VietCatholic cũng chỉ mới dịch được một con số vô cùng khiêm tốn là 2%.
Việc dịch những tài liệu Công Giáo thông thường gặp khó khăn vì cần phải có một tự điển chuyên dùng. Rất nhiều từ ngữ trong các văn bản có nguồn gốc từ tiếng La Tinh. Với những từ như vậy, những từ điển thông thường đều tỏ ra vô dụng. Một số từ khác tuy có trong tự điển thông thường nhưng lại mang một nghĩa khác, không thể dịch theo lối thông thường được.
Nhờ lòng quảng đại của cha John A. Hardon và sự giúp đỡ của đồng nghiệp Catholic World News, VietCatholic đã xin được phép của cha để đưa lên mạng lưới VietCatholic những thuật ngữ Công Giáo trong cuốn Mordern Catholic Dictionary. Con số chính xác những thuật ngữ Công Giáo là 5126 từ. Bên cạnh đó, còn có 5945 thành ngữ thường được dùng trong báo chí Anh ngữ và hơn 2000 phrasal verbs.
Tất cả những từ ngữ này được giải thích bằng Anh ngữ theo đúng bản chính của các tác giả.
Kêu gọi sự hợp tác:
Đây là một dứ án cần sự cộng tác của nhiều người mới mong có kết quả nhanh chóng và chính xác. Chúng tôi chia dự án thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: cần ít nhất từ 50 tới 100 cộng tác viên tự nguyện: có khả năng và thiện chí sẵn sàng hi sinh cho công việc chung. Mỗi người sẵn sàng đảm nhận việc dịch từ 100 tới 200 thuật ngữ và thành ngữ.
Giai đoạn 2: sau khi dịch ra Việt ngữ, các câu dịch đó sẽ được đưa lên Trang Tự Điển của VietCatholic để một lần nữa lấy ý kiến và sự đóng góp chung của qúi vị độc giả thức thời và có kinh nghiệm chuyên môn để đóng góp ý kiến thêm, sửa sai, hiệu đính và hoàn chỉnh bản dịch chung.
Chúng tôi chân thành kêu gọi những ai muốn tham gia công tác này liên lạc với chúng tôi qua email conggiao@gmail.com và xin cho Tên, địa chỉ và số phone để tiện liên lạc.
Trong tương lai sắp tới, VietCatholic sẽ thêm phần giải thích tiếng Việt bên dưới lời giải thích tiếng Anh sẵn có và thêm những từ chuyên biệt thuộc chuyên môn hẹp về Thánh Kinh, Phụng Vụ, Mục Vụ, Thần Học, Luân Lý, và Sinh Học.
Hy vọng chương trình này đóng góp được phần nào trong nhu cầu chuyển dịch Anh ngữ, La ngữ và Việt ngữ.
LM Trần Công Nghị
Trong cuốn Mordern Catholic Dictionary (Tự Điển Công Giáo Hiện Đại), cha John A. Hardon, dòng Tên, viết như sau:
"Nhu cầu phải có một cuốn Tự Điển Công Giáo Hiện Đại xem ra là hiển nhiên. Nhiều biến cố đã xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo từ khi khai diễn Công Đồng Chung Vatican II năm 1962. Chính Công Đồng này đã là một biến cố lịch sử mà 16 tài liệu của Công Đồng, được xác nhận bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã có một ảnh hưởng sâu sắc trong tư duy của các tín hữu. Một trong những hệ quả là nhiều từ mới và nhiều thành ngữ đã đi vào kho từ vựng Công Giáo cũng như những từ cũ đã mang lấy nhiều ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc.
Hơn thế nữa, thế giới trong đó các tín hữu đang sống đã và đang trải qua những thay đổi cả thể, một vài thay đổi này nói được là sâu sắc nhất trong Kitô Giáo từ thời các thánh Tông Đồ".
Với một người nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ, nhu cầu có một cuốn Tự Điển Công Giáo Hiện Đại còn hiển nhiên như vậy, huống gì là chúng ta, những người sử dụng Anh ngữ như một ngôn ngữ thứ hai.
Tình hình xem ra còn khẩn thiết hơn nữa trong thời Internet hiện nay. Kỹ thuật truyền thông qua mạng lưới điện toán toàn cầu đang cống hiến cho Giáo Hội một phương tiện ngoạn mục để truyền giáo và thông tin trong nội bộ Giáo Hội. Trong thời gian vừa qua, một số lượng tài liệu khổng lồ bằng Anh ngữ đã được đưa lên mạng lưới điện toán toàn cầu. Tuy nhiên, số tài liệu chuyển dịch sang Việt ngữ rất giới hạn. Chẳng hạn nói về Tin Tức của Giáo Hội, trong một ngày, VietCatholic chỉ có khả năng dịch được 10%-20% số lượng tin tức mà VietCatholic nhận được từ các cơ quan thông tin của Giáo Hội trong ngày. Bộ Giáo Sĩ có một chương trình nhằm cung cấp những kiến thức thần học cho các linh mục và tu sĩ qua hình thức hội thoại quốc tế hai tháng một lần. Những bài thuyết trình rất hay này VietCatholic cũng chỉ mới dịch được một con số vô cùng khiêm tốn là 2%.
Việc dịch những tài liệu Công Giáo thông thường gặp khó khăn vì cần phải có một tự điển chuyên dùng. Rất nhiều từ ngữ trong các văn bản có nguồn gốc từ tiếng La Tinh. Với những từ như vậy, những từ điển thông thường đều tỏ ra vô dụng. Một số từ khác tuy có trong tự điển thông thường nhưng lại mang một nghĩa khác, không thể dịch theo lối thông thường được.
Nhờ lòng quảng đại của cha John A. Hardon và sự giúp đỡ của đồng nghiệp Catholic World News, VietCatholic đã xin được phép của cha để đưa lên mạng lưới VietCatholic những thuật ngữ Công Giáo trong cuốn Mordern Catholic Dictionary. Con số chính xác những thuật ngữ Công Giáo là 5126 từ. Bên cạnh đó, còn có 5945 thành ngữ thường được dùng trong báo chí Anh ngữ và hơn 2000 phrasal verbs.
Tất cả những từ ngữ này được giải thích bằng Anh ngữ theo đúng bản chính của các tác giả.
Kêu gọi sự hợp tác:
Đây là một dứ án cần sự cộng tác của nhiều người mới mong có kết quả nhanh chóng và chính xác. Chúng tôi chia dự án thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: cần ít nhất từ 50 tới 100 cộng tác viên tự nguyện: có khả năng và thiện chí sẵn sàng hi sinh cho công việc chung. Mỗi người sẵn sàng đảm nhận việc dịch từ 100 tới 200 thuật ngữ và thành ngữ.
Giai đoạn 2: sau khi dịch ra Việt ngữ, các câu dịch đó sẽ được đưa lên Trang Tự Điển của VietCatholic để một lần nữa lấy ý kiến và sự đóng góp chung của qúi vị độc giả thức thời và có kinh nghiệm chuyên môn để đóng góp ý kiến thêm, sửa sai, hiệu đính và hoàn chỉnh bản dịch chung.
Chúng tôi chân thành kêu gọi những ai muốn tham gia công tác này liên lạc với chúng tôi qua email conggiao@gmail.com và xin cho Tên, địa chỉ và số phone để tiện liên lạc.
Trong tương lai sắp tới, VietCatholic sẽ thêm phần giải thích tiếng Việt bên dưới lời giải thích tiếng Anh sẵn có và thêm những từ chuyên biệt thuộc chuyên môn hẹp về Thánh Kinh, Phụng Vụ, Mục Vụ, Thần Học, Luân Lý, và Sinh Học.
Hy vọng chương trình này đóng góp được phần nào trong nhu cầu chuyển dịch Anh ngữ, La ngữ và Việt ngữ.
LM Trần Công Nghị
Tin Đáng Chú Ý
Về 3000 quân Liên Xô trong cuộc chiến VN
BBC
22:36 17/02/2008
Về 3000 quân Liên Xô trong cuộc chiến VN
Hôm thứ Bảy vừa qua một số cựu binh Nga trong cuộc chiến Việt Nam đã làm lễ kỷ niệm sự tham dự của họ trong cuộc xung đột nhân dịp 35 năm Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Việt Nam.
Theo báo Nga Russia Today 16.02.2008, Liên Xô không bao giờ công nhận sự dính líu trực tiếp của mình trong cuộc chiến nên nhiều năm, các cựu binh cộng sản này không được ghi nhận công trạng gì.
Chỉ đến năm 1991, khi Liên Xô tan rã, người ta mới thừa nhận có chừng 3000 quân nhân Xô Viết tham chiến tại Việt Nam, mà theo phía Nga, chủ yếu trong vai trò cố vấn.
Tuy nhiên các sử liệu nói đến những vai trò khác trong các binh chủng, chủ yếu là không quân và phòng không của binh lính Liên Xô tại Bắc Việt Nam.
Nay, như ông Nikolay Kolesnik được Russia Today trích lời, những quân nhân Nga như ông phải được nói đến cụ thể chứ không phải một cách chung chung:
“Chính thức mà nói chúng tôi chỉ được coi là chuyên gia quân sự Nga. Cấp chỉ huy thì mang danh là chuyên gia cao cấp. Cũng không có đơn vị quân đội Nga nào ở Việt Nam. Điều duy nhất chúng tôi biết là mình thuộc nhân dân Liên Xô, là binh sĩ Liên Xô. Chúng tôi làm tất cả để ngăn các cuộc không kích".
Từ sau khi Liên Xô sụp đổ, họ muốn được nhìn nhận như các 'cựu chiến binh' một cách công khai.
Vẫn theo Russia Today, các chuyên gia Xô Viết đã đóng vai trò trọng yếu trong việc huấn luyện các lực lượng Bắc Việt Nam, và tên lửa Xô Viết gây thiệt hại nặng cho các phi cơ Mỹ.
Buổi lễ hôm 16.02 còn là dịp để Việt Nam cảm ơn các binh sĩ Xô Viết từng không được chính nước Nga ngợi ca một thời gian dài.
Sự thật bị giữ kín
Tới năm 2005, nhiều cựu binh Liên Xô sau cuộc chiến Afghanistan vẫn còn đấu tranh để có trợ cấp khá hơn
Nếu như sự có mặt của Hoa Kỳ và các đồng minh như Nam Hàn (320,000 quân với 5000 bị giết) tại Nam VN được nói đến rộng rãi ngay từ thời chiến thì sự tham gia của các đồng minh cộng sản ủng hộ Hà Nội thường chỉ được biết tới về sau này.
Sự dính líu của Liên Xô về nhân sự vào chiến tranh Việt Nam bị che phủ bởi tình hình chính trị tại chính Kremlin.
Dưới thời Tổng bí thư Nikita Khrushchev, Liên Xô tuy trợ giúp Bắc Việt Nam về mặt quân sự và kinh tế nhưng không muốn tỏ ra công khai cử quân lính sang giúp vì e ngại gây căng thẳng với Hoa Kỳ.
Ông Ilya Shcherbakov, đại sứ Liên Xô tại Hà Nội từ 1964 đến 1974 ban đầu nhận nhiệm vụ coi chừng các hành động của chuyên gia quân sự Nga bị phát hiện.
Nhưng từ thời TBT Leonid Brezhnev, Moscow mạnh bạo hơn trong việc đưa quân nhân sang Việt Nam. Tướng Vladimir Abramov được giao nhiệm vụ chỉ huy các sĩ quan và binh lính Xô Viết trong vùng Đông Nam Á.
Ngoài Liên Xô, Trung Quốc cũng có quân lính tham gia giúp Hà Nội trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và đồng minh ở Việt Nam.
Chính Trung Quốc ngay từ cuối thập niên 70 đã công khai vai trò của mình và nói tới con số hàng vạn quân nhân có mặt tại Bắc Việt Nam để giúp xây cất đường xá và phòng không.
Nhưng Bắc Triều Tiên thì chỉ đến 2001 mới thừa nhận họ cũng có quân tại Bắc Việt Nam.
Trong bài viết trên tờ Asia Times 18.08.2006 tác giả Richard M Bennett cho hay chừng 200 phi công Bắc Hàn đã tham gia bảo vệ Hà Nội trong các đợt tấn công của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam.
Lễ tưởng niệm những người phi công Bắc Hàn tử trận tại Việt Nam cũng chỉ được nói đến hồi tháng Bảy 2001.
Hôm thứ Bảy vừa qua một số cựu binh Nga trong cuộc chiến Việt Nam đã làm lễ kỷ niệm sự tham dự của họ trong cuộc xung đột nhân dịp 35 năm Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Việt Nam.
Theo báo Nga Russia Today 16.02.2008, Liên Xô không bao giờ công nhận sự dính líu trực tiếp của mình trong cuộc chiến nên nhiều năm, các cựu binh cộng sản này không được ghi nhận công trạng gì.
Chỉ đến năm 1991, khi Liên Xô tan rã, người ta mới thừa nhận có chừng 3000 quân nhân Xô Viết tham chiến tại Việt Nam, mà theo phía Nga, chủ yếu trong vai trò cố vấn.
Tuy nhiên các sử liệu nói đến những vai trò khác trong các binh chủng, chủ yếu là không quân và phòng không của binh lính Liên Xô tại Bắc Việt Nam.
Nay, như ông Nikolay Kolesnik được Russia Today trích lời, những quân nhân Nga như ông phải được nói đến cụ thể chứ không phải một cách chung chung:
“Chính thức mà nói chúng tôi chỉ được coi là chuyên gia quân sự Nga. Cấp chỉ huy thì mang danh là chuyên gia cao cấp. Cũng không có đơn vị quân đội Nga nào ở Việt Nam. Điều duy nhất chúng tôi biết là mình thuộc nhân dân Liên Xô, là binh sĩ Liên Xô. Chúng tôi làm tất cả để ngăn các cuộc không kích".
Từ sau khi Liên Xô sụp đổ, họ muốn được nhìn nhận như các 'cựu chiến binh' một cách công khai.
Vẫn theo Russia Today, các chuyên gia Xô Viết đã đóng vai trò trọng yếu trong việc huấn luyện các lực lượng Bắc Việt Nam, và tên lửa Xô Viết gây thiệt hại nặng cho các phi cơ Mỹ.
Buổi lễ hôm 16.02 còn là dịp để Việt Nam cảm ơn các binh sĩ Xô Viết từng không được chính nước Nga ngợi ca một thời gian dài.
Sự thật bị giữ kín
Tới năm 2005, nhiều cựu binh Liên Xô sau cuộc chiến Afghanistan vẫn còn đấu tranh để có trợ cấp khá hơn
Nếu như sự có mặt của Hoa Kỳ và các đồng minh như Nam Hàn (320,000 quân với 5000 bị giết) tại Nam VN được nói đến rộng rãi ngay từ thời chiến thì sự tham gia của các đồng minh cộng sản ủng hộ Hà Nội thường chỉ được biết tới về sau này.
Sự dính líu của Liên Xô về nhân sự vào chiến tranh Việt Nam bị che phủ bởi tình hình chính trị tại chính Kremlin.
Dưới thời Tổng bí thư Nikita Khrushchev, Liên Xô tuy trợ giúp Bắc Việt Nam về mặt quân sự và kinh tế nhưng không muốn tỏ ra công khai cử quân lính sang giúp vì e ngại gây căng thẳng với Hoa Kỳ.
Ông Ilya Shcherbakov, đại sứ Liên Xô tại Hà Nội từ 1964 đến 1974 ban đầu nhận nhiệm vụ coi chừng các hành động của chuyên gia quân sự Nga bị phát hiện.
Nhưng từ thời TBT Leonid Brezhnev, Moscow mạnh bạo hơn trong việc đưa quân nhân sang Việt Nam. Tướng Vladimir Abramov được giao nhiệm vụ chỉ huy các sĩ quan và binh lính Xô Viết trong vùng Đông Nam Á.
Ngoài Liên Xô, Trung Quốc cũng có quân lính tham gia giúp Hà Nội trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và đồng minh ở Việt Nam.
Chính Trung Quốc ngay từ cuối thập niên 70 đã công khai vai trò của mình và nói tới con số hàng vạn quân nhân có mặt tại Bắc Việt Nam để giúp xây cất đường xá và phòng không.
Nhưng Bắc Triều Tiên thì chỉ đến 2001 mới thừa nhận họ cũng có quân tại Bắc Việt Nam.
Trong bài viết trên tờ Asia Times 18.08.2006 tác giả Richard M Bennett cho hay chừng 200 phi công Bắc Hàn đã tham gia bảo vệ Hà Nội trong các đợt tấn công của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam.
Lễ tưởng niệm những người phi công Bắc Hàn tử trận tại Việt Nam cũng chỉ được nói đến hồi tháng Bảy 2001.