Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh lễ Chúa Nhật Thứ 29 Mùa Quanh Năm 22/10/2017 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
03:51 21/10/2017
BÀI ĐỌC I: Is 45, 1. 4-6
"Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó".
Bài trích sách tiên tri I-sa-i-a.
Đây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại: Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c
Đáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.
3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.
4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
BÀI ĐỌC II: 1 Tx 1, 1-5b
"Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em".
Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an. Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 27
All. All. - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - All.
PHÚC ÂM: Mt 22, 15-21
"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Đó là lời Chúa.
Con Đường Truyền Giáo Từ “Ky-Rô Tới Xê-Da”
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
09:07 21/10/2017
Chúa Nhật XXIX THƯỜNG NIÊN A 2017
(Khánh Nhật Truyền Giáo)
1. Từ Ky-rô tới Xê-da :
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay được đặt trong một bối cảnh lịch sử thật dài của dân Do Thái mà điểm nhấn ở 2 đầu lịch sử đó lại là hai nhân vật trọng yếu của 2 đế quốc hùng mạnh :
- Bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Do Thái : Khoảng năm 538 TCN, ông hoàng ngoại giáo, vua Ky-rô của đế quốc Ba Tư, được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và dạy cho biết “chẳng có ai là Thiên Chúa ngoại trừ Ta”, và ông đã nhất nhất vâng lệnh Chúa truyền khi đem dân Chúa trở về quê cũ và tái lập việc phượng thờ Giavê sau cuộc lưu đày lần thứ 1 ở Babylon. Kyrô đã trở nên dấu chỉ của quyền lực và thánh ý Thiên Chúa.
- Trong khi đó, Tin mừng Matthêô, với câu chuyện về “nộp thuế”, một cái bẫy tinh vi của nhóm “liên minh ma quỷ Biệt Phái-Hêrôđê”, nhằm đặt nhà tiên tri Giê-su-Na-da-rét vào tuyệt lộ, đã cho thấy thời đại đất nước Ít-ra-en đang bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, tượng trưng cho sức mạnh của trần tục, thế gian mà biểu tượng hoàng đế Xê-da trên đồng bạc đang lưu hành chính là dấu chứng.
Từ hai câu chuyện lịch sử xoay quanh hai cái tên “Ky-rô” và Xê-da” đó, Lời Chúa qua ngôn sứ Isaia của Cựu ước và Chúa Giêsu của Tân ước muốn nhắn gởi một sứ điệp thật rõ ràng :
- Ngôn sứ Isaia dạy rằng : Thiên Chúa là chủ tể của lịch sử. Và lịch sử chỉ tiến về ánh sáng và hy vọng bao lâu “lịch sử tiến bước trong sự vâng phục thánh ý của Ngài”, như ông vua ngoại giáo Ky-rô vâng lệnh Chúa. Nhờ sự vâng phục của một ông vua ngoại đạo nầy, mà dân Chúa đã tìm lại được quê hương và chính đạo sau bao tháng năm nô lệ kiếp lưu đày.
- Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy rằng : Thứ “thuế tinh thần” quan trọng nhất mà chúng ta phải thực thi đó chính là phải “trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài”, tức hoán cải trở về để thực thi giới răn “Mến Chúa”, và phải “trả lại Xê-da những gì thuộc Xê-da”, tức phải quay lưng từ bỏ cuộc sống nộ lệ của kiêu căng, dục vọng, ích kỷ để thực thi giới răn “Yêu người”.
2. Sứ điệp Lời Chúa công cuộc Loan Báo Tin Mừng hôm nay :
Trước hết, chưa bao giờ thế giới, con người thoát khỏi “thân phận lưu đày, nô lệ”. Tiền bạc, dục vọng, tự do phóng túng, đam mê quyền lực…, luôn là những “kiếp lưu đầy Babylon”, là những “Xê-da” đầy quyền lực, áp lực trên cuộc sống của bao dân tộc và bao con người.
Đức Kitô, Đấng được xức dầu mà hơn 500 năm trước trong thời lưu đầy Babylon, đã được tiên báo qua dung mạo của ông hoàng ngoại đạo Ky-rô, đã “vâng lệnh Thánh ý Chúa Cha”, giải thoát và dẫn đưa nhân loại về “quê hương” đích thực ; và Ngài tiếp tục sai các môn sinh “chèo ra chỗ nước sâu”, làm những “tay lưới người”, trở nên “men muối, ánh sáng”…để dẫn đưa con người tiến về Giêrusalem trên trời.
- Thế nhưng để làm được công trình “hồi hương và tái dựng” đầy nhiêu khê và thử thách ấy, dứt khoát Hội Thánh hôm nay, các môn sinh của Ngài phải thực thi hai nguyên tắc nền tảng mà Đức Kitô đã dạy cách đây 2000 năm trước : “trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, và trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da”.
Trước hết, “trả về cho Thiên Chúa” có nghĩa là :
- Trở nên “những người thợ sẵn sàng nghe tiếng chủ để dấn thân đi làm vườn nho cho dù đến trễ.
- Sẵn sàng làm “những đầy tớ trung tín biến những nén vàng được chủ trao sinh lãi được gấp trăm”
- Biến cuộc sống thành “những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa sinh hoa kết trái”.
- Bước theo những tâm hồn khiêm hạ khó nghèo như Đức Trinh Nữ Maria, thánh cả Giuse, các Tông Đồ…luôn biết hát bài “Magnificat” để tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân cao cả và những việc lạ lùng Chúa đã ân trao…
- Kiên vững cậy trông, phó thác cho tình thương và sự quan phòng của Cha như những con chim sẻ, những cây hoa huệ giữa cánh đồng hay những sợi tóc trên đầu bất chợt rơi xuống… !
- Can đảm “vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người” cho dù phải gian nan, khốn khó, bách hại, ngục tù và cả cái chết…
Làm người Kitô hữu hôm nay phải chăng là phấn đấu để biết từng ngày “trả về cho Thiên Chúa” những sự thuộc về Ngài, là không ngừng thánh hóa bản thân theo những đòi hỏi và kích thước của Tin Mừng, là tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa ngang qua các dấu chỉ của cuộc sống, là trung thành hiệp thông với Giáo Hội trong phụng vụ và nguyện cầu.
Trả cho Xê-da những gì của Xê-da có nghĩa là :
Nếu hiểu “Xê-da” đó chính là địa chỉ của tội lỗi, thế gian, ma quỷ… thì “trả lại Xê-da…” có nghĩa là :
- Bỏ lại đằng sau “kiếp sống chăn heo”, hoang đàng tội lỗi để cất bước quay về nhà của Cha.
- Đứng lên giã từ quá khứ, làm lại cuộc đời như những Matthêô, Giakê, Maiđệliên, người trộm lành bên thánh giá …
Nếu hiểu “Xê-da” đó là hình ảnh của một nhân loại đáng thương, cần ơn cứu độ, cần được giải thoát, thì “trả cho Xê-da…” đó là :
- Biết quỳ xuống rửa chân cho anh em, nhất là rửa chân cho những nguời nghèo hèn khốn khổ như Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã nêu gương.
- Biết trở thành người Samari nhân hậu để giúp đỡ anh chị em chúng ta, những ai đang khốn khó ngặt nghèo, bì chà đạp, xúc phạm, bóc lột và đang lâm vòng nguy khốn tinh thần cũng như thể chất.
- Biết liên đới với mọi người để dựng xây hòa bình, để kiến tạo bầu khí huynh đệ, hiệp thông, để đẩy lùi những đói nghèo bệnh tật, để xoa dịu những vết thương chiến tranh, giúp đỡ hàn gắn những đổ nát của thiên tại địch họa và nổ lực làm cho bộ mặt trái đất mỗi ngày thêm đẹp thêm xinh…
Là những người Kitô hữu, là con cái trong gia đình có Thiên Chúa là Cha, hay như cách gọi của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Tê-xa-lô-ni-ca trong bài đọc 2 hôm nay : “là những người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn” (1 Tx 1,4), chúng ta nhất quyết “trả về cho Thiên Chúa” những bổn phận cơ bản mà đời sống đức tin đòi hỏi phải thực hiện mỗi ngày.
Là anh em trong gia đình Giáo Hội và trong mái nhà chung của trái đất, chúng ta phải thực hành bác ái yêu thương với mọi anh em đồng loại mà theo ngôn ngữ của Tin Mừng hôm nay đó là “trả lại cho Xê-da những gì thuộc Xê-da”.
Hôm nay cũng là ngày mà Hội Thánh gọi mời toàn thể con cái trong gia đình Giáo Hội cùng ý thức sâu sắc và sống tích cực sứ mệnh Truyền Giáo của mình, một sứ mệnh mà chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã ước mơ sẽ trở thành lẽ sống và hoạt động hiện thực giữa lòng dân Chúa hôm nay:
“Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.” (EG 27).
Nói cách khác, để nhân loại quy về một “đoàn Dân duy nhất”, tiến về Giêrusalem trên trời, Giáo Hội đang cần những Ky-rô đứng lên “đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa”, cần những con người dấn thân chọn Đức Kitô và con đường Vượt Qua của Ngài, sẵn sàng “trả cho Thiên Chúa những sự thuộc về Ngài’ và “trả cho Xê-da những cái thuộc Xê-da”. Con đường đó, cuộc hành trình đó, từ Ky-rô đến Xê-da, cho dẫu có dài thăm thẳm, cho dẫu có thử thách gian nan, thì cũng sẽ đạt đích. Bởi vì đó chính là con đường của chính Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta hôm nay một lần nữa nghe chính Ngài phán dạy : “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”. (Is 45,6b)
Giuse Trương Đình Hiền
(Khánh Nhật Truyền Giáo)
1. Từ Ky-rô tới Xê-da :
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay được đặt trong một bối cảnh lịch sử thật dài của dân Do Thái mà điểm nhấn ở 2 đầu lịch sử đó lại là hai nhân vật trọng yếu của 2 đế quốc hùng mạnh :
- Bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Do Thái : Khoảng năm 538 TCN, ông hoàng ngoại giáo, vua Ky-rô của đế quốc Ba Tư, được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và dạy cho biết “chẳng có ai là Thiên Chúa ngoại trừ Ta”, và ông đã nhất nhất vâng lệnh Chúa truyền khi đem dân Chúa trở về quê cũ và tái lập việc phượng thờ Giavê sau cuộc lưu đày lần thứ 1 ở Babylon. Kyrô đã trở nên dấu chỉ của quyền lực và thánh ý Thiên Chúa.
- Trong khi đó, Tin mừng Matthêô, với câu chuyện về “nộp thuế”, một cái bẫy tinh vi của nhóm “liên minh ma quỷ Biệt Phái-Hêrôđê”, nhằm đặt nhà tiên tri Giê-su-Na-da-rét vào tuyệt lộ, đã cho thấy thời đại đất nước Ít-ra-en đang bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, tượng trưng cho sức mạnh của trần tục, thế gian mà biểu tượng hoàng đế Xê-da trên đồng bạc đang lưu hành chính là dấu chứng.
Từ hai câu chuyện lịch sử xoay quanh hai cái tên “Ky-rô” và Xê-da” đó, Lời Chúa qua ngôn sứ Isaia của Cựu ước và Chúa Giêsu của Tân ước muốn nhắn gởi một sứ điệp thật rõ ràng :
- Ngôn sứ Isaia dạy rằng : Thiên Chúa là chủ tể của lịch sử. Và lịch sử chỉ tiến về ánh sáng và hy vọng bao lâu “lịch sử tiến bước trong sự vâng phục thánh ý của Ngài”, như ông vua ngoại giáo Ky-rô vâng lệnh Chúa. Nhờ sự vâng phục của một ông vua ngoại đạo nầy, mà dân Chúa đã tìm lại được quê hương và chính đạo sau bao tháng năm nô lệ kiếp lưu đày.
- Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy rằng : Thứ “thuế tinh thần” quan trọng nhất mà chúng ta phải thực thi đó chính là phải “trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài”, tức hoán cải trở về để thực thi giới răn “Mến Chúa”, và phải “trả lại Xê-da những gì thuộc Xê-da”, tức phải quay lưng từ bỏ cuộc sống nộ lệ của kiêu căng, dục vọng, ích kỷ để thực thi giới răn “Yêu người”.
2. Sứ điệp Lời Chúa công cuộc Loan Báo Tin Mừng hôm nay :
Trước hết, chưa bao giờ thế giới, con người thoát khỏi “thân phận lưu đày, nô lệ”. Tiền bạc, dục vọng, tự do phóng túng, đam mê quyền lực…, luôn là những “kiếp lưu đầy Babylon”, là những “Xê-da” đầy quyền lực, áp lực trên cuộc sống của bao dân tộc và bao con người.
Đức Kitô, Đấng được xức dầu mà hơn 500 năm trước trong thời lưu đầy Babylon, đã được tiên báo qua dung mạo của ông hoàng ngoại đạo Ky-rô, đã “vâng lệnh Thánh ý Chúa Cha”, giải thoát và dẫn đưa nhân loại về “quê hương” đích thực ; và Ngài tiếp tục sai các môn sinh “chèo ra chỗ nước sâu”, làm những “tay lưới người”, trở nên “men muối, ánh sáng”…để dẫn đưa con người tiến về Giêrusalem trên trời.
- Thế nhưng để làm được công trình “hồi hương và tái dựng” đầy nhiêu khê và thử thách ấy, dứt khoát Hội Thánh hôm nay, các môn sinh của Ngài phải thực thi hai nguyên tắc nền tảng mà Đức Kitô đã dạy cách đây 2000 năm trước : “trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, và trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da”.
Trước hết, “trả về cho Thiên Chúa” có nghĩa là :
- Trở nên “những người thợ sẵn sàng nghe tiếng chủ để dấn thân đi làm vườn nho cho dù đến trễ.
- Sẵn sàng làm “những đầy tớ trung tín biến những nén vàng được chủ trao sinh lãi được gấp trăm”
- Biến cuộc sống thành “những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa sinh hoa kết trái”.
- Bước theo những tâm hồn khiêm hạ khó nghèo như Đức Trinh Nữ Maria, thánh cả Giuse, các Tông Đồ…luôn biết hát bài “Magnificat” để tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân cao cả và những việc lạ lùng Chúa đã ân trao…
- Kiên vững cậy trông, phó thác cho tình thương và sự quan phòng của Cha như những con chim sẻ, những cây hoa huệ giữa cánh đồng hay những sợi tóc trên đầu bất chợt rơi xuống… !
- Can đảm “vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người” cho dù phải gian nan, khốn khó, bách hại, ngục tù và cả cái chết…
Làm người Kitô hữu hôm nay phải chăng là phấn đấu để biết từng ngày “trả về cho Thiên Chúa” những sự thuộc về Ngài, là không ngừng thánh hóa bản thân theo những đòi hỏi và kích thước của Tin Mừng, là tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa ngang qua các dấu chỉ của cuộc sống, là trung thành hiệp thông với Giáo Hội trong phụng vụ và nguyện cầu.
Trả cho Xê-da những gì của Xê-da có nghĩa là :
Nếu hiểu “Xê-da” đó chính là địa chỉ của tội lỗi, thế gian, ma quỷ… thì “trả lại Xê-da…” có nghĩa là :
- Bỏ lại đằng sau “kiếp sống chăn heo”, hoang đàng tội lỗi để cất bước quay về nhà của Cha.
- Đứng lên giã từ quá khứ, làm lại cuộc đời như những Matthêô, Giakê, Maiđệliên, người trộm lành bên thánh giá …
Nếu hiểu “Xê-da” đó là hình ảnh của một nhân loại đáng thương, cần ơn cứu độ, cần được giải thoát, thì “trả cho Xê-da…” đó là :
- Biết quỳ xuống rửa chân cho anh em, nhất là rửa chân cho những nguời nghèo hèn khốn khổ như Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã nêu gương.
- Biết trở thành người Samari nhân hậu để giúp đỡ anh chị em chúng ta, những ai đang khốn khó ngặt nghèo, bì chà đạp, xúc phạm, bóc lột và đang lâm vòng nguy khốn tinh thần cũng như thể chất.
- Biết liên đới với mọi người để dựng xây hòa bình, để kiến tạo bầu khí huynh đệ, hiệp thông, để đẩy lùi những đói nghèo bệnh tật, để xoa dịu những vết thương chiến tranh, giúp đỡ hàn gắn những đổ nát của thiên tại địch họa và nổ lực làm cho bộ mặt trái đất mỗi ngày thêm đẹp thêm xinh…
Là những người Kitô hữu, là con cái trong gia đình có Thiên Chúa là Cha, hay như cách gọi của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Tê-xa-lô-ni-ca trong bài đọc 2 hôm nay : “là những người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn” (1 Tx 1,4), chúng ta nhất quyết “trả về cho Thiên Chúa” những bổn phận cơ bản mà đời sống đức tin đòi hỏi phải thực hiện mỗi ngày.
Là anh em trong gia đình Giáo Hội và trong mái nhà chung của trái đất, chúng ta phải thực hành bác ái yêu thương với mọi anh em đồng loại mà theo ngôn ngữ của Tin Mừng hôm nay đó là “trả lại cho Xê-da những gì thuộc Xê-da”.
Hôm nay cũng là ngày mà Hội Thánh gọi mời toàn thể con cái trong gia đình Giáo Hội cùng ý thức sâu sắc và sống tích cực sứ mệnh Truyền Giáo của mình, một sứ mệnh mà chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã ước mơ sẽ trở thành lẽ sống và hoạt động hiện thực giữa lòng dân Chúa hôm nay:
“Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.” (EG 27).
Nói cách khác, để nhân loại quy về một “đoàn Dân duy nhất”, tiến về Giêrusalem trên trời, Giáo Hội đang cần những Ky-rô đứng lên “đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa”, cần những con người dấn thân chọn Đức Kitô và con đường Vượt Qua của Ngài, sẵn sàng “trả cho Thiên Chúa những sự thuộc về Ngài’ và “trả cho Xê-da những cái thuộc Xê-da”. Con đường đó, cuộc hành trình đó, từ Ky-rô đến Xê-da, cho dẫu có dài thăm thẳm, cho dẫu có thử thách gian nan, thì cũng sẽ đạt đích. Bởi vì đó chính là con đường của chính Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta hôm nay một lần nữa nghe chính Ngài phán dạy : “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”. (Is 45,6b)
Giuse Trương Đình Hiền
Tin Giáo Hội Việt Nam
Họp bạn lớp Linh Mục khoá 3 đại chủng viện Thánh Giuse Sàigòn
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
09:00 21/10/2017
Đức Tân Giám Mục Luy Nguyễn Anh Tuấn, sau khi được tấn phong ngày 14.10, ngài đã dâng Thánh Lễ tạ ơn tại ba Thánh đường, nơi đầu tiên tại Vương cung Thánh Đường Đức Bà Sài Gòn vào chiều ngày 15 tháng 10, nơi thứ hai tại Nhà thờ Tân Định vào chiều ngày 16.10 và tại Nhà thờ Chính tòa Đà nẵng vào chiều 17.10.
Và ưu tiên thứ tư, Đức Tân Giám Mục Luy dâng lễ tạ ơn cùng anh em Linh Mục Khóa 3 Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn tại Phòng nguyện Nhà hành hương TGP Sài Gòn tại Bãi Dâu Vũng Tàu sáng ngày 19.10.
Xem Hình
Từ ngày 18.10, anh em chúng tôi từ 7 Giáo phận đã tề tựu về Bãi Dâu họp lớp trong niềm vui hòa chung tâm tình tạ ơn Chúa, một người anh em được cất nhắc lên hàng Giám Mục. Gặp gỡ nhau tay bắt mặt mừng, hỏi han chia sẻ, cười đùa hồn nhiên, rạng rỡ niềm vui, câu chuyện trọng tâm luôn xoay quanh vị tân Giám mục.Thật đầm ấm tình huynh đệ “Ngọt ngào vị tốt đẹp biết bao. Anh em vui sướng sum vầy bên nhau”.
Sau kinh tối, anh em họp mặt chia sẻ, đại diện từng giáo phận tóm kết đôi nét về công việc mục vụ mỗi anh em tại giáo xứ hay chủng viện. Đặc biệt, Đức cha Luy chia sẻ những tâm tình khi được chọn làm Giám mục. Cha Giuse Bùi Công Trác - Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài gòn chia sẻ đôi điều những sinh hoạt chủng viện. Nhiều anh em chúc mừng và hỏi han Đức cha Luy, cha Giám đốc trong sứ vụ mới…
Thánh lễ tạ ơn sáng ngày 19.10, từ câu chuyện Tin mừng, Đức cha Luy gợi lên những nét đẹp của tình bạn Chủng sinh - Linh mục.
Nhớ một ngày tháng 10 năm 1993, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau trong mái nhà Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài gòn. Hôm nay, cũng tháng 10 kỷ niệm 24 năm anh em gặp nhau nên đây là cử hành tình bạn 24 năm. Sang năm chúng ta mừng 25 năm gặp gỡ “cái thửa ban đầu lưu luyến ấy”.
Tình bạn rất đẹp! từ Chủng sinh đến Linh mục.Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, là quà tặng quý giá. Mỗi lần họp lớp trở về, tôi thấy mình như được tăng thêm sức lực thiêng liêng.
Họp mặt hằng tháng trong giáo phận và hằng năm trong lớp của mình, điều đó rất tuyệt vời. Nhiều niềm vui của anh em sau lâu ngày gặp lại nhau và là chất xúc tác thiêng liêng làm cho mình sống nhiều tháng sau đó.
Chúng ta sống với nhau trong niềm hy vọng băng qua cuộc sống ơn gọi với những khó khăn thách đố là nhờ ơn Chúa và nhờ anh em. Tạ ơn Chúa vì tình người của những anh chị em giáo dân, tu sĩ cộng tác với mình và tạ ơn Chúa vì tình bạn của anh em chúng ta. Cho nên thật là ý nghĩa trong tình bạn, được thể hiện trong lời cầu nguyện, nhớ nhau dịp bổn mạng của anh em và nhất là trong các dịp lễ, những ngày họp lớp.
Cám ơn Chúa, tình bạn như là những chất xúc tác, như là những năng lượng mới để chúng ta tái tạo cho nhau và đó cũng là ơn Chúa thương ban cho đời linh mục.
Sau thánh lễ, lần lượt mỗi anh em chụp hình lưu niệm với người bạn Giám mục của mình. Những hình ảnh thật đẹp về tình bạn thân thương.
***
Chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là bạn của Thầy, chính Thầy lựa chọn anh em …” (Ga 15, 15). Tình bạn luôn luôn là một sự lựa chọn: “Số phận tạo ra cha mẹ, sự chọn lựa tạo nên bạn bè” (J. Delile). Chọn lựa ơn gọi Linh mục nên anh em chúng tôi gặp nhau học chung một lớp và trở nên bạn hữu trong sứ vụ Linh mục của Chúa Giêsu Kitô.
Tình bạn là một ân huệ Chúa ban, là một “cơ duyên” Trời cho. Hiểu như vậy nên triết gia Platon đã nói: “Thượng Đế dựng nên các người bạn, và dẫn người bạn này đến với người bạn kia”. Ông vẫn nghĩ tình bạn là tia chớp huyền bí của thần thánh. Cicéron cũng phát biểu: “Tình bạn như mặt trời trong cuộc sống chúng ta, là ơn lớn nhất sau sự khôn ngoan mà các thần linh ban cho con người”. Người ta không thể chế tạo được tình bạn. Sự nẩy sinh tình bạn vẫn luôn là một huyền nhiệm. Bỗng dưng một ngày, tình bạn đã có đó, và như vậy, Thiên Chúa đã mở cánh cửa của lòng tôi. Và rồi, tình bạn trở nên nơi an bình, vì thế, ai cũng cần một khoảng không gian cho tình bạn.
Tình bạn là một dấu chỉ và là chứng từ cốt yếu, và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ của Chúa Giêsu. Điều đó càng quan trọng hơn đối với linh mục giáo phận.
Tình bạn linh mục là dấu hiệu tiêu biểu của các môn đệ Chúa Giêsu. Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Emmaus cho anh em kinh nghiệm về tình bạn được dựa trên: việc “ở lại” với Chúa Giêsu; hiểu Lời Chúa bằng niềm tin vào Chúa Kitô; cử hành Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa chết và sống lại; lên đường, củng cố và xác nhận niềm tin của nhau, của cộng đoàn.
Tình bạn này là Tình Huynh đệ giữa những người được thánh hiến bởi Bí tích Truyền chức nên mang tính bí tích của sự hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa (x. 1Ga 4,7-21).
Có những tình bạn nơi các vị thánh tuyệt đẹp, như tình bạn của chị em Têrêsa de Lisieux, của Phanxicô và Clara, đặc biệt của đôi bạn Phanxicô-xaviê và Inhaxiô.Trên đường truyền giáo đến Nhật bản và Trung Quốc, Phanxicô-xaviê đã tuôn trào ngấn lệ khi đọc lá thơ của Inhaxiô. Cuộc trao đổi thơ từ đã làm cho tình bạn của họ trở nên sinh động, gây phấn chấn cho nhau dù không còn gặp lại nhau nữa. Họ cảm nhận được tình yêu thương nồng hậu của nhau, và điều đó đã giúp Phanxicô can đảm thực hiện cuộc hành trình đầy nguy hiểm và hoàn tất sứ vụ. Chính tình bạn thâm sâu tự cõi lòng đã hình thành những dòng chữ có giá trị vô song, khơi dậy sự sống tinh thần và niềm tin yêu quả cảm.
Tình bạn làm cho anh em Linh mục mỗi ngày có được tình yêu nồng thắm hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể cũng như trong đời thường, có cảm nghiệm thâm sâu hơn về những tác động linh thiêng mà Chúa mời gọi qua từng sự việc, con người và biến cố.
“Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng” (Hc 6,14). Linh mục không bao giờ cô đơn, nhưng luôn được Thiên Chúa toàn năng nâng đỡ. Linh mục luôn tin vào Đức Kitô, Đấng đã kêu gọi các mình tham dự vào chức tư tế của Người.
Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt. Chúng ta đừng bỏ các buổi họp; trái lại phải khuyến khích nhau nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến gần” (Dt 10,24-25). Tình bạn giúp anh em bình an như lời thánh nhân: “Chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và xây dựng cho nhau” (Rm 14,19).
Khóa III đóng góp khá nhiều nhân sự cho các ủy ban của HĐGMVN và các Đại chủng viện.Một số anh em là Giáo sư ngoại trú các Đại chủng viện, các học viện dòng tu, có anh là Hạt trưởng, có anh làm việc tại các Tòa Giám mục, các Trung tâm mục vụ và cũng có anh đang phục vụ tại các vùng biên giới. Đông đảo nhất vẫn là Linh mục quản xứ miệt mài trên mọi nẻo đường truyền giáo. Có những anh xây Nhà thờ bế thế. Có anh đang xây nhà giáo lý mục vụ và cũng có anh đang nhiệt thành cộng tác xây công trình lớn của giáo phận…Có anh coi xứ mười mấy ngàn giáo dân và cũng có anh coi xứ mấy trăm giáo dân vùng sâu vùng xa.
Gặp gỡ nhau, anh em ôn lại chuyện một thời “dùi mài kinh sử”, hàn huyên những câu chuyện mục vụ, những thao thức của Giáo Hội. Cùng đọc kinh nguyện, dâng thánh lễ. Nhắc nhớ những kỷ niệm một thưở học trò thật vui vẻ và trong sáng. Tắm biển thư giãn, những bữa cơm đầm ấm tình huynh đệ, rôm rã câu chuyện gởi trao. Ai cũng thấy hồn nhiên như năm nào dù có anh đã U 60 rồi.
Họp lớp là một cơ hội tốt để gia tăng tình hiệp nhất, lòng nhiệt thành sứ vụ Linh mục. Họp lớp luôn để lại nhiều kỷ niệm đẹp về tình bạn, nhiều kinh nghiệm mục vụ và nhiều dấu ấn thiêng liêng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa gọi các Tông đồ là bạn hữu của Chúa, xin cho anh em chúng con sống tình bạn Linh mục và yêu mến Chúa ngày mỗi nhiều hơn. Xin cho anh em chúng con chút linh hồn nghệ sĩ để thấy không buổi chiều nào có hai màu mây giống nhau. Mỗi bình minh là một độc đáo, mỗi thánh lễ là một ơn cứu độ được thông phần vào hiến tế của Chúa.
Những ngày chúng con đang sống, và những ngày đang tới với chúng con phải là những ngày đẹp hơn và hạnh phúc hơn, vì lòng thương xót của Chúa cứ theo dòng thời gian mà ban xuống cho anh em chúng con trên mọi nẻo đường phục vụ. Xin cho anh em chúng con luôn nhớ cầu nguyện cho nhau được sống xứng đáng tình bạn linh mục mà Chúa đã thương ban, nhất là người anh em làm Giám Mục trong trách vụ cao cả. Amen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Và ưu tiên thứ tư, Đức Tân Giám Mục Luy dâng lễ tạ ơn cùng anh em Linh Mục Khóa 3 Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn tại Phòng nguyện Nhà hành hương TGP Sài Gòn tại Bãi Dâu Vũng Tàu sáng ngày 19.10.
Xem Hình
Từ ngày 18.10, anh em chúng tôi từ 7 Giáo phận đã tề tựu về Bãi Dâu họp lớp trong niềm vui hòa chung tâm tình tạ ơn Chúa, một người anh em được cất nhắc lên hàng Giám Mục. Gặp gỡ nhau tay bắt mặt mừng, hỏi han chia sẻ, cười đùa hồn nhiên, rạng rỡ niềm vui, câu chuyện trọng tâm luôn xoay quanh vị tân Giám mục.Thật đầm ấm tình huynh đệ “Ngọt ngào vị tốt đẹp biết bao. Anh em vui sướng sum vầy bên nhau”.
Sau kinh tối, anh em họp mặt chia sẻ, đại diện từng giáo phận tóm kết đôi nét về công việc mục vụ mỗi anh em tại giáo xứ hay chủng viện. Đặc biệt, Đức cha Luy chia sẻ những tâm tình khi được chọn làm Giám mục. Cha Giuse Bùi Công Trác - Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài gòn chia sẻ đôi điều những sinh hoạt chủng viện. Nhiều anh em chúc mừng và hỏi han Đức cha Luy, cha Giám đốc trong sứ vụ mới…
Thánh lễ tạ ơn sáng ngày 19.10, từ câu chuyện Tin mừng, Đức cha Luy gợi lên những nét đẹp của tình bạn Chủng sinh - Linh mục.
Nhớ một ngày tháng 10 năm 1993, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau trong mái nhà Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài gòn. Hôm nay, cũng tháng 10 kỷ niệm 24 năm anh em gặp nhau nên đây là cử hành tình bạn 24 năm. Sang năm chúng ta mừng 25 năm gặp gỡ “cái thửa ban đầu lưu luyến ấy”.
Tình bạn rất đẹp! từ Chủng sinh đến Linh mục.Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, là quà tặng quý giá. Mỗi lần họp lớp trở về, tôi thấy mình như được tăng thêm sức lực thiêng liêng.
Họp mặt hằng tháng trong giáo phận và hằng năm trong lớp của mình, điều đó rất tuyệt vời. Nhiều niềm vui của anh em sau lâu ngày gặp lại nhau và là chất xúc tác thiêng liêng làm cho mình sống nhiều tháng sau đó.
Chúng ta sống với nhau trong niềm hy vọng băng qua cuộc sống ơn gọi với những khó khăn thách đố là nhờ ơn Chúa và nhờ anh em. Tạ ơn Chúa vì tình người của những anh chị em giáo dân, tu sĩ cộng tác với mình và tạ ơn Chúa vì tình bạn của anh em chúng ta. Cho nên thật là ý nghĩa trong tình bạn, được thể hiện trong lời cầu nguyện, nhớ nhau dịp bổn mạng của anh em và nhất là trong các dịp lễ, những ngày họp lớp.
Cám ơn Chúa, tình bạn như là những chất xúc tác, như là những năng lượng mới để chúng ta tái tạo cho nhau và đó cũng là ơn Chúa thương ban cho đời linh mục.
Sau thánh lễ, lần lượt mỗi anh em chụp hình lưu niệm với người bạn Giám mục của mình. Những hình ảnh thật đẹp về tình bạn thân thương.
***
Chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là bạn của Thầy, chính Thầy lựa chọn anh em …” (Ga 15, 15). Tình bạn luôn luôn là một sự lựa chọn: “Số phận tạo ra cha mẹ, sự chọn lựa tạo nên bạn bè” (J. Delile). Chọn lựa ơn gọi Linh mục nên anh em chúng tôi gặp nhau học chung một lớp và trở nên bạn hữu trong sứ vụ Linh mục của Chúa Giêsu Kitô.
Tình bạn là một ân huệ Chúa ban, là một “cơ duyên” Trời cho. Hiểu như vậy nên triết gia Platon đã nói: “Thượng Đế dựng nên các người bạn, và dẫn người bạn này đến với người bạn kia”. Ông vẫn nghĩ tình bạn là tia chớp huyền bí của thần thánh. Cicéron cũng phát biểu: “Tình bạn như mặt trời trong cuộc sống chúng ta, là ơn lớn nhất sau sự khôn ngoan mà các thần linh ban cho con người”. Người ta không thể chế tạo được tình bạn. Sự nẩy sinh tình bạn vẫn luôn là một huyền nhiệm. Bỗng dưng một ngày, tình bạn đã có đó, và như vậy, Thiên Chúa đã mở cánh cửa của lòng tôi. Và rồi, tình bạn trở nên nơi an bình, vì thế, ai cũng cần một khoảng không gian cho tình bạn.
Tình bạn là một dấu chỉ và là chứng từ cốt yếu, và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ của Chúa Giêsu. Điều đó càng quan trọng hơn đối với linh mục giáo phận.
Tình bạn linh mục là dấu hiệu tiêu biểu của các môn đệ Chúa Giêsu. Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Emmaus cho anh em kinh nghiệm về tình bạn được dựa trên: việc “ở lại” với Chúa Giêsu; hiểu Lời Chúa bằng niềm tin vào Chúa Kitô; cử hành Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa chết và sống lại; lên đường, củng cố và xác nhận niềm tin của nhau, của cộng đoàn.
Tình bạn này là Tình Huynh đệ giữa những người được thánh hiến bởi Bí tích Truyền chức nên mang tính bí tích của sự hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa (x. 1Ga 4,7-21).
Có những tình bạn nơi các vị thánh tuyệt đẹp, như tình bạn của chị em Têrêsa de Lisieux, của Phanxicô và Clara, đặc biệt của đôi bạn Phanxicô-xaviê và Inhaxiô.Trên đường truyền giáo đến Nhật bản và Trung Quốc, Phanxicô-xaviê đã tuôn trào ngấn lệ khi đọc lá thơ của Inhaxiô. Cuộc trao đổi thơ từ đã làm cho tình bạn của họ trở nên sinh động, gây phấn chấn cho nhau dù không còn gặp lại nhau nữa. Họ cảm nhận được tình yêu thương nồng hậu của nhau, và điều đó đã giúp Phanxicô can đảm thực hiện cuộc hành trình đầy nguy hiểm và hoàn tất sứ vụ. Chính tình bạn thâm sâu tự cõi lòng đã hình thành những dòng chữ có giá trị vô song, khơi dậy sự sống tinh thần và niềm tin yêu quả cảm.
Tình bạn làm cho anh em Linh mục mỗi ngày có được tình yêu nồng thắm hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể cũng như trong đời thường, có cảm nghiệm thâm sâu hơn về những tác động linh thiêng mà Chúa mời gọi qua từng sự việc, con người và biến cố.
“Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng” (Hc 6,14). Linh mục không bao giờ cô đơn, nhưng luôn được Thiên Chúa toàn năng nâng đỡ. Linh mục luôn tin vào Đức Kitô, Đấng đã kêu gọi các mình tham dự vào chức tư tế của Người.
Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt. Chúng ta đừng bỏ các buổi họp; trái lại phải khuyến khích nhau nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến gần” (Dt 10,24-25). Tình bạn giúp anh em bình an như lời thánh nhân: “Chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và xây dựng cho nhau” (Rm 14,19).
Khóa III đóng góp khá nhiều nhân sự cho các ủy ban của HĐGMVN và các Đại chủng viện.Một số anh em là Giáo sư ngoại trú các Đại chủng viện, các học viện dòng tu, có anh là Hạt trưởng, có anh làm việc tại các Tòa Giám mục, các Trung tâm mục vụ và cũng có anh đang phục vụ tại các vùng biên giới. Đông đảo nhất vẫn là Linh mục quản xứ miệt mài trên mọi nẻo đường truyền giáo. Có những anh xây Nhà thờ bế thế. Có anh đang xây nhà giáo lý mục vụ và cũng có anh đang nhiệt thành cộng tác xây công trình lớn của giáo phận…Có anh coi xứ mười mấy ngàn giáo dân và cũng có anh coi xứ mấy trăm giáo dân vùng sâu vùng xa.
Gặp gỡ nhau, anh em ôn lại chuyện một thời “dùi mài kinh sử”, hàn huyên những câu chuyện mục vụ, những thao thức của Giáo Hội. Cùng đọc kinh nguyện, dâng thánh lễ. Nhắc nhớ những kỷ niệm một thưở học trò thật vui vẻ và trong sáng. Tắm biển thư giãn, những bữa cơm đầm ấm tình huynh đệ, rôm rã câu chuyện gởi trao. Ai cũng thấy hồn nhiên như năm nào dù có anh đã U 60 rồi.
Họp lớp là một cơ hội tốt để gia tăng tình hiệp nhất, lòng nhiệt thành sứ vụ Linh mục. Họp lớp luôn để lại nhiều kỷ niệm đẹp về tình bạn, nhiều kinh nghiệm mục vụ và nhiều dấu ấn thiêng liêng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa gọi các Tông đồ là bạn hữu của Chúa, xin cho anh em chúng con sống tình bạn Linh mục và yêu mến Chúa ngày mỗi nhiều hơn. Xin cho anh em chúng con chút linh hồn nghệ sĩ để thấy không buổi chiều nào có hai màu mây giống nhau. Mỗi bình minh là một độc đáo, mỗi thánh lễ là một ơn cứu độ được thông phần vào hiến tế của Chúa.
Những ngày chúng con đang sống, và những ngày đang tới với chúng con phải là những ngày đẹp hơn và hạnh phúc hơn, vì lòng thương xót của Chúa cứ theo dòng thời gian mà ban xuống cho anh em chúng con trên mọi nẻo đường phục vụ. Xin cho anh em chúng con luôn nhớ cầu nguyện cho nhau được sống xứng đáng tình bạn linh mục mà Chúa đã thương ban, nhất là người anh em làm Giám Mục trong trách vụ cao cả. Amen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên trung tâm hành hương Đức Mẹ Măng Đen Kontum
Trần Tiến
09:14 21/10/2017
Bao nhiêu ngày tháng hay nói đúng hơn là năm mong đợi, hôm nay, 21 tháng 10 năm 2017 phải nói là ngày vui, ngày hồng phúc mà Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Măng Đen đã ban cho Giáo Phận Kontum. Hôm nay, cả giáo phận Kontum, hướng về Măng Đen để cùng nhau dâng Thánh Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên TTHH Đức Mẹ Măng Đen.
Xem Hình
Từ nhiều ngày qua, công việc chuẩn bị cho Đại Lễ hôm nay được Cha Quản Nhiệm Bartholomeo Nguyễn Đức Thịnh và cộng sự viên lo hết tâm tình, lo hết sức mình cho ngày Lễ hôm nay.
8 g 30, Đức Cha Aloisio phát biểu với cộng đoàn, có lời chào mừng quý chính quyền, tôn giáo bạn ...
Sau lời Đức Cha là tiết mục múa dân tộc được trình diễn.
9 giờ kém, Cha Gioan Baotixita Hồ Quang Huyên cùng hát Kinh Chúa Thánh Thần và đọc kinh Mân Côi với cộng đoàn.
Sau lời kinh Mân Côi, cộng đoàn cùng nghe người dẫn Lễ ngỏ đôi lời trước khi vào Thánh Lễ :
Kính thưa cộng đoàn, ngày hôm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để dâng Thánh Lễ tạ ơn, đồng thời cử hành nghi thức làm phép và đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đền Thánh kính Đức Mẹ sầu bi Măng Đen này.
Kính thưa cộng đoàn, đã từ lâu chúng ta mong ước có nơi xứng hợp để cử hành việc phụng tự tôn vinh Thiên Chúa tại nơi này.
Đền Thờ này nhắc nhở mỗi người cũng phải trở nên Đền Thờ của Chúa và mỗi khi đến hành hương chúng ta xác tín về niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ mà viên đá góc chính là Chúa Giêsu Kitô. Ngõ hầu đức tin của chúng ta ngày càng vững chắc hơn. Từ nơi đây, chúng ta đón nhận ơn Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và noi gương Mẹ, chúng ta chia sẻ ơn Chúa cho người khác. Cách riêng bằng gương sáng và bằng việc thực thi bác ái, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. Và cũng từ nơi đây chúng ta trông đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Với niềm hy vọng cùng hưởng hồng phúc với Mẹ Maria và các Thánh trong Nước Trời mai sau
Kính thưa cộng đoàn, hồng ân nối tiếp hồng ân.Sau một thời gian dài chờ đợi, hôm nay Giáo Phận Kotum chúng ta đón nhận hồng ân ơn dạt dào từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Và niềm vui của ngày Lễ đặt viên đá đầu tiên được bao bọc trong bầu khí thánh thiện của Năm Thánh mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Thật vui mừng khôn tả, hòa chung niềm vui đầy ắp thánh thiện, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời tri ân Thiên Chúa cảm tạ và nài xin Thiên Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Măng Đen chúc lành và cho công việc xây dựng cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa, theo sự quan phòng của Thiên Chúa.
9 g 15, cộng đoàn đón đoàn đồng tế từ phía cuối Lễ Đài. Ca đoàn đã cất lên bài hát Nhập Lễ quen thuộc : “Từ muôn phương ta về đây ...”
Đi đầu đoàn rước là Thánh giá đèn hầu, thiếu nữ dân tộc, cồng chiên, quý Cha và sau cùng là Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung – nguyên giám mục Giáo phận Kontum và Đức Cha Aloisio. Đi cạnh Đức cha Aloisio là Cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Vân Đông và Cha Bartholomeo Nguyễn Đức Thịnh – quản nhiệm Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen.
Cùng đồng tế với quý Đức Cha, Cha Tổng, Cha Quản Nhiệm là quý Cha trong cũng như ngoài Giáo Phận Kontum.
Ngỏ lời vào Thánh Lễ hôm nay, Đức Cha nói :
Trọng Kính Đức Cha Phêrô, kính thưa Cha Tổng Đại Diện, quý Cha đồng tế, các cấp chính quyền Kontum, quý đại diện các tôn giáo bạn, quý ân nhân quý khách và toàn thể anh chị em. Hôm nay, tất cả chúng ta vui mừng đến đây dâng Thánh lễ cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho công việc xây dựng khu vực hành hương Đức Mẹ Măng Đen với nghi thức đặt viên đá đầu tiên.
Vì là nơi hành hương nên Nhà Thờ này gọi là Đền Thánh Đức Mẹ Sầu Bi Măng Đen. Chúng ta cùng cảm tạ Thiên Chúa đã an bài cho Giáo Phận chúng ta có Măng Đen làm trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ.
Các anh chị em có lòng tin và yêu mến Đức Mẹ dù là lương, là giáo hay bất cứ tôn giáo nào từ các nơi về đây hoặc thường xuyên lui tới nơi đây chắc chắn không phải vì thích đi du lịch. Đó là đi hành hương theo ý nghĩa tôn giáo. Quả thực, nhiều anh chị em làm chứng cho việc chuyển cầu của Đức Mẹ Măng Đen ban cho họ nhiều ơn : ơn phần hồn, ơn phần xác. Chúng ta tiếp tục cầu xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót ban cho những kẻ xin có những ơn trong cuộc sống, nhất là cần thiết cho ơn cứu độ và việc làm phép lát nữa đây sẽ thay cho nghi thức sám hối. Giờ đây chúng ta dâng lời cầu nguyện.
Trong bài chia sẻ, Đức Cha Aloisio chia sẻ với cộng đoàn :
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, hôm nay, là lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đền Thánh Đức Mẹ sầu Bi Măng Đen.
Việc xây nhà đương nhiên có liên quan đến các yếu tố xi măng, gạch, đá ... các bài sách Thánh hôm nay cũng đặc biệt nhắc đến yếu tố đá. Bài đọc 1 nói đến Đức Kitô là tảng đá mà trong Cựu Ước Môse đã làm cho nước vọt ra cho dân Do Thái uống trong sa mạc. Đức Kitô là tảng đá nói lên là sự vững chắc, Đức. Từ tảng đá vọt ra nước điều này muốn nói Đức Kito là nguồn mạch sự sống. Kinh Thánh nói Chúa là núi đá cho ta ẩn mình. Hãy đến với Chúa Giêsu để được che chở, hãy đến với Chúa Giêsu để được sống dồi dào. Vậy chúng ta hãy xây dựng đời mình trên Đức Kitô để để được ơn cứu độ bảo đảm nhất.
Trong bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm tảng đá và trao cho Phê rô chìa khóa Nước Trời cho ông. Trên tảng đó Chúa sẽ xây dựng Hội Thánh của Ngài. Hội Thánh của Chúa là dân Thiên Chúa. Hội Thánh của Chúa được xây dựng trên nền tảng các tông đồ, đặc biệt trên tảng đá Phêrô. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói cho Phêrô sứ mạng đó. Theo tiếng nước ngoài như là tiếng Latin, Anh, Pháp ... Hội Thánh và Nhà Thờ dùng chung 1 chữ. Khi viết hoa hiểu là Hội Thánh, khi viết thường thì chỉ là nhà thờ.
Nếu nhà thờ có thể xây nên bằng đá thì các Kitô hữu là những viên đá sống động để xây nên nhà thờ thiêng liêng là Hội Thánh trong đó Chúa Kitô là viên đá góc tường lLàm cho tòa nhà đứng vững. Như vậy, chúng ta thấy có sự liên quan mật thiết giữa Nhà Thờ và Hội Thánh. Nói cách khác, Nhà Thờ là sự hiện diện hữu hình của Đền Thánh Giêrusalem trên Trời.
Nhà thờ có tầm quan trọng như thế nào ? Đối với người Kitô hữu, Nhà thờ có tầm quan trọng hết sức lớn lao. Nhà thờ sau khi được thánh hiến hay làm phép được gọi là Nhà của Thiên Chúa vì nơi đó có sự hiện diện của Thiên Chúa khi cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện, khi công bố Lời Chúa và nhất là khi cử hành Thánh lễ, có Mình Thánh Chúa. Đồng thời, nhà thờ cũng là nhà của dân Chúa khi dân Chúa góp sức xây dựng lên. Vì là nhà của dân Chúa nên có thể nói cả cuộc đời của người Kitô hữu gắn liền với Nhà Thờ qua việc sinh hoạt tôn giáo và qua việc lãnh nhận các bí tích.
Đối với người tín hữu, khi con chào đời cha mẹ nào cũng muốn đem con đến Nhà Thờ để được lãnh nhận Bí Tích rửa rội. Và khi gia nhập Hội Thánh, người dự tòng được mời đi vào trong Nhà Thờ vì Nhà Thờ tượng trưng cho Hội Thánh. Lớn lên đến tuổi khôn các em đến nhà thờ nhận phép Hòa Giải và bó tích Thánh Thể mà chúng ta hay gọi là xưng tội rước Lễ lần đầu. Sau đó thì cứ sự thường, các em và các tín hữu sinh hoạt tại nhà thờ, các em sẽ nhận bí tích Thêm Sức tại nhà thờ. Đến tuổi thành hôn, các đôi bạn trẻ cũng được lãnh nhận Bí tích hôn phối trong nhà Chúa. Và đến khi nhắm mắt, người tín hữu nào cũng muốn được hiện diện lần cuối cùng trong Ngôi Nhà Thờ Giáo xứ trong Thánh Lễ an táng
Như vậy, Nhà thờ là Trái Tim của Giáo xứ, nơi quy tụ giáo dân để sinh hoạt của giáo dân để biểu lộ đức tin qua các lễ nghi tôn giáo. Vì thế người tín hữu dù đi đâu hay ở đâu thì hình ảnh Nhà Thờ giáo xứ vẫn ghi dấu đậm nét.
Nơi Măng Đen này, Ngôi Nhà Thờ mang ý nghĩa khác nữa. Vì là nơi dân chúng thường xuyên lui tới không phải du lịch nhưng để thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Hoặc cầu nguyện hay cảm tạ ơn nào đó đã lãnh nhận. Cho nên Đền Thánh Mẹ Măng Đen này quả là một Trung Tâm hành Hương cho mọi người khắp nơi như các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ khác trên cả nước.
Nhưng Khi đề cập đến ngôi nhà thờ vật chất, dù dựng nên bằng bất cứ vật liệu gì, chúng ta không được quên ngôi nhà thờ Thiêng Liêng là chính mỗi người chúng ta. Nếu linh hồn chúng ta là Đền Thờ Chúa Ba Ngôi thì theo Thánh Phaolô : thân xác chúng ta cũng là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Đối với Ngôi nhà thờ vật chất ai cũng muốn kiên cố và đẹp đẽ, người tín hữu chúng ta được mời gọi biết trang trí cho ngôi nhà thờ thiêng liêng bằng các nhân đức thánh thiện và đạo đức
Hôm nay, toàn thể Giáo Phận vui mừng vì đặt móng ngôi nhà thờ mới. Giáo Phận có nơi thờ phượng Chúa và kính Mẹ xứng đáng hơn trên vùng đất Măng Đen này. Nhưng chúng ta không chỉ dừng lại ở việc vui mừng một công trình vật chất dù to lớn đẹp đẽ đến đâu mà đòi hỏi chúng ta nhìn nhận giá trị bản thân mỗi người là Đền Thờ của Thiên Chúa. Chính vì thế mà tất cảchúng ta phải canh tân chính mình, chúng ta là những viên đá, viên gạch tốt để xây nên Ngôi Đền Thờ Thiêng Liêng là Hội Thánh Chúa. Xin Đức Mẹ Măng Đen chuyển cầu cho chúng ta.
Sau bài chia sẻ của Đức cha, Cha Tổng Đại Diện công bố văn thư xây dựng Trung Tâm Hành Hương Măn Đen.
Sau khi Cha Tổng công bố, Đức Cha Aloisio làm phép diện tích đất Đền Thánh kính Đức Mẹ, làm phép viên đá.
Lời nguyện hiệp Lễ kết thúc, Đức Cha Aloisio ngỏ lời cảm ơn quý Cha, các cấp chính quyền và cộng đoàn dân Chúa. Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng nhau xây dựng và bảo quản công trình.
“Lạy Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đồng trinh ...”đã khép lại Thánh Lễ đặt viên đá xây dựng Đền Thánh Đức Mẹ sầu bi Măng Đen.
Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Măng Đen ban cho công trình xây dựng được sớm hoàn tất để con cái của Mẹ có nơi thờ phượng Chúa và kính mến Mẹ một cách tốt nhất. Xin Chúa trả công bội hậu cho những ai đã góp công, góp của, góp lời cầu nguyện cho Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen này.
Xem Hình
Từ nhiều ngày qua, công việc chuẩn bị cho Đại Lễ hôm nay được Cha Quản Nhiệm Bartholomeo Nguyễn Đức Thịnh và cộng sự viên lo hết tâm tình, lo hết sức mình cho ngày Lễ hôm nay.
8 g 30, Đức Cha Aloisio phát biểu với cộng đoàn, có lời chào mừng quý chính quyền, tôn giáo bạn ...
Sau lời Đức Cha là tiết mục múa dân tộc được trình diễn.
9 giờ kém, Cha Gioan Baotixita Hồ Quang Huyên cùng hát Kinh Chúa Thánh Thần và đọc kinh Mân Côi với cộng đoàn.
Sau lời kinh Mân Côi, cộng đoàn cùng nghe người dẫn Lễ ngỏ đôi lời trước khi vào Thánh Lễ :
Kính thưa cộng đoàn, ngày hôm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để dâng Thánh Lễ tạ ơn, đồng thời cử hành nghi thức làm phép và đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đền Thánh kính Đức Mẹ sầu bi Măng Đen này.
Kính thưa cộng đoàn, đã từ lâu chúng ta mong ước có nơi xứng hợp để cử hành việc phụng tự tôn vinh Thiên Chúa tại nơi này.
Đền Thờ này nhắc nhở mỗi người cũng phải trở nên Đền Thờ của Chúa và mỗi khi đến hành hương chúng ta xác tín về niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ mà viên đá góc chính là Chúa Giêsu Kitô. Ngõ hầu đức tin của chúng ta ngày càng vững chắc hơn. Từ nơi đây, chúng ta đón nhận ơn Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và noi gương Mẹ, chúng ta chia sẻ ơn Chúa cho người khác. Cách riêng bằng gương sáng và bằng việc thực thi bác ái, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. Và cũng từ nơi đây chúng ta trông đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Với niềm hy vọng cùng hưởng hồng phúc với Mẹ Maria và các Thánh trong Nước Trời mai sau
Kính thưa cộng đoàn, hồng ân nối tiếp hồng ân.Sau một thời gian dài chờ đợi, hôm nay Giáo Phận Kotum chúng ta đón nhận hồng ân ơn dạt dào từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Và niềm vui của ngày Lễ đặt viên đá đầu tiên được bao bọc trong bầu khí thánh thiện của Năm Thánh mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Thật vui mừng khôn tả, hòa chung niềm vui đầy ắp thánh thiện, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời tri ân Thiên Chúa cảm tạ và nài xin Thiên Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Măng Đen chúc lành và cho công việc xây dựng cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa, theo sự quan phòng của Thiên Chúa.
9 g 15, cộng đoàn đón đoàn đồng tế từ phía cuối Lễ Đài. Ca đoàn đã cất lên bài hát Nhập Lễ quen thuộc : “Từ muôn phương ta về đây ...”
Đi đầu đoàn rước là Thánh giá đèn hầu, thiếu nữ dân tộc, cồng chiên, quý Cha và sau cùng là Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung – nguyên giám mục Giáo phận Kontum và Đức Cha Aloisio. Đi cạnh Đức cha Aloisio là Cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Vân Đông và Cha Bartholomeo Nguyễn Đức Thịnh – quản nhiệm Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen.
Cùng đồng tế với quý Đức Cha, Cha Tổng, Cha Quản Nhiệm là quý Cha trong cũng như ngoài Giáo Phận Kontum.
Ngỏ lời vào Thánh Lễ hôm nay, Đức Cha nói :
Trọng Kính Đức Cha Phêrô, kính thưa Cha Tổng Đại Diện, quý Cha đồng tế, các cấp chính quyền Kontum, quý đại diện các tôn giáo bạn, quý ân nhân quý khách và toàn thể anh chị em. Hôm nay, tất cả chúng ta vui mừng đến đây dâng Thánh lễ cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho công việc xây dựng khu vực hành hương Đức Mẹ Măng Đen với nghi thức đặt viên đá đầu tiên.
Vì là nơi hành hương nên Nhà Thờ này gọi là Đền Thánh Đức Mẹ Sầu Bi Măng Đen. Chúng ta cùng cảm tạ Thiên Chúa đã an bài cho Giáo Phận chúng ta có Măng Đen làm trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ.
Các anh chị em có lòng tin và yêu mến Đức Mẹ dù là lương, là giáo hay bất cứ tôn giáo nào từ các nơi về đây hoặc thường xuyên lui tới nơi đây chắc chắn không phải vì thích đi du lịch. Đó là đi hành hương theo ý nghĩa tôn giáo. Quả thực, nhiều anh chị em làm chứng cho việc chuyển cầu của Đức Mẹ Măng Đen ban cho họ nhiều ơn : ơn phần hồn, ơn phần xác. Chúng ta tiếp tục cầu xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót ban cho những kẻ xin có những ơn trong cuộc sống, nhất là cần thiết cho ơn cứu độ và việc làm phép lát nữa đây sẽ thay cho nghi thức sám hối. Giờ đây chúng ta dâng lời cầu nguyện.
Trong bài chia sẻ, Đức Cha Aloisio chia sẻ với cộng đoàn :
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, hôm nay, là lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đền Thánh Đức Mẹ sầu Bi Măng Đen.
Việc xây nhà đương nhiên có liên quan đến các yếu tố xi măng, gạch, đá ... các bài sách Thánh hôm nay cũng đặc biệt nhắc đến yếu tố đá. Bài đọc 1 nói đến Đức Kitô là tảng đá mà trong Cựu Ước Môse đã làm cho nước vọt ra cho dân Do Thái uống trong sa mạc. Đức Kitô là tảng đá nói lên là sự vững chắc, Đức. Từ tảng đá vọt ra nước điều này muốn nói Đức Kito là nguồn mạch sự sống. Kinh Thánh nói Chúa là núi đá cho ta ẩn mình. Hãy đến với Chúa Giêsu để được che chở, hãy đến với Chúa Giêsu để được sống dồi dào. Vậy chúng ta hãy xây dựng đời mình trên Đức Kitô để để được ơn cứu độ bảo đảm nhất.
Trong bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm tảng đá và trao cho Phê rô chìa khóa Nước Trời cho ông. Trên tảng đó Chúa sẽ xây dựng Hội Thánh của Ngài. Hội Thánh của Chúa là dân Thiên Chúa. Hội Thánh của Chúa được xây dựng trên nền tảng các tông đồ, đặc biệt trên tảng đá Phêrô. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói cho Phêrô sứ mạng đó. Theo tiếng nước ngoài như là tiếng Latin, Anh, Pháp ... Hội Thánh và Nhà Thờ dùng chung 1 chữ. Khi viết hoa hiểu là Hội Thánh, khi viết thường thì chỉ là nhà thờ.
Nếu nhà thờ có thể xây nên bằng đá thì các Kitô hữu là những viên đá sống động để xây nên nhà thờ thiêng liêng là Hội Thánh trong đó Chúa Kitô là viên đá góc tường lLàm cho tòa nhà đứng vững. Như vậy, chúng ta thấy có sự liên quan mật thiết giữa Nhà Thờ và Hội Thánh. Nói cách khác, Nhà Thờ là sự hiện diện hữu hình của Đền Thánh Giêrusalem trên Trời.
Nhà thờ có tầm quan trọng như thế nào ? Đối với người Kitô hữu, Nhà thờ có tầm quan trọng hết sức lớn lao. Nhà thờ sau khi được thánh hiến hay làm phép được gọi là Nhà của Thiên Chúa vì nơi đó có sự hiện diện của Thiên Chúa khi cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện, khi công bố Lời Chúa và nhất là khi cử hành Thánh lễ, có Mình Thánh Chúa. Đồng thời, nhà thờ cũng là nhà của dân Chúa khi dân Chúa góp sức xây dựng lên. Vì là nhà của dân Chúa nên có thể nói cả cuộc đời của người Kitô hữu gắn liền với Nhà Thờ qua việc sinh hoạt tôn giáo và qua việc lãnh nhận các bí tích.
Đối với người tín hữu, khi con chào đời cha mẹ nào cũng muốn đem con đến Nhà Thờ để được lãnh nhận Bí Tích rửa rội. Và khi gia nhập Hội Thánh, người dự tòng được mời đi vào trong Nhà Thờ vì Nhà Thờ tượng trưng cho Hội Thánh. Lớn lên đến tuổi khôn các em đến nhà thờ nhận phép Hòa Giải và bó tích Thánh Thể mà chúng ta hay gọi là xưng tội rước Lễ lần đầu. Sau đó thì cứ sự thường, các em và các tín hữu sinh hoạt tại nhà thờ, các em sẽ nhận bí tích Thêm Sức tại nhà thờ. Đến tuổi thành hôn, các đôi bạn trẻ cũng được lãnh nhận Bí tích hôn phối trong nhà Chúa. Và đến khi nhắm mắt, người tín hữu nào cũng muốn được hiện diện lần cuối cùng trong Ngôi Nhà Thờ Giáo xứ trong Thánh Lễ an táng
Như vậy, Nhà thờ là Trái Tim của Giáo xứ, nơi quy tụ giáo dân để sinh hoạt của giáo dân để biểu lộ đức tin qua các lễ nghi tôn giáo. Vì thế người tín hữu dù đi đâu hay ở đâu thì hình ảnh Nhà Thờ giáo xứ vẫn ghi dấu đậm nét.
Nơi Măng Đen này, Ngôi Nhà Thờ mang ý nghĩa khác nữa. Vì là nơi dân chúng thường xuyên lui tới không phải du lịch nhưng để thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Hoặc cầu nguyện hay cảm tạ ơn nào đó đã lãnh nhận. Cho nên Đền Thánh Mẹ Măng Đen này quả là một Trung Tâm hành Hương cho mọi người khắp nơi như các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ khác trên cả nước.
Nhưng Khi đề cập đến ngôi nhà thờ vật chất, dù dựng nên bằng bất cứ vật liệu gì, chúng ta không được quên ngôi nhà thờ Thiêng Liêng là chính mỗi người chúng ta. Nếu linh hồn chúng ta là Đền Thờ Chúa Ba Ngôi thì theo Thánh Phaolô : thân xác chúng ta cũng là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Đối với Ngôi nhà thờ vật chất ai cũng muốn kiên cố và đẹp đẽ, người tín hữu chúng ta được mời gọi biết trang trí cho ngôi nhà thờ thiêng liêng bằng các nhân đức thánh thiện và đạo đức
Hôm nay, toàn thể Giáo Phận vui mừng vì đặt móng ngôi nhà thờ mới. Giáo Phận có nơi thờ phượng Chúa và kính Mẹ xứng đáng hơn trên vùng đất Măng Đen này. Nhưng chúng ta không chỉ dừng lại ở việc vui mừng một công trình vật chất dù to lớn đẹp đẽ đến đâu mà đòi hỏi chúng ta nhìn nhận giá trị bản thân mỗi người là Đền Thờ của Thiên Chúa. Chính vì thế mà tất cảchúng ta phải canh tân chính mình, chúng ta là những viên đá, viên gạch tốt để xây nên Ngôi Đền Thờ Thiêng Liêng là Hội Thánh Chúa. Xin Đức Mẹ Măng Đen chuyển cầu cho chúng ta.
Sau bài chia sẻ của Đức cha, Cha Tổng Đại Diện công bố văn thư xây dựng Trung Tâm Hành Hương Măn Đen.
Sau khi Cha Tổng công bố, Đức Cha Aloisio làm phép diện tích đất Đền Thánh kính Đức Mẹ, làm phép viên đá.
Lời nguyện hiệp Lễ kết thúc, Đức Cha Aloisio ngỏ lời cảm ơn quý Cha, các cấp chính quyền và cộng đoàn dân Chúa. Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng nhau xây dựng và bảo quản công trình.
“Lạy Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đồng trinh ...”đã khép lại Thánh Lễ đặt viên đá xây dựng Đền Thánh Đức Mẹ sầu bi Măng Đen.
Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Măng Đen ban cho công trình xây dựng được sớm hoàn tất để con cái của Mẹ có nơi thờ phượng Chúa và kính mến Mẹ một cách tốt nhất. Xin Chúa trả công bội hậu cho những ai đã góp công, góp của, góp lời cầu nguyện cho Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen này.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chí sĩ Ngô Đình Diệm
Hà Minh Thảo
15:48 21/10/2017
ÐÔI DÒNG KHAI BÚT.
Ngày 07.07.1954, Chí sĩ Ngô Ðình Diệm chấp chánh Thủ tướng và trình diện Chính phủ, khi tôi sắp tròn 10 tuổi. Lúc đó, nhờ thân phụ có đặt mua nhật trình (báo ngày), nên tôi có dịp đọc tin tức, thời sự… Năm 1955, lính Bình xuyên pháo kích giải trí trường Ðại Thế giới (đã bị đóng cửa) không đúng tọa độ, nên rơi bên ngoài, nhà tôi ở gần đó, nên phải di tản… Hưởng thụ nền giáo dục nhân bản Việt Nam Cộng hòa và phương pháp giảng huấn tại tư thục Lasan Taberd, như các bạn cùng thời, chúng ta đồng tiến trên đường học vấn. Trong nhiều năm, nhân lễ Giáng sinh, ông Diệm đã đến dâng Thánh Lễ với các Sư huynh và học sinh… Ngày 02.11.1963, Tổng thống Ngô Ðình Diệm vị quốc vong thân. Trong những năm khi Tổng thống và Cố vấn Ngô Ðình Nhu an nghỉ tại nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, sáng ngày 2 tháng 11 hàng năm, đông đảo đồng bào đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho linh hồn Nhị Vị và các Sĩ Quan bị thãm sát tại Vương cung Thánh đường Sài gòn và, sau đó, đa số đã tuần hành viếng mộ và cầu nguyện tại đây.
Nhân dịp Lễ Giỗ lần thứ 54, chúng tôi xin ghi lại những gì mình cảm nhận trong những năm Chí sĩ Ngô Ðình Diệm phục vụ Ðất Nước và Quốc dân Ðồng bào để, ngày nay, hưởng Nhan Thánh Chúa trên Thiêng Ðàng.
I./ CHÍ SĨ NGÔ ÐÌNH DIỆM.
« Điều mà tôi cảm thấy hãnh diện nhất là được phục vụ bên cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm, được ông thương mến và tin cậy. Lúc đó, tôi chỉ là một sĩ quan mang cấp bực Thiếu tá, đảm nhận một vai trò nhỏ bé trong Lữ đoàn Liên minh Phòng vệ Phủ Tổng thống. Nhờ cơ duyên này, tôi được biết rõ Tổng thống là một người rất đạo đức và liêm chính, lại kèm theo một nếp sống thật giản dị, khiêm nhường. Trong những năm tháng được gần ông, tôi chưa từng thấy ông đòi hỏi riêng gì cho cá nhân mình, mà chỉ thấy lúc nào ông cũng ưu tư lo cho dân, cho nước. Đối với tôi, Tổng thống Ngô Đình Diệm, người khai sáng ra nền Đệ nhất Cộng hòa, xứng đáng là một vị lãnh đạo chân chính, đã có công bảo vệ và đem lại nền độc lập và tự do thực sự cho Miền Nam Việt Nam. Tiếc thay, trước những biến đổi của tình hình chính trị, qua tham vọng của một số tướng lãnh, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị thảm sát trong cuộc đảo chính ngày 01.11.1963 ». Đó là những dòng chữ mà Đại tá Nguyễn Hữu Duệ đã viết trong sách ‘Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm’.
Thật là điều hạnh phúc cho chúng ta, những đồng bào của Tổng thống, được sống trên Quê hương, dưới sự lãnh đạo của Người trong hơn 9 năm từ ngày 07.07.1954 đến 01.11.1963. Chí sĩ Ngô Đình Diệm (1901–1963) là một chính trị gia lãnh đạo quốc dân Việt. Người là Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam và là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
A.- Giáo dục Bản thân.
Ngô Đình Diệm chào đời ngày 03.01.1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình quan lại theo đạo Công Giáo, được chầu tên thánh là Gioan Baotixita.
Lúc còn nhỏ, cậu đuợc theo học dưới sự dạy dỗ của Quận Công đức độ và yêu nước Nguyễn Hữu Bài, đang là Thượng thư dưới triều Vua Duy Tân. Quan là đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc. Sở dĩ có sự liên hệ gần gũi như vậy là vì ông Ngô Đình Khôi, anh ông Diệm, cưới con gái ông Nguyễn Hữu Bài (Năm 1955, ông Bài, nhân khi tháp tùng Vua Khải Ðịnh công du nước Pháp, đã đến Vatican để tiếp kiến Ðức Thánh Cha Piô XI. Nhân cơ hội này, ông xin thiết lập bang giao với Tòa Thánh và Việt Nam, đã bị Việt cộng cắt đứt năm 1976).
Ông Diệm theo học tại trường Pellerin Huế. Năm 1913, lúc 12 tuổi, ông thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt ngữ và Pháp ngữ. Năm 1917, lúc 16 tuổi, ông đỗ hạng thứ nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Vì tuổi trẻ mà đạt thành tích cao, nên chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối. Do đó, bà mẹ ông Diệm đã có nhận xét: « Trong số các con tôi, anh nào đi du học ngọai quốc về đều có pha lẫn nhiều điều và mang nhiều mâu thuẫn trong người. Nhưng Diệm thì thuần túy Việt Nam ».
Năm 1918, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một trường dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình. Năm sau, ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, tương tự như Học viện Quốc gia Hành chánh. Trong ba năm học, ông luôn là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp và đã tốt nghiệp thủ khoa.
Ông Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho giáo và Thiên Chúa giáo. Thực vậy, chính Nho giáo đã hun đúc ông thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực và giáo dục Thiên Chúa giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.
Điều đáng lưu ý là khi cậu Diệm vào Trường Quốc Học Huế. Trong thời gian này, cậu học trò nhỏ này có dịp quen biết với trò Nguyễn Sinh Cung, lớn hơn cậu mười tuổi và, sau này, đã đổi tên thành Hồ Chí Minh. Định mệnh đã xui khiến hai đối thủ chính trị này sớm gặp gỡ nhau, người này biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đã từng giết anh Cả của ông Diệm là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật giáo Hòa hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộp cho Hồ năm 1946, thì Hồ đã không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật may mắn, ông Diệm đã tìm cách trốn thoát được. Hồ không làm gì được ông Diệm, vì hắn vừa mới ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06.03.1946, trong đó có điều khoản bảo vệ người quốc gia do Pháp đưa ra. Chẳng những thế mà vài thập niên sau, nhận thấy mình thua kém xa người bạn trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sống thánh thiện không chút tì vết, Hồ đã viết sách ‘Vừa đi đường vừa kể chuyện’ ca ngợi bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, do bọn văn nô đàn em thổi phồng Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độc thân, thì Hồ cũng không vợ (thật vậy ???). Cụ Diệm sống trong một căn phòng nhỏ đơn sơ, thì Hồ cũng cho thợ mộc cất cho hắn một căn nhà toàn gỗ quý chở từ miền rừng thượng du về.
B.- Ảnh hưởng Gia đình.
Một đêm mùa thu năm 1885, tại làng Đại Phong, một nhóm người bắt đạo đã phóng hỏa, bằng những ngọn đuốc, nhà nguyện có nóc và tường bằng tre. Gia đình thân phụ ông Ngô Đình Diệm, trong số những người đang kinh nguyện, đã bị chết, trừ bà nội đã thoát khỏi nhờ bóng tối đêm để chạy đi. Điều may khác là khi đó, thân phụ ông Diệm là ông Ngô đình Khả đang học ở Chủng viện Penang (Mã lai). Thời đó, phải đợi vài tháng sau, hung tin gần cả gia đình bị tàn sát mới tới Chủng viện Penang, các Cha giáo của ông Khả mới đề nghị ông nên trở về nước và cưới vợ để nối dõi tông đường. Chấp thuận đề nghị trên, ông đã trở lại Việt Nam để phụng dưỡng mẹ đang không phương tiện để sinh sống.
Vào làm việc tại Triều đình, ông được Vua Thành Thái ban cử làm Phụ đạo Đại thần và cố vấn cho Vua các vấn đề về Pháp văn và Triết Tây phương… Ông được giao việc tổ chức Trường Quốc học với chức Trưởng giáo. Năm 1905, ông được thăng chức Tổng quản Cấm thành, bảo vệ Vua. Năm 1907, khi chính quyền Bảo hộ dưới sự vận động của khâm sứ Ferdinand Lévecque đòi truất vua Thành Thái, ông nhất quyết không chịu ký tên vào tờ biểu nên ông bị cất chức. Vì vậy dân gian có câu truyền: « Đày vua không Khả, Đào mả không Bài ». Ngày nay, chúng ta có thể thêm vào câu truyền này ý tưởng « Hại dân không Diệm » cũng không phải là điều quá đáng.
Do đó, ông từ quan và đã về làm ruộng với các con trai. Bà Khả cùng Cô Hiệp (mẹ tương lai của Đức Hồng Y Ðáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận) đã vất vả đem cơm nước cho những người thân. Trong hoàn cảnh cơ cực đó, không ai trong gia đình buông lời than trách trước một quyết định ái quốc. Họ vẫn nuôi ý chí ‘làm quan’, sau những kinh nghiệm lao động tay chân và sống cảnh nghèo nàn. Cuối cùng, Ông Khả được vua Khải Định phục hàm khi lên ngôi Vua.
Ông Khả cưới cô Phạm Thị Thân và có 6 con trai (Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện) và 3 gái (Ngô Đình Thị Giao, Ngô Đình Thị Hiệp và Ngô Đình Thị Hoàng).
- Ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam từ năm 1930, bị ép về hưu năm 1943 vì có ý thân Nhật. Con trai duy nhất của ông là Ngô Đình Huân, thư ký và thông ngôn cho viện trưởng Viện văn hóa Nhật tại Sài gòn. Tháng 03.1945, ông khuyên Hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị, trao quyền cho Cộng sản. Ngày 31.08.1945, hai cha con bị Việt Minh bắt và bị hành quyết vài tuần sau đó cùng với ông Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại ở rừng Hắc Thú.
C.- Phục vụ Ðất Nước thời Nguyễn triều.
Sau khi tốt nghiệp trường Hậu Bổ, năm 1921, ông Diệm nhậm chức tri huyện Hương Trà, Hương Thủy và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1926, ông được bổ vào chức tri phủ Hải Lăng và thăng lên quản đạo Ninh Thuận. Năm 1930, vừa tròn 29 tuổi, với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết.
Tháng 09.1932, sau thời gian du học tại Pháp trở về nước, Hoàng đế Bảo Đại quyết định tự mình chấp chính và ban sắc phong 5 Thượng thư mới, trong đó có ông Diệm, trẻ nhất 32 tuổi, được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Lại, đứng đầu Nội các, tương đương Thủ tướng ngày nay, và kiêm nhiệm chức Tổng Thư Ký Hội đồng Cải cách Hỗn hợp Pháp-Việt ngày 02.05.1933. Ông đề nghị hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề. Việc thống nhất nhằm buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ cùng chỉ còn một Tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì Toàn quyền Pasquier không chấp nhận, ông Diệm đệ đơn từ chức lên Hoàng đế Bảo Đại ngày 12.07.1933. Sau đó, ông đi dạy tại trường Thiên Hựu (Providence).
[Nội các, lúc đó, có 6 bộ là: 1. đứng đầu và có quyền trên hết là bộ Lại bộ, tức Nội vụ, ngang quyền Thủ tướng ; 2. bộ Hộ tức Tài chính. 3. Bộ Lễ tức Giáo dục ; 4. Bộ Hình tức Tư Pháp ; 5. Bộ Binh tức Quốc Phòng và 6. Bộ Công tức Công chánh. Như vậy, ông Diệm ở tuổi 32 đã đứng đầu nội các gồm các vị thượng thư hầu hết đều hơn ông cả mươi tuổi, như ông Bùi Bằng Đoàn, cha đại tá Việt cộng Bùi Tín, thượng thư bộ Hình, hơn ông Diệm đúng 20 tuổi.]
D. Hoạt động chống Pháp đòi Ðộc lập cho Việt Nam.
Trong thời gian dạy học, ông Diệm nghiên cứu các sách vở và thường xuyên liên lạc với các vị ái quốc như Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Cụ Phan Bội Châu và những nhà cách mạng chống Pháp, hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và trong nước, để mưu cầu dành Độc Lập và Tự Do cho đất nước.
Năm 1933, ông Diệm vào Sài Gòn tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris để yêu cầu truất phế Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Sau khi Pasquier chết năm 1934, Toàn quyền mới Eugene René Robin đã phục hồi hàm vị cho ông và để ông về dạy tại trường Thiên Hựu (Providence).
Thời kỳ 1934-1944, ông Diệm thành lập và lãnh đạo đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp với thành phần đảng viên nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát và lính khố xanh bản xứ tại Trung kỳ. Tháng 07.1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và tổ chức vây bắt ông ở Phủ Cam. Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn về trú tại lãnh sự quán Nhật ở Huế. Vài ngày sau, người Nhật đưa ông vào Đà Nẵng rồi dùng phi cơ quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh Nhật. Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung kỳ để chống Pháp. Khi Vua Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật và mời ông làm Thủ tướng trong chính quyền mới nhưng ông từ chối nên ông Trần Trọng Kim được mời thay để lập Chính phủ.
Lánh nạn ở Sài gòn một thời gian, khi Bảo Đại thoái vị và Việt Minh cướp chính quyền, ông Diệm trở lại Huế để thăm mẹ và đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hòa (Phú Yên). Chúng giải ông ra Hà Nội và bị giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang. Sau đó, ông được trả tự do theo lệnh ân xá của Hồ Chí Minh vào năm 1946 và ông Hồ mời ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ. Nhưng ông Diệm cương quyết khước từ. Ông đã khẳng khái hỏi ông Hồ : « Tại sao ông giết anh tôi? ». Đây là câu hỏi của một người thật can đảm khi trong tay không một tấc sắt, vì Hồ đang đầy uy quyền và dưới tay hắn có cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người.
Tháng 8 năm 1950, ông Diệm cùng người anh là Đức cha Ngô Đình Thục rời Sài Gòn đi hành hương Rôma và dự Năm Thánh. Trên đường về, ông Diệm ghé qua Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản, gặp hoàng thân Cường Để. Tại đây, ông đã tiếp xúc với một số người Mỹ, trong đó có Giáo sư Wesley Fishel. Ông này khuyên ông Diệm nên sang thăm Hoa Kỳ. Trong dịp này, ông Diệm đã ghé thăm các nước Bỉ, Thụy Sĩ, Pháp và sau đó ông sang Hoa Kỳ theo gợi ý của giáo sư Wesley Fishel.
Tại Hoa Kỳ, ông Diệm tạm trú trong nhà Dòng Mary Knoll, ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey và ở trường dòng Ossining tiểu bang New York. Tại đây, ông gặp Đức Hồng Y Spellman, người đã giúp ông rất nhiều trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị sau này. Thời gian ở Hoa Kỳ, ông Diệm chú tâm trau giồi Anh ngữ và được mời đến các trường Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ để diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam, Á châu và hiểm họa Cộng sản.
Tháng 05.1953, theo lời mời của một số chính khách Công Giáo có khuynh hướng quốc gia và chống Cộng, ông Diệm bay sang Pháp rồi, sau đó, qua Bỉ trú ngụ tại đan viện Saint–André de Bruges. Tại tu viện dòng Biển Đức này, ngày 01.01.1954, ông Ngô Ðình Diệm đã tuyên khấn trong bậc oblat với tên dòng là Odilon. Đây là một điều ‘tiên tri’ vì Thánh Odilon là Bổn mạng những người tị nạn mà chính Tổng thống Diệm đã giúp đem hơn 800 ngàn người di cư từ Miền Bắc vào Nam và an cư lạc nghiệp một cách mỹ mãn. Ngoài ra, Thánh Odilon là Linh mục đã bắt đầu cử hành Thánh Lễ Cầu cho các Linh hồn ngày 2 tháng 11 là ngày ông Diệm qua đời năm 1963.
Năm 1954, ông Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.
Ð.- Con người Ngô Ðình Diệm.
« Nhiều tài liệu đã nóí về cuộc đời chánh trị và riêng tư của ông Ngô Đình Diệm, một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng và quyết liệt với đế quốc, dù là Pháp, Tàu hay Mỹ. Ông có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ một gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị và một lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Nốt ruồi đen rõ trên gò má dưới mắt trái của ông được các nhà tử vi xem như báo hiệu một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý. Phong cách của ông khiến những người tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái bề ngoài trầm tĩnh, Tổng thống là một con người cuồng nhiệt và kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những xác tin căn bản. Là Kitô hữu tốt, ông hiệp thông mầu nhiệm Chúa Cứu chuộc hàng ngày tại Nhà Nguyện trong Dinh, hoặc ở Dòng Chúa Cứu Thế. Vận âu phục màu trắng với cà vạt đen, ít khi thay đổi. Ông làm việc bất chấp giờ giấc khiến các người thân cận mệt nhoài.
Khi có vấn đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc. Tổng thống đi kinh lý không biết mệt, đôi ba ngày mỗi tuần, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, bằng mọi phương tiện chuyên chở: máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng…..
Ông không hùng hồn trước đám đông nhưng thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan cách, không mị dân. Khi nhóm Hội đồng Nội các, ông Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định, khi gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, quên cả kết luận. Ông sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo nghiêm khắc và Công Giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc là người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến cơm áo, danh vọng và chức tước… Nhưng không phải cán bộ nào cũng lý tưởng như thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ Chí Minh, chí sĩ Diệâm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo quyệt.
Thú tiêu khiển của ông Diệm không nhiều vì ít giờ rảnh : thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay tại Dinh Độc lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập máy ảnh và chụp hình. Ông ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già Ẩn và Ðại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Ông ít khi đau, bị cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên. Vấn đề tiền bạc riêng của ông được giao trọn cho Chánh văn phòng Võ Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, theo sát ông Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Vài ngày sau đảo chánh 1.11.1963, ông Hải lập biên bản trao cho Ðại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng Tướng Trần Văn Đôn số tiền mặt của ông Diệm là 2.390.000 đồng và 6.297 mỹ kim. Trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng, ông Ðôn kể ‘Dương Văn Minh lấy 6.000 mỹ kim và số còn lại thí cho Trần Thiện Khiêm. Số bạc Việt được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn nhận 24.500 đồng.
Trong bài ‘Nhớ lại những điều khó quên’, nhà văn Hà thượng Nhân) viết : « Tổng thống Diệm có thể có những khuyết điểm, nhưng cái tâm vì nước vì dân của ông, tôi cho là thành, cái chí của ông tôi cho là lớn... ». Cũng vậy, trong bài ‘Đường lối Diệm Nhu được thực tại chứng nghiệm là Ðường Lối Ðúng’, Giáo sư Tôn thất Thiện viết: « ... Ðiều quan trọng nhất có liên quan mật thiết đến ‘Cụ’ (ông Diệm) và chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà nói chung, là nếu năm 1954 không có Cụ đứng ra lãnh đạo quốc gia thì miền Nam đã mất vào tay cộng sản..... Cụ đã đem lại cho những quân nhân, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân thời đó sự tin tuởng và hăng hái tranh đấu nên đã giữ được miền Nam, tạo dựng lên một quốc gia có qui củ và căn bản chính trị, kinh tế vững chắc, tạo điều kiện cho Đệ Nhị Cộng Hoà tồn tại một thời gian, sau khi Cụ bị sát hại. Nhưng hơn nữa, nhân dân miền Nam được tiêm nhiễm tinh thần tự do, và được đào tạo vững chắc về kinh tế, sau này có điều kiện cưỡng lại áp chế của cộng sản, dần dần buộc cộng sản phải bỏ ý đồ ‘cải tạo xã hội chủ nghĩa” nhân dân miền Nam… ».
Ông Phan đức Minh, trong bài ‘Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Ðình Diệm’ đăng trên ‘Việt nam nhật báo cuối tuần’ số 4912 ngày 29.10.2005, đã viết : « Những tháng giữa năm 1960, ông Diệm với tư cách Tổng thống và là Tổng tư lệnh Quân đội Việt nam Cộng hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân khu 1, 2, 3 và 4 cùng Biệt khu Thủ đô, để nói chuyện với các sĩ quan thuộc các Quân Binh chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng: Người Mỹ muốn đổ các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến truờng này...
Tại hội truờng Quân khu 1, Đà nẵng, trước mặt rất đông sĩ quan: Cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, ông Diệm đã nói rõ ý chí của ông là, nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt nam, mà chỉ chấp nhận vai trò của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân đội Việt nam Cộng hoà. Ông nói: « Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện của Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế của người Mỹ, nhưng chúng ta không cần để cho người Mỹ chiến đấu thay thế chúng ta trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước này. Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghĩa, mất sự hậu thuẫn của nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng thống bù nhìn và anh em, các sĩ quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... ».
Ông nói thật nhiều với tất cả tấm lòng và trái tim của ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các sĩ quan Quân đội Việt nam Cộng hòa đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến trường khắp các vùng chiến thuật, hãy cùng ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi áp lực, bất cứ từ đâu đến. Những cánh tay dơ lên. Những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội trưòng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1-Quân khu 1: « Quyết tâm ủng hộ Tổng thống! Quyết tâm giữ vững lập trường chiến đấu của Tổng thống để bảo vệ Tổ quốc! ».
Lúc đó tôi chỉ là một Chuẩn uý hiện dịch... Tôi nhìn các sĩ quan đàn anh đứng chung quanh hình như ai nấy đều cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng thống khả kính và can đảm của mình. Phải thành thực mà công nhận rằng vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của ông Diệm, quân đội ra quân đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ quan ra Sĩ quan, chứ không có hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi ông Diệm không còn nữa... Tôi không phải là người Công Giáo như ông Diệm, mà chỉ là quân nhân hiện dịch thuần túy, nhưng cũng thấy mắt mình nhòa đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho ông, cũng như cho đất nước này...
Trong bài ‘Một vị từ mẫu’, Giáo sư Nguyễn xuân Vinh, cựu Ðại tá Tư lệnh Không Quân Quân đội Việt Nam Cộng hòa, viết: « Lúc tôi tới Dinh Độc lập, vào phòng ngủ của Tổng thống, là nơi cụ thường ngồi ở một ghế bành lớn để hỏi công việc. Tôi đã thấy có ông Nguyễn Ðình Thuần, lúc đó là Bộ trưởng Phủ Tổng thống và ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ trưởng Bộ Lao động. Ngoài ra còn có ông Hà Di, một nhiếp ảnh gia rất được Tổng thống thương yêu và thường được đi theo chụp ảnh mỗi khi cụ công du. Thấy tôi vào, cụ nói mấy câu đại ý là tôi không được đi cùng để ra Huế dự lễ đại thọ của cụ cố, thân mẫu của Tổng thống, nên cụ gọi tới để cho xem những phim ảnh chụp. Những ảnh mẫu được ông Hà Di chiếu cho mọi người cùng coi trên màn ảnh đặt ở cuối buồng theo thứ tự diễn tiến của buổi lễ. Thân mẫu của Tổng thống ngồi ở một ghế bành, mặc áo mầu đỏ, tuy trông mệt mỏi, nhưng nét mặt còn tươi sáng. Một tấm ảnh làm tôi chú ý là lúc cả 5 người con trai của cụ cố thân mẫu là Đức Giám Mục Ngô đình Thục, Tổng thống Ngô đình Diệm và các ông Ngô đình Nhu, Ngô đình Luyện và Ngô đình Cẩn đều mặc áo thụng, quì rạp đầu làm lễ trước bà từ mẫu. Trông cảnh này thật là cảm động và là sự việc mấy trăm năm mới thấy có một lần ở nước mình, vì ít khi có bà mẹ nào sinh ra những người con mà lại đứng đầu cả bên đời và bên đạo... ». hững dòng viết này đã chứng minh lòng hiếu thảo của ông Diệm. Dù là Tổng thống, ông vẫn ‘quì rạp đầu trước mặt mẹ’.
Trong bài ‘Bốn mươi năm ngậm ngùi’, ông Trương phú Thứ viết: « Một độc giả ‘Văn nghệ Tiền phong’, bà Hoa Vũ ở tiểu bang New Jersey, người đã mang chân dung Tổng thống Diệm từ Mỹ về tận Lái Thiêu và đã đặt chân dung trên mộ Người, rồi chụp hình và, sau đó, phổ biến tới báo chí Việt hải ngoại. Bà Hoa đã viết thư cho cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ: « em không nhớ rõ là năm nào 1960 hay 1961, lúc đó em đang may ở tiệm Thanh Lịch gần chợ Bàn Cờ thì chợ bị cháy lớn. Vài hôm sau thì Cụ có đi thăm chợ và đồng bào nạn nhân. Cụ đi thẳng đến tiệm Thanh Lịch, lúc đó bà Phạm Bích Thuần là chủ tiệm may quá xúc động vừa khóc vừa nói ‘Kìa, Vua đến nhà mình, cô Hoa, bạo dạn ra chào Vua đi’. Khi Tổng thống bước lên thềm nhà thì em ra đứng khoanh tay cúi đầu nói ‘con kính chào Tổng Thống’. Người hỏi ‘cháy có sợ không?’. ‘Thưa Tổng thống, con sợ lắm ạ’. Người lại hỏi ‘may có khá không?’. Em trình ‘Thưa Tổng thống, khá lắm’. Trong lúc đó, bà chủ cứ khóc vì quá xúc động được Vua tới thăm. Cụ nói ‘ngoan hỷ’. Rồi đi ra hướng đường Bàn Cờ. Ôi! Kể lại một chút kỷ niệm mà lòng em dâng lên một niềm thương nhớ Cụ vô cùng ».
Khi còn sống, chí sĩ Ngô Đình Diệm đã từng nói « tôi tiến hãy tiến theo tôi, tôi lui hãy giết tôi, tôi chết hãy nối chí tôi ». Mang trong người dòng máu Việt, chúng ta hãy noi gương Người quyết sống đời một ‘người Công Giáo tốt và là người Việt luôn mong Tổ Quốc độc lập và đồng bào được tự do, hạnh phúc’.
Hà Minh Thảo
Ngày 07.07.1954, Chí sĩ Ngô Ðình Diệm chấp chánh Thủ tướng và trình diện Chính phủ, khi tôi sắp tròn 10 tuổi. Lúc đó, nhờ thân phụ có đặt mua nhật trình (báo ngày), nên tôi có dịp đọc tin tức, thời sự… Năm 1955, lính Bình xuyên pháo kích giải trí trường Ðại Thế giới (đã bị đóng cửa) không đúng tọa độ, nên rơi bên ngoài, nhà tôi ở gần đó, nên phải di tản… Hưởng thụ nền giáo dục nhân bản Việt Nam Cộng hòa và phương pháp giảng huấn tại tư thục Lasan Taberd, như các bạn cùng thời, chúng ta đồng tiến trên đường học vấn. Trong nhiều năm, nhân lễ Giáng sinh, ông Diệm đã đến dâng Thánh Lễ với các Sư huynh và học sinh… Ngày 02.11.1963, Tổng thống Ngô Ðình Diệm vị quốc vong thân. Trong những năm khi Tổng thống và Cố vấn Ngô Ðình Nhu an nghỉ tại nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, sáng ngày 2 tháng 11 hàng năm, đông đảo đồng bào đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho linh hồn Nhị Vị và các Sĩ Quan bị thãm sát tại Vương cung Thánh đường Sài gòn và, sau đó, đa số đã tuần hành viếng mộ và cầu nguyện tại đây.
Nhân dịp Lễ Giỗ lần thứ 54, chúng tôi xin ghi lại những gì mình cảm nhận trong những năm Chí sĩ Ngô Ðình Diệm phục vụ Ðất Nước và Quốc dân Ðồng bào để, ngày nay, hưởng Nhan Thánh Chúa trên Thiêng Ðàng.
I./ CHÍ SĨ NGÔ ÐÌNH DIỆM.
« Điều mà tôi cảm thấy hãnh diện nhất là được phục vụ bên cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm, được ông thương mến và tin cậy. Lúc đó, tôi chỉ là một sĩ quan mang cấp bực Thiếu tá, đảm nhận một vai trò nhỏ bé trong Lữ đoàn Liên minh Phòng vệ Phủ Tổng thống. Nhờ cơ duyên này, tôi được biết rõ Tổng thống là một người rất đạo đức và liêm chính, lại kèm theo một nếp sống thật giản dị, khiêm nhường. Trong những năm tháng được gần ông, tôi chưa từng thấy ông đòi hỏi riêng gì cho cá nhân mình, mà chỉ thấy lúc nào ông cũng ưu tư lo cho dân, cho nước. Đối với tôi, Tổng thống Ngô Đình Diệm, người khai sáng ra nền Đệ nhất Cộng hòa, xứng đáng là một vị lãnh đạo chân chính, đã có công bảo vệ và đem lại nền độc lập và tự do thực sự cho Miền Nam Việt Nam. Tiếc thay, trước những biến đổi của tình hình chính trị, qua tham vọng của một số tướng lãnh, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị thảm sát trong cuộc đảo chính ngày 01.11.1963 ». Đó là những dòng chữ mà Đại tá Nguyễn Hữu Duệ đã viết trong sách ‘Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm’.
Thật là điều hạnh phúc cho chúng ta, những đồng bào của Tổng thống, được sống trên Quê hương, dưới sự lãnh đạo của Người trong hơn 9 năm từ ngày 07.07.1954 đến 01.11.1963. Chí sĩ Ngô Đình Diệm (1901–1963) là một chính trị gia lãnh đạo quốc dân Việt. Người là Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam và là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
A.- Giáo dục Bản thân.
Ngô Đình Diệm chào đời ngày 03.01.1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình quan lại theo đạo Công Giáo, được chầu tên thánh là Gioan Baotixita.
Lúc còn nhỏ, cậu đuợc theo học dưới sự dạy dỗ của Quận Công đức độ và yêu nước Nguyễn Hữu Bài, đang là Thượng thư dưới triều Vua Duy Tân. Quan là đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc. Sở dĩ có sự liên hệ gần gũi như vậy là vì ông Ngô Đình Khôi, anh ông Diệm, cưới con gái ông Nguyễn Hữu Bài (Năm 1955, ông Bài, nhân khi tháp tùng Vua Khải Ðịnh công du nước Pháp, đã đến Vatican để tiếp kiến Ðức Thánh Cha Piô XI. Nhân cơ hội này, ông xin thiết lập bang giao với Tòa Thánh và Việt Nam, đã bị Việt cộng cắt đứt năm 1976).
Ông Diệm theo học tại trường Pellerin Huế. Năm 1913, lúc 12 tuổi, ông thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt ngữ và Pháp ngữ. Năm 1917, lúc 16 tuổi, ông đỗ hạng thứ nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Vì tuổi trẻ mà đạt thành tích cao, nên chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối. Do đó, bà mẹ ông Diệm đã có nhận xét: « Trong số các con tôi, anh nào đi du học ngọai quốc về đều có pha lẫn nhiều điều và mang nhiều mâu thuẫn trong người. Nhưng Diệm thì thuần túy Việt Nam ».
Năm 1918, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một trường dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình. Năm sau, ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, tương tự như Học viện Quốc gia Hành chánh. Trong ba năm học, ông luôn là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp và đã tốt nghiệp thủ khoa.
Ông Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho giáo và Thiên Chúa giáo. Thực vậy, chính Nho giáo đã hun đúc ông thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực và giáo dục Thiên Chúa giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.
Điều đáng lưu ý là khi cậu Diệm vào Trường Quốc Học Huế. Trong thời gian này, cậu học trò nhỏ này có dịp quen biết với trò Nguyễn Sinh Cung, lớn hơn cậu mười tuổi và, sau này, đã đổi tên thành Hồ Chí Minh. Định mệnh đã xui khiến hai đối thủ chính trị này sớm gặp gỡ nhau, người này biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đã từng giết anh Cả của ông Diệm là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật giáo Hòa hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộp cho Hồ năm 1946, thì Hồ đã không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật may mắn, ông Diệm đã tìm cách trốn thoát được. Hồ không làm gì được ông Diệm, vì hắn vừa mới ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06.03.1946, trong đó có điều khoản bảo vệ người quốc gia do Pháp đưa ra. Chẳng những thế mà vài thập niên sau, nhận thấy mình thua kém xa người bạn trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sống thánh thiện không chút tì vết, Hồ đã viết sách ‘Vừa đi đường vừa kể chuyện’ ca ngợi bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, do bọn văn nô đàn em thổi phồng Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độc thân, thì Hồ cũng không vợ (thật vậy ???). Cụ Diệm sống trong một căn phòng nhỏ đơn sơ, thì Hồ cũng cho thợ mộc cất cho hắn một căn nhà toàn gỗ quý chở từ miền rừng thượng du về.
B.- Ảnh hưởng Gia đình.
Một đêm mùa thu năm 1885, tại làng Đại Phong, một nhóm người bắt đạo đã phóng hỏa, bằng những ngọn đuốc, nhà nguyện có nóc và tường bằng tre. Gia đình thân phụ ông Ngô Đình Diệm, trong số những người đang kinh nguyện, đã bị chết, trừ bà nội đã thoát khỏi nhờ bóng tối đêm để chạy đi. Điều may khác là khi đó, thân phụ ông Diệm là ông Ngô đình Khả đang học ở Chủng viện Penang (Mã lai). Thời đó, phải đợi vài tháng sau, hung tin gần cả gia đình bị tàn sát mới tới Chủng viện Penang, các Cha giáo của ông Khả mới đề nghị ông nên trở về nước và cưới vợ để nối dõi tông đường. Chấp thuận đề nghị trên, ông đã trở lại Việt Nam để phụng dưỡng mẹ đang không phương tiện để sinh sống.
Vào làm việc tại Triều đình, ông được Vua Thành Thái ban cử làm Phụ đạo Đại thần và cố vấn cho Vua các vấn đề về Pháp văn và Triết Tây phương… Ông được giao việc tổ chức Trường Quốc học với chức Trưởng giáo. Năm 1905, ông được thăng chức Tổng quản Cấm thành, bảo vệ Vua. Năm 1907, khi chính quyền Bảo hộ dưới sự vận động của khâm sứ Ferdinand Lévecque đòi truất vua Thành Thái, ông nhất quyết không chịu ký tên vào tờ biểu nên ông bị cất chức. Vì vậy dân gian có câu truyền: « Đày vua không Khả, Đào mả không Bài ». Ngày nay, chúng ta có thể thêm vào câu truyền này ý tưởng « Hại dân không Diệm » cũng không phải là điều quá đáng.
Do đó, ông từ quan và đã về làm ruộng với các con trai. Bà Khả cùng Cô Hiệp (mẹ tương lai của Đức Hồng Y Ðáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận) đã vất vả đem cơm nước cho những người thân. Trong hoàn cảnh cơ cực đó, không ai trong gia đình buông lời than trách trước một quyết định ái quốc. Họ vẫn nuôi ý chí ‘làm quan’, sau những kinh nghiệm lao động tay chân và sống cảnh nghèo nàn. Cuối cùng, Ông Khả được vua Khải Định phục hàm khi lên ngôi Vua.
Ông Khả cưới cô Phạm Thị Thân và có 6 con trai (Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện) và 3 gái (Ngô Đình Thị Giao, Ngô Đình Thị Hiệp và Ngô Đình Thị Hoàng).
- Ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam từ năm 1930, bị ép về hưu năm 1943 vì có ý thân Nhật. Con trai duy nhất của ông là Ngô Đình Huân, thư ký và thông ngôn cho viện trưởng Viện văn hóa Nhật tại Sài gòn. Tháng 03.1945, ông khuyên Hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị, trao quyền cho Cộng sản. Ngày 31.08.1945, hai cha con bị Việt Minh bắt và bị hành quyết vài tuần sau đó cùng với ông Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại ở rừng Hắc Thú.
C.- Phục vụ Ðất Nước thời Nguyễn triều.
Sau khi tốt nghiệp trường Hậu Bổ, năm 1921, ông Diệm nhậm chức tri huyện Hương Trà, Hương Thủy và Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1926, ông được bổ vào chức tri phủ Hải Lăng và thăng lên quản đạo Ninh Thuận. Năm 1930, vừa tròn 29 tuổi, với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết.
Tháng 09.1932, sau thời gian du học tại Pháp trở về nước, Hoàng đế Bảo Đại quyết định tự mình chấp chính và ban sắc phong 5 Thượng thư mới, trong đó có ông Diệm, trẻ nhất 32 tuổi, được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Lại, đứng đầu Nội các, tương đương Thủ tướng ngày nay, và kiêm nhiệm chức Tổng Thư Ký Hội đồng Cải cách Hỗn hợp Pháp-Việt ngày 02.05.1933. Ông đề nghị hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề. Việc thống nhất nhằm buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ cùng chỉ còn một Tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì Toàn quyền Pasquier không chấp nhận, ông Diệm đệ đơn từ chức lên Hoàng đế Bảo Đại ngày 12.07.1933. Sau đó, ông đi dạy tại trường Thiên Hựu (Providence).
[Nội các, lúc đó, có 6 bộ là: 1. đứng đầu và có quyền trên hết là bộ Lại bộ, tức Nội vụ, ngang quyền Thủ tướng ; 2. bộ Hộ tức Tài chính. 3. Bộ Lễ tức Giáo dục ; 4. Bộ Hình tức Tư Pháp ; 5. Bộ Binh tức Quốc Phòng và 6. Bộ Công tức Công chánh. Như vậy, ông Diệm ở tuổi 32 đã đứng đầu nội các gồm các vị thượng thư hầu hết đều hơn ông cả mươi tuổi, như ông Bùi Bằng Đoàn, cha đại tá Việt cộng Bùi Tín, thượng thư bộ Hình, hơn ông Diệm đúng 20 tuổi.]
D. Hoạt động chống Pháp đòi Ðộc lập cho Việt Nam.
Trong thời gian dạy học, ông Diệm nghiên cứu các sách vở và thường xuyên liên lạc với các vị ái quốc như Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Cụ Phan Bội Châu và những nhà cách mạng chống Pháp, hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và trong nước, để mưu cầu dành Độc Lập và Tự Do cho đất nước.
Năm 1933, ông Diệm vào Sài Gòn tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris để yêu cầu truất phế Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Sau khi Pasquier chết năm 1934, Toàn quyền mới Eugene René Robin đã phục hồi hàm vị cho ông và để ông về dạy tại trường Thiên Hựu (Providence).
Thời kỳ 1934-1944, ông Diệm thành lập và lãnh đạo đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp với thành phần đảng viên nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát và lính khố xanh bản xứ tại Trung kỳ. Tháng 07.1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và tổ chức vây bắt ông ở Phủ Cam. Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn về trú tại lãnh sự quán Nhật ở Huế. Vài ngày sau, người Nhật đưa ông vào Đà Nẵng rồi dùng phi cơ quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh Nhật. Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung kỳ để chống Pháp. Khi Vua Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật và mời ông làm Thủ tướng trong chính quyền mới nhưng ông từ chối nên ông Trần Trọng Kim được mời thay để lập Chính phủ.
Lánh nạn ở Sài gòn một thời gian, khi Bảo Đại thoái vị và Việt Minh cướp chính quyền, ông Diệm trở lại Huế để thăm mẹ và đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hòa (Phú Yên). Chúng giải ông ra Hà Nội và bị giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang. Sau đó, ông được trả tự do theo lệnh ân xá của Hồ Chí Minh vào năm 1946 và ông Hồ mời ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ. Nhưng ông Diệm cương quyết khước từ. Ông đã khẳng khái hỏi ông Hồ : « Tại sao ông giết anh tôi? ». Đây là câu hỏi của một người thật can đảm khi trong tay không một tấc sắt, vì Hồ đang đầy uy quyền và dưới tay hắn có cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người.
Tháng 8 năm 1950, ông Diệm cùng người anh là Đức cha Ngô Đình Thục rời Sài Gòn đi hành hương Rôma và dự Năm Thánh. Trên đường về, ông Diệm ghé qua Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản, gặp hoàng thân Cường Để. Tại đây, ông đã tiếp xúc với một số người Mỹ, trong đó có Giáo sư Wesley Fishel. Ông này khuyên ông Diệm nên sang thăm Hoa Kỳ. Trong dịp này, ông Diệm đã ghé thăm các nước Bỉ, Thụy Sĩ, Pháp và sau đó ông sang Hoa Kỳ theo gợi ý của giáo sư Wesley Fishel.
Tại Hoa Kỳ, ông Diệm tạm trú trong nhà Dòng Mary Knoll, ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey và ở trường dòng Ossining tiểu bang New York. Tại đây, ông gặp Đức Hồng Y Spellman, người đã giúp ông rất nhiều trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị sau này. Thời gian ở Hoa Kỳ, ông Diệm chú tâm trau giồi Anh ngữ và được mời đến các trường Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ để diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam, Á châu và hiểm họa Cộng sản.
Tháng 05.1953, theo lời mời của một số chính khách Công Giáo có khuynh hướng quốc gia và chống Cộng, ông Diệm bay sang Pháp rồi, sau đó, qua Bỉ trú ngụ tại đan viện Saint–André de Bruges. Tại tu viện dòng Biển Đức này, ngày 01.01.1954, ông Ngô Ðình Diệm đã tuyên khấn trong bậc oblat với tên dòng là Odilon. Đây là một điều ‘tiên tri’ vì Thánh Odilon là Bổn mạng những người tị nạn mà chính Tổng thống Diệm đã giúp đem hơn 800 ngàn người di cư từ Miền Bắc vào Nam và an cư lạc nghiệp một cách mỹ mãn. Ngoài ra, Thánh Odilon là Linh mục đã bắt đầu cử hành Thánh Lễ Cầu cho các Linh hồn ngày 2 tháng 11 là ngày ông Diệm qua đời năm 1963.
Năm 1954, ông Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.
Ð.- Con người Ngô Ðình Diệm.
Khi có vấn đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc. Tổng thống đi kinh lý không biết mệt, đôi ba ngày mỗi tuần, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, bằng mọi phương tiện chuyên chở: máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng…..
Ông không hùng hồn trước đám đông nhưng thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan cách, không mị dân. Khi nhóm Hội đồng Nội các, ông Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định, khi gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, quên cả kết luận. Ông sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo nghiêm khắc và Công Giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc là người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến cơm áo, danh vọng và chức tước… Nhưng không phải cán bộ nào cũng lý tưởng như thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ Chí Minh, chí sĩ Diệâm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo quyệt.
Thú tiêu khiển của ông Diệm không nhiều vì ít giờ rảnh : thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay tại Dinh Độc lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập máy ảnh và chụp hình. Ông ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già Ẩn và Ðại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Ông ít khi đau, bị cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên. Vấn đề tiền bạc riêng của ông được giao trọn cho Chánh văn phòng Võ Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, theo sát ông Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Vài ngày sau đảo chánh 1.11.1963, ông Hải lập biên bản trao cho Ðại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng Tướng Trần Văn Đôn số tiền mặt của ông Diệm là 2.390.000 đồng và 6.297 mỹ kim. Trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng, ông Ðôn kể ‘Dương Văn Minh lấy 6.000 mỹ kim và số còn lại thí cho Trần Thiện Khiêm. Số bạc Việt được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn nhận 24.500 đồng.
Trong bài ‘Nhớ lại những điều khó quên’, nhà văn Hà thượng Nhân) viết : « Tổng thống Diệm có thể có những khuyết điểm, nhưng cái tâm vì nước vì dân của ông, tôi cho là thành, cái chí của ông tôi cho là lớn... ». Cũng vậy, trong bài ‘Đường lối Diệm Nhu được thực tại chứng nghiệm là Ðường Lối Ðúng’, Giáo sư Tôn thất Thiện viết: « ... Ðiều quan trọng nhất có liên quan mật thiết đến ‘Cụ’ (ông Diệm) và chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà nói chung, là nếu năm 1954 không có Cụ đứng ra lãnh đạo quốc gia thì miền Nam đã mất vào tay cộng sản..... Cụ đã đem lại cho những quân nhân, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân thời đó sự tin tuởng và hăng hái tranh đấu nên đã giữ được miền Nam, tạo dựng lên một quốc gia có qui củ và căn bản chính trị, kinh tế vững chắc, tạo điều kiện cho Đệ Nhị Cộng Hoà tồn tại một thời gian, sau khi Cụ bị sát hại. Nhưng hơn nữa, nhân dân miền Nam được tiêm nhiễm tinh thần tự do, và được đào tạo vững chắc về kinh tế, sau này có điều kiện cưỡng lại áp chế của cộng sản, dần dần buộc cộng sản phải bỏ ý đồ ‘cải tạo xã hội chủ nghĩa” nhân dân miền Nam… ».
Ông Phan đức Minh, trong bài ‘Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Ðình Diệm’ đăng trên ‘Việt nam nhật báo cuối tuần’ số 4912 ngày 29.10.2005, đã viết : « Những tháng giữa năm 1960, ông Diệm với tư cách Tổng thống và là Tổng tư lệnh Quân đội Việt nam Cộng hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân khu 1, 2, 3 và 4 cùng Biệt khu Thủ đô, để nói chuyện với các sĩ quan thuộc các Quân Binh chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng: Người Mỹ muốn đổ các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến truờng này...
Tại hội truờng Quân khu 1, Đà nẵng, trước mặt rất đông sĩ quan: Cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, ông Diệm đã nói rõ ý chí của ông là, nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt nam, mà chỉ chấp nhận vai trò của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân đội Việt nam Cộng hoà. Ông nói: « Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện của Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế của người Mỹ, nhưng chúng ta không cần để cho người Mỹ chiến đấu thay thế chúng ta trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước này. Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghĩa, mất sự hậu thuẫn của nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng thống bù nhìn và anh em, các sĩ quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... ».
Ông nói thật nhiều với tất cả tấm lòng và trái tim của ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các sĩ quan Quân đội Việt nam Cộng hòa đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến trường khắp các vùng chiến thuật, hãy cùng ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi áp lực, bất cứ từ đâu đến. Những cánh tay dơ lên. Những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội trưòng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1-Quân khu 1: « Quyết tâm ủng hộ Tổng thống! Quyết tâm giữ vững lập trường chiến đấu của Tổng thống để bảo vệ Tổ quốc! ».
Lúc đó tôi chỉ là một Chuẩn uý hiện dịch... Tôi nhìn các sĩ quan đàn anh đứng chung quanh hình như ai nấy đều cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng thống khả kính và can đảm của mình. Phải thành thực mà công nhận rằng vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của ông Diệm, quân đội ra quân đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ quan ra Sĩ quan, chứ không có hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi ông Diệm không còn nữa... Tôi không phải là người Công Giáo như ông Diệm, mà chỉ là quân nhân hiện dịch thuần túy, nhưng cũng thấy mắt mình nhòa đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho ông, cũng như cho đất nước này...
Trong bài ‘Một vị từ mẫu’, Giáo sư Nguyễn xuân Vinh, cựu Ðại tá Tư lệnh Không Quân Quân đội Việt Nam Cộng hòa, viết: « Lúc tôi tới Dinh Độc lập, vào phòng ngủ của Tổng thống, là nơi cụ thường ngồi ở một ghế bành lớn để hỏi công việc. Tôi đã thấy có ông Nguyễn Ðình Thuần, lúc đó là Bộ trưởng Phủ Tổng thống và ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ trưởng Bộ Lao động. Ngoài ra còn có ông Hà Di, một nhiếp ảnh gia rất được Tổng thống thương yêu và thường được đi theo chụp ảnh mỗi khi cụ công du. Thấy tôi vào, cụ nói mấy câu đại ý là tôi không được đi cùng để ra Huế dự lễ đại thọ của cụ cố, thân mẫu của Tổng thống, nên cụ gọi tới để cho xem những phim ảnh chụp. Những ảnh mẫu được ông Hà Di chiếu cho mọi người cùng coi trên màn ảnh đặt ở cuối buồng theo thứ tự diễn tiến của buổi lễ. Thân mẫu của Tổng thống ngồi ở một ghế bành, mặc áo mầu đỏ, tuy trông mệt mỏi, nhưng nét mặt còn tươi sáng. Một tấm ảnh làm tôi chú ý là lúc cả 5 người con trai của cụ cố thân mẫu là Đức Giám Mục Ngô đình Thục, Tổng thống Ngô đình Diệm và các ông Ngô đình Nhu, Ngô đình Luyện và Ngô đình Cẩn đều mặc áo thụng, quì rạp đầu làm lễ trước bà từ mẫu. Trông cảnh này thật là cảm động và là sự việc mấy trăm năm mới thấy có một lần ở nước mình, vì ít khi có bà mẹ nào sinh ra những người con mà lại đứng đầu cả bên đời và bên đạo... ». hững dòng viết này đã chứng minh lòng hiếu thảo của ông Diệm. Dù là Tổng thống, ông vẫn ‘quì rạp đầu trước mặt mẹ’.
Trong bài ‘Bốn mươi năm ngậm ngùi’, ông Trương phú Thứ viết: « Một độc giả ‘Văn nghệ Tiền phong’, bà Hoa Vũ ở tiểu bang New Jersey, người đã mang chân dung Tổng thống Diệm từ Mỹ về tận Lái Thiêu và đã đặt chân dung trên mộ Người, rồi chụp hình và, sau đó, phổ biến tới báo chí Việt hải ngoại. Bà Hoa đã viết thư cho cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ: « em không nhớ rõ là năm nào 1960 hay 1961, lúc đó em đang may ở tiệm Thanh Lịch gần chợ Bàn Cờ thì chợ bị cháy lớn. Vài hôm sau thì Cụ có đi thăm chợ và đồng bào nạn nhân. Cụ đi thẳng đến tiệm Thanh Lịch, lúc đó bà Phạm Bích Thuần là chủ tiệm may quá xúc động vừa khóc vừa nói ‘Kìa, Vua đến nhà mình, cô Hoa, bạo dạn ra chào Vua đi’. Khi Tổng thống bước lên thềm nhà thì em ra đứng khoanh tay cúi đầu nói ‘con kính chào Tổng Thống’. Người hỏi ‘cháy có sợ không?’. ‘Thưa Tổng thống, con sợ lắm ạ’. Người lại hỏi ‘may có khá không?’. Em trình ‘Thưa Tổng thống, khá lắm’. Trong lúc đó, bà chủ cứ khóc vì quá xúc động được Vua tới thăm. Cụ nói ‘ngoan hỷ’. Rồi đi ra hướng đường Bàn Cờ. Ôi! Kể lại một chút kỷ niệm mà lòng em dâng lên một niềm thương nhớ Cụ vô cùng ».
Khi còn sống, chí sĩ Ngô Đình Diệm đã từng nói « tôi tiến hãy tiến theo tôi, tôi lui hãy giết tôi, tôi chết hãy nối chí tôi ». Mang trong người dòng máu Việt, chúng ta hãy noi gương Người quyết sống đời một ‘người Công Giáo tốt và là người Việt luôn mong Tổ Quốc độc lập và đồng bào được tự do, hạnh phúc’.
Hà Minh Thảo
Tài Liệu - Sưu Khảo
Sự phục hưng tất yếu của Kitô Giáo
Vũ Văn An
01:03 21/10/2017
Tin vui tuần này là dân số Công Giáo gia tăng. Theo bản tin ngày 20 tháng Mười, 2017 của Hãng Tin Fides, nhân dịp Ngày Truyền Giáo Thế Giới lần thứ 91 sẽ được mừng vào ngyà 22 tháng Mười này, dân số Công Giáo trên hoàn cầu hiện là 1 tỷ 300 triệu người, chiếm 17.7 phần trăm dân số thế giới.
Hãng tin Fides vốn là cơ quan thông tin của Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo. Hãng này, khi phân tích các dữ liệu Thống Kê của Tòa Thánh, cho biết con số các người chịu phép rửa gia tăng 12.5 triệu người.
Cũng theo bản tin trên, Châu Phi hiện có 222 triệu người Công Giáo, chiếm 19.42 phần trăm dân số Châu này. Mỹ Châu có 635 triệu người Công Giáo, chiếm 63.6 phần trăm dân số. Âu Châu có 285 triệu người Công Giáo, chiếm 39.87 phần trăm dân số. Á Châu có 141 triệu người Công Giáo, chiếm 3.24 phần trăm dân số.
Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo điều hành 216,548 trường học trên thế giới với sự tham dự của hơn 60 triệu trẻ em. Có khoảng 118,000 cơ sở xã hội và bác ái Công Giáo (bệnh viện, nhà chăm sóc người cùi, trẻ mồ côi, viện dưỡng lão) rải rác khắp thế giới.
Sự phục hưng tất yếu của Kitô Giáo ở Âu Châu
Trong khi đó, nhiều người thất vọng vì thấy các cố gắng của “phúc âm hóa” không có hậu quả chi ở vùng xưa kia vốn là cái nôi của Kitô Giáo, tức Âu Châu. Nhưng theo Stephen Bullivant, dù chúng ta có thể không sống lâu đủ để thấy sự phục hưng của Kitô Giáo ở Âu Châu, nhưng đây là điều nhất định sẽ xẩy ra. Thành thử, như Chân Phúc Hồng Y John Henry Newman hay nhấn mạnh, ta cần phải kiên nhẫn chờ tới ngày các lao công khó nhọc của ta sinh hoa kết trái tốt.
Phần Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi công bố việc “phúc âm hóa mới”, thì cho rằng việc này đòi “phải mới trong nhiệt tình, trong phương pháp và trong cách biểu hiện của nó”.
Phần lớn chúng ta lưu ý tới phương pháp và cách biểu hiện, ít lưu ý tới lòng nhiệt thành mới. Vì điều gì sẽ xẩy ra khi các phương pháp và cách biểu hiện không đem lại các hoa trái mong chờ? Hay không mang lại một cách nhanh chóng đủ cho những người đang nóng lòng chờ mong hiện nay? Sau 10 năm, hay 50 năm, hoặc 100 năm, há cái nhiệt tình này không nhường bước cho vỡ mộng và thất vọng đó ư? Lúc đó, phúc âm hóa mới sẽ ra sao?
Dù cho có thành công, việc phúc âm hóa mới này đòi ta phải dấn thân vào một công trình lâu hàng thế kỷ. Kiên nhẫn vì thế là một đòi hỏi nền tảng.
Trong Redemptoris Missio, Thánh Gioan Phaolô II phân biệt “phúc âm hóa mới” với 2 hình thức truyền giáo khác: Thứ nhất, đề xuất Tin Mừng cho những người chưa bao giờ nghe nó; thứ hai, chăm sóc mục vụ cho những người đang là Kitô hữu rồi. Trái lại, “phúc âm hóa mới” là điều cần thiết khi một nền văn hóa bắt đầu lỏng dần mối liên kết của nó với Kitô Giáo đã được thiết lập: tức tình huống trong đó, một nền văn hóa, nơi Giáo Hội đã được thiết lập vững chãi, nay đang lâm vào diễn trình rơi trở lại vị trí trong đó Chúa Kitô phần lớn không được biết đến. Đó là mô tả chính xác về Tây Âu thời ta.
Có thể cho rằng, thách đố hàng đầu của việc phúc âm hóa mới là giữ được những người chúng ta đã có. Giải quyết việc này quả là một việc tự nó rất lớn lao, lý do, ít nhất, là: hiện nay, ta hoàn toàn không biết chắc phải giải quyết điều chi (Dạy giáo lý? Chuẩn bị các bí tích? Thừa tác vụ tuổi trẻ? Đời sống giáo xứ? Âm nhạc phụng vụ? Một số, tất cả hay không thứ gì vừa kể?) Tuy nhiên, nhiều tìm tòi cho thấy khá rõ các năm tháng huấn luyện tuổi thơ và thiếu niên là hết sức quan yếu đối với việc “thiết dựng” tinh thần đạo hạnh trưởng thành cho một con người. Bất hạnh thay, dựa vào các xu hướng xã hội nói chung hiện nay, điều này có nghĩa “việc xuống dốc” gần như chắc chắn sẽ tiếp diễn trong nhiều năm sắp tới.
Ít nhất kể từ thập niên 1960, nhiều nơi trong thế giới Tây Phương đã mục kích sự thay đổi và xuống dốc vô tiền khoáng hậu về tôn giáo. Cùng một lúc, ta mục kích hàng loạt cách mạng xã hội và văn hóa, mà gần đây nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật và truyền thông do liên mạng thúc đẩy. Một mình cuộc cách mạng này đã thay đổi sâu xa lối suy nghĩ và hành động của người ta, có lẽ mãi mãi, và bất kể nó có tiềm năng nào đối với việc phúc âm hóa, điều chắc là nó sẽ góp phần làm kìm hãm và ngưng trệ việc này nhiều hơn.
Ở đây, có những câu hỏi ta chưa bắt đầu đặt ra, chứ đừng nói chi tới giải quyết. Dù vậy, điều rõ ràng là không phải chỉ là việc cần tới các phương pháp mới, mà là các phương pháp luôn được đổi mới, vì các khung cảnh xã hội và văn hóa hiện ta đang sống và là nơi ta muốn đem Tin Mừng tới, không ngừng thay đổi. Hiển nhiên, đây không phải là một trách vụ có thể chỉ một lần là chu toàn được, bất kể ta nhiệt thành đến đâu và chắc chắn sẽ còn thế mãi.
Những nhận định trên nghe ra có vẻ bi quan yếm thế. Nhưng nếu nhìn tới các nhân tố khác, người ta không khỏi lạc quan. Đó là lòng nhiệt thành của những tân tòng mới đây. Stephen Bullivant, chẳng hạn, cũng là một tân tòng. Thực vậy, anh rất biết ơn và hân hoan tiếp nhận hồng ân đức tin và gia nhập Giáo Hội cách đây 9 năm. Đưa ra các nhận định trên, vì thế, không phải để gây bi quan yếm thế. Trái lại “muốn giúp người khác tiến đến chỗ nhận thức được sự thật (xem 1 Tm 2:4), ta phải bắt đầu trung thực với chính ta. Và sự thật là: con đường ta dấn thân vào sẽ chậm chạp và tiệm tiến, đôi khi gây đau lòng, và sẽ được đánh dấu bằng nhiều thất bại hoặc phù phiếm. Đàng khác, dù không hề muốn làm giảm tầm quan trọng của các thành tựu có thể có của thế hệ này, nhưng cơ may được mục kích các thành tựu này bằng chính mắt ta là điều hết sức mong manh.
Con đường nhỏ mọn
Tuy nhiên, việc hiểu ra như trên không nên làm ta nản lòng. Vì ở mặt bên kia của nó, ta thấy: các thành công của việc phúc âm hóa mới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn, sẽ nhất thiết được xây dựng bằng những hành động, những cuộc đời bé nhỏ, xem ra vô nghĩa. Và như các cuộc tìm tòi gần đây đã cho thấy, phần lớn các thành công của cuộc phúc âm hóa đầu tiên của Giáo Hội sơ khai cũng đã có cùng một trải nghiệm.
Dù ta vẫn có xu hướng nghĩ tới việc Kitô hóa thế giới Rôma như đã hoàn tất một cách mau chóng lạ lùng, thì việc này thực sự đã diễn ra hàng nhiều thế kỷ nơi một dân số ít hơn Tây Phương bây giờ rất nhiều. Hơn nữa, đã đành thời ấy có những bậc thánh nhân truyền giảng tin mừng và làm phép lạ “cả thể” như thánh Phaolô, Thánh Grêgôriô làm phép lạ, Thánh Augustinô thành Canterbury. Tuy nhiên, các tìm tòi gần đây cho thấy “phòng máy” của cuộc truyền giảng tin mừng đầu tiên hệ ở việc chuyển giao đức tin chậm chạp và đơn sơ từ tín hữu bình dân này tới tín hữu bình dân khác, và nhất là từ cha mẹ tới con cái. Như Đức Bênêđíctô từng nói: “Sứ vụ không thay đổi, y hệt như lòng nhiệt thành và sự can đảm từng động viên các Tông Đồ và các môn đệ đầu tiên không thay đổi”.
Điều trên muốn nói ta phải trì chí, lấy lại nhiệt thành, lấy các thành công nhỏ mọn của ta làm động lực trong một thời gian dài. Chính ở đây, ta thấm thía lời Chân Phúc Hồng Y Newman, trong một bài giảng, tựa là “Giêrêmia, Một Bài Học cho những người Thất Vọng”, 15 năm trước khi trở lại Công Giáo.
Đức Hồng Y Newman nói rằng “thừa tá vụ của Giêrêmia có thể được tóm gọn trong 3 chữ: hy vọng, lao nhọc, thất vọng”. Từ đó, ngài rút ra bài học chung về bản chất sứ vụ của con người. Điều này đặc biệt đúng khi ta thực hiện công việc của Thiên Chúa. Đức Hồng Y Newman viết:
"Chờ mong các hiệu quả lớn lao từ các cố gắng của ta đối với các đối tượng tôn giáo quả là điều tự nhiên và vô tội, nhưng điều này phát sinh từ việc thiếu kinh nghiệm đối với loại công việc ta có nghĩa vụ phải làm, là thay đổi tâm hồn và ý chí người ta. Một tâm thức cao thượng hơn nhiều là lao nhọc, mà không hy vọng được thấy kết quả việc làm của ta, nhưng như một vấn đề nghĩa vụ vì lương tâm ta; và một lần nữa, bằng đức tin, tin rằng điều tốt sẽ được thực hiện, dù ta không thấy điều tốt này”.
Đức Hồng Y Newman quả có khen ngợi tiên tri Giêrêmia đã “nhẫn nhục” trước số phận của mình. Nhưng trọng điểm của ngài không phải là: ta nên học cách chịu sống với sự thất bại tối hậu của ta. Ngược lại, khả năng kiên trì của ta đặt tiền đề ở niềm tín thác và tin tưởng của ta rằng các lao nhọc của ta không vô ích, dù chúng ta nhìn thấy rất ít các kết quả của nó.
"Đọc suốt Thánh Kinh, bạn sẽ thấy các tôi tớ của Thiên Chúa, dù khởi đầu có thành công, nhưng đã kết thúc đầy thất vọng; không phải vì các mục đích của Thiên Chúa hay các dụng cụ của Người bất thành, nhưng thời để gặt hái những gì chúng ta đã gieo là đời sau, không phải đời này; ở đời này, không có kết quả lớn lao trông thấy trong bất cứ đời người nào".
Cả điều đó nữa cũng đòi phải có một loại nhiệt tâm nào đó, một loại nhiệt tâm nay rất có thể khác với lúc nó “mới” được cảm nghiệm lần đầu, nhưng cũng không kém thực chất và nồng độ như thế. Tóm lại, điều quan trọng muốn nói là kiên nhẫn và trì chí. Điều này chắc chắn là điều quan trọng, nhưng cần áp dụng vào cả các sứ vụ lớn lao lẫn các sứ vụ nhỏ mọn. Tuy nhiên, có thể nói rằng phần lớn công cuộc phúc âm hóa mới hệ ở các việc làm nhỏ mọn, hệ ở việc hàng ngày sống thực các hệ luận của Đạo Công Giáo, như cầu nguyện, sùng kính, thương người, thông đạt đức tin cho thế hệ kế tiếp, v.v… Ở điểm này, các thánh có thể giúp chúng ta. Trong đó, dĩ nhiên có chân phúc Newman và nếu nói tới “những con đường bé nhỏ” thì phải nhắc tới Thánh Têrêsa thành Lisieux.
Nhiều vị khác nữa, như Thánh Têrêxa thành Calcutta hoặc Dorothy Day. Tuy nhiên, vị thánh đáng lưu ý là Thánh Josemaría Escrivá. Trong cuốn “Đạo” (The Way), vị thánh này chú giải lời Chúa Kitô nói như sau: “Vì con đã in pauca fidelis, trung thành trong những việc nhỏ mọn, nên con hãy đến và dự phần vào hạnh phúc của chủ nhân con. Chúa Kitô phán thế. In pauca fidelis! … Giờ đây, anh em có quên những điều nhỏ mọn, nếu thiên đàng đã được hứa cho những người lưu tâm đến chúng không?”
Ở nơi khác, Thánh Escrivá còn viết rằng: “anh em sẽ hiểu lầm đạo nếu anh em coi khinh những điều nhỏ mọn”.
Các việc làm “lớn lao” trong một cuộc hôn nhân hạnh phúc hay dưỡng dục một đứa con, cả hai trường hợp cần đến sự thể hiện và phát biểu lòng nhiệt thành một cách nhẫn nại và hằng ngày, được bồi đắp bằng muôn vàn các hành vi không ai lưu ý, không ai phẩm bình vì chúng quá nhỏ mọn thế nào, thì việc phúc âm hóa mới cũng thế. Ở đây, xin mượn lời của Chân Phúc Hồng Y Newman ngỏ với người thất vọng:
"Đừng ngưng các cố gắng phục vụ Thiên Chúa, dù bạn không thấy kết quả chi từ các cố gắng này. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, và tuân theo lương tâm, dù bạn không thể tri cảm sự tiến triển của mình trên đường thánh thiện. Hãy tiếp tục, dù không thể nhưng hãy tiến bước; hãy tin vào nó dù không thấy nó. Hãy thi hành các bổn phận trong ơn gọi của mình, dù chúng không có mùi vị chi với bạn. Hãy giáo dục con cái một cách cẩn trọng trên đường tốt lành, dù bạn không thể nói ơn thánh của Thiên Chúa đã tác động lên tâm hồn chúng bao xa. Hãy để ánh sáng của bạn soi chiếu trước mặt người ta, và ca ngợi Thiên Chúa bằng một cuộc sống nhất quán, dù các người khác xem ra không vinh tụng Cha của họ nhờ cuộc sống này, hay được ích nhờ gương sáng của bạn".
Hãng tin Fides vốn là cơ quan thông tin của Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo. Hãng này, khi phân tích các dữ liệu Thống Kê của Tòa Thánh, cho biết con số các người chịu phép rửa gia tăng 12.5 triệu người.
Cũng theo bản tin trên, Châu Phi hiện có 222 triệu người Công Giáo, chiếm 19.42 phần trăm dân số Châu này. Mỹ Châu có 635 triệu người Công Giáo, chiếm 63.6 phần trăm dân số. Âu Châu có 285 triệu người Công Giáo, chiếm 39.87 phần trăm dân số. Á Châu có 141 triệu người Công Giáo, chiếm 3.24 phần trăm dân số.
Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo điều hành 216,548 trường học trên thế giới với sự tham dự của hơn 60 triệu trẻ em. Có khoảng 118,000 cơ sở xã hội và bác ái Công Giáo (bệnh viện, nhà chăm sóc người cùi, trẻ mồ côi, viện dưỡng lão) rải rác khắp thế giới.
Sự phục hưng tất yếu của Kitô Giáo ở Âu Châu
Trong khi đó, nhiều người thất vọng vì thấy các cố gắng của “phúc âm hóa” không có hậu quả chi ở vùng xưa kia vốn là cái nôi của Kitô Giáo, tức Âu Châu. Nhưng theo Stephen Bullivant, dù chúng ta có thể không sống lâu đủ để thấy sự phục hưng của Kitô Giáo ở Âu Châu, nhưng đây là điều nhất định sẽ xẩy ra. Thành thử, như Chân Phúc Hồng Y John Henry Newman hay nhấn mạnh, ta cần phải kiên nhẫn chờ tới ngày các lao công khó nhọc của ta sinh hoa kết trái tốt.
Phần Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi công bố việc “phúc âm hóa mới”, thì cho rằng việc này đòi “phải mới trong nhiệt tình, trong phương pháp và trong cách biểu hiện của nó”.
Phần lớn chúng ta lưu ý tới phương pháp và cách biểu hiện, ít lưu ý tới lòng nhiệt thành mới. Vì điều gì sẽ xẩy ra khi các phương pháp và cách biểu hiện không đem lại các hoa trái mong chờ? Hay không mang lại một cách nhanh chóng đủ cho những người đang nóng lòng chờ mong hiện nay? Sau 10 năm, hay 50 năm, hoặc 100 năm, há cái nhiệt tình này không nhường bước cho vỡ mộng và thất vọng đó ư? Lúc đó, phúc âm hóa mới sẽ ra sao?
Dù cho có thành công, việc phúc âm hóa mới này đòi ta phải dấn thân vào một công trình lâu hàng thế kỷ. Kiên nhẫn vì thế là một đòi hỏi nền tảng.
Trong Redemptoris Missio, Thánh Gioan Phaolô II phân biệt “phúc âm hóa mới” với 2 hình thức truyền giáo khác: Thứ nhất, đề xuất Tin Mừng cho những người chưa bao giờ nghe nó; thứ hai, chăm sóc mục vụ cho những người đang là Kitô hữu rồi. Trái lại, “phúc âm hóa mới” là điều cần thiết khi một nền văn hóa bắt đầu lỏng dần mối liên kết của nó với Kitô Giáo đã được thiết lập: tức tình huống trong đó, một nền văn hóa, nơi Giáo Hội đã được thiết lập vững chãi, nay đang lâm vào diễn trình rơi trở lại vị trí trong đó Chúa Kitô phần lớn không được biết đến. Đó là mô tả chính xác về Tây Âu thời ta.
Có thể cho rằng, thách đố hàng đầu của việc phúc âm hóa mới là giữ được những người chúng ta đã có. Giải quyết việc này quả là một việc tự nó rất lớn lao, lý do, ít nhất, là: hiện nay, ta hoàn toàn không biết chắc phải giải quyết điều chi (Dạy giáo lý? Chuẩn bị các bí tích? Thừa tác vụ tuổi trẻ? Đời sống giáo xứ? Âm nhạc phụng vụ? Một số, tất cả hay không thứ gì vừa kể?) Tuy nhiên, nhiều tìm tòi cho thấy khá rõ các năm tháng huấn luyện tuổi thơ và thiếu niên là hết sức quan yếu đối với việc “thiết dựng” tinh thần đạo hạnh trưởng thành cho một con người. Bất hạnh thay, dựa vào các xu hướng xã hội nói chung hiện nay, điều này có nghĩa “việc xuống dốc” gần như chắc chắn sẽ tiếp diễn trong nhiều năm sắp tới.
Ít nhất kể từ thập niên 1960, nhiều nơi trong thế giới Tây Phương đã mục kích sự thay đổi và xuống dốc vô tiền khoáng hậu về tôn giáo. Cùng một lúc, ta mục kích hàng loạt cách mạng xã hội và văn hóa, mà gần đây nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật và truyền thông do liên mạng thúc đẩy. Một mình cuộc cách mạng này đã thay đổi sâu xa lối suy nghĩ và hành động của người ta, có lẽ mãi mãi, và bất kể nó có tiềm năng nào đối với việc phúc âm hóa, điều chắc là nó sẽ góp phần làm kìm hãm và ngưng trệ việc này nhiều hơn.
Ở đây, có những câu hỏi ta chưa bắt đầu đặt ra, chứ đừng nói chi tới giải quyết. Dù vậy, điều rõ ràng là không phải chỉ là việc cần tới các phương pháp mới, mà là các phương pháp luôn được đổi mới, vì các khung cảnh xã hội và văn hóa hiện ta đang sống và là nơi ta muốn đem Tin Mừng tới, không ngừng thay đổi. Hiển nhiên, đây không phải là một trách vụ có thể chỉ một lần là chu toàn được, bất kể ta nhiệt thành đến đâu và chắc chắn sẽ còn thế mãi.
Những nhận định trên nghe ra có vẻ bi quan yếm thế. Nhưng nếu nhìn tới các nhân tố khác, người ta không khỏi lạc quan. Đó là lòng nhiệt thành của những tân tòng mới đây. Stephen Bullivant, chẳng hạn, cũng là một tân tòng. Thực vậy, anh rất biết ơn và hân hoan tiếp nhận hồng ân đức tin và gia nhập Giáo Hội cách đây 9 năm. Đưa ra các nhận định trên, vì thế, không phải để gây bi quan yếm thế. Trái lại “muốn giúp người khác tiến đến chỗ nhận thức được sự thật (xem 1 Tm 2:4), ta phải bắt đầu trung thực với chính ta. Và sự thật là: con đường ta dấn thân vào sẽ chậm chạp và tiệm tiến, đôi khi gây đau lòng, và sẽ được đánh dấu bằng nhiều thất bại hoặc phù phiếm. Đàng khác, dù không hề muốn làm giảm tầm quan trọng của các thành tựu có thể có của thế hệ này, nhưng cơ may được mục kích các thành tựu này bằng chính mắt ta là điều hết sức mong manh.
Con đường nhỏ mọn
Tuy nhiên, việc hiểu ra như trên không nên làm ta nản lòng. Vì ở mặt bên kia của nó, ta thấy: các thành công của việc phúc âm hóa mới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn, sẽ nhất thiết được xây dựng bằng những hành động, những cuộc đời bé nhỏ, xem ra vô nghĩa. Và như các cuộc tìm tòi gần đây đã cho thấy, phần lớn các thành công của cuộc phúc âm hóa đầu tiên của Giáo Hội sơ khai cũng đã có cùng một trải nghiệm.
Dù ta vẫn có xu hướng nghĩ tới việc Kitô hóa thế giới Rôma như đã hoàn tất một cách mau chóng lạ lùng, thì việc này thực sự đã diễn ra hàng nhiều thế kỷ nơi một dân số ít hơn Tây Phương bây giờ rất nhiều. Hơn nữa, đã đành thời ấy có những bậc thánh nhân truyền giảng tin mừng và làm phép lạ “cả thể” như thánh Phaolô, Thánh Grêgôriô làm phép lạ, Thánh Augustinô thành Canterbury. Tuy nhiên, các tìm tòi gần đây cho thấy “phòng máy” của cuộc truyền giảng tin mừng đầu tiên hệ ở việc chuyển giao đức tin chậm chạp và đơn sơ từ tín hữu bình dân này tới tín hữu bình dân khác, và nhất là từ cha mẹ tới con cái. Như Đức Bênêđíctô từng nói: “Sứ vụ không thay đổi, y hệt như lòng nhiệt thành và sự can đảm từng động viên các Tông Đồ và các môn đệ đầu tiên không thay đổi”.
Điều trên muốn nói ta phải trì chí, lấy lại nhiệt thành, lấy các thành công nhỏ mọn của ta làm động lực trong một thời gian dài. Chính ở đây, ta thấm thía lời Chân Phúc Hồng Y Newman, trong một bài giảng, tựa là “Giêrêmia, Một Bài Học cho những người Thất Vọng”, 15 năm trước khi trở lại Công Giáo.
Đức Hồng Y Newman nói rằng “thừa tá vụ của Giêrêmia có thể được tóm gọn trong 3 chữ: hy vọng, lao nhọc, thất vọng”. Từ đó, ngài rút ra bài học chung về bản chất sứ vụ của con người. Điều này đặc biệt đúng khi ta thực hiện công việc của Thiên Chúa. Đức Hồng Y Newman viết:
"Chờ mong các hiệu quả lớn lao từ các cố gắng của ta đối với các đối tượng tôn giáo quả là điều tự nhiên và vô tội, nhưng điều này phát sinh từ việc thiếu kinh nghiệm đối với loại công việc ta có nghĩa vụ phải làm, là thay đổi tâm hồn và ý chí người ta. Một tâm thức cao thượng hơn nhiều là lao nhọc, mà không hy vọng được thấy kết quả việc làm của ta, nhưng như một vấn đề nghĩa vụ vì lương tâm ta; và một lần nữa, bằng đức tin, tin rằng điều tốt sẽ được thực hiện, dù ta không thấy điều tốt này”.
Đức Hồng Y Newman quả có khen ngợi tiên tri Giêrêmia đã “nhẫn nhục” trước số phận của mình. Nhưng trọng điểm của ngài không phải là: ta nên học cách chịu sống với sự thất bại tối hậu của ta. Ngược lại, khả năng kiên trì của ta đặt tiền đề ở niềm tín thác và tin tưởng của ta rằng các lao nhọc của ta không vô ích, dù chúng ta nhìn thấy rất ít các kết quả của nó.
"Đọc suốt Thánh Kinh, bạn sẽ thấy các tôi tớ của Thiên Chúa, dù khởi đầu có thành công, nhưng đã kết thúc đầy thất vọng; không phải vì các mục đích của Thiên Chúa hay các dụng cụ của Người bất thành, nhưng thời để gặt hái những gì chúng ta đã gieo là đời sau, không phải đời này; ở đời này, không có kết quả lớn lao trông thấy trong bất cứ đời người nào".
Cả điều đó nữa cũng đòi phải có một loại nhiệt tâm nào đó, một loại nhiệt tâm nay rất có thể khác với lúc nó “mới” được cảm nghiệm lần đầu, nhưng cũng không kém thực chất và nồng độ như thế. Tóm lại, điều quan trọng muốn nói là kiên nhẫn và trì chí. Điều này chắc chắn là điều quan trọng, nhưng cần áp dụng vào cả các sứ vụ lớn lao lẫn các sứ vụ nhỏ mọn. Tuy nhiên, có thể nói rằng phần lớn công cuộc phúc âm hóa mới hệ ở các việc làm nhỏ mọn, hệ ở việc hàng ngày sống thực các hệ luận của Đạo Công Giáo, như cầu nguyện, sùng kính, thương người, thông đạt đức tin cho thế hệ kế tiếp, v.v… Ở điểm này, các thánh có thể giúp chúng ta. Trong đó, dĩ nhiên có chân phúc Newman và nếu nói tới “những con đường bé nhỏ” thì phải nhắc tới Thánh Têrêsa thành Lisieux.
Nhiều vị khác nữa, như Thánh Têrêxa thành Calcutta hoặc Dorothy Day. Tuy nhiên, vị thánh đáng lưu ý là Thánh Josemaría Escrivá. Trong cuốn “Đạo” (The Way), vị thánh này chú giải lời Chúa Kitô nói như sau: “Vì con đã in pauca fidelis, trung thành trong những việc nhỏ mọn, nên con hãy đến và dự phần vào hạnh phúc của chủ nhân con. Chúa Kitô phán thế. In pauca fidelis! … Giờ đây, anh em có quên những điều nhỏ mọn, nếu thiên đàng đã được hứa cho những người lưu tâm đến chúng không?”
Ở nơi khác, Thánh Escrivá còn viết rằng: “anh em sẽ hiểu lầm đạo nếu anh em coi khinh những điều nhỏ mọn”.
Các việc làm “lớn lao” trong một cuộc hôn nhân hạnh phúc hay dưỡng dục một đứa con, cả hai trường hợp cần đến sự thể hiện và phát biểu lòng nhiệt thành một cách nhẫn nại và hằng ngày, được bồi đắp bằng muôn vàn các hành vi không ai lưu ý, không ai phẩm bình vì chúng quá nhỏ mọn thế nào, thì việc phúc âm hóa mới cũng thế. Ở đây, xin mượn lời của Chân Phúc Hồng Y Newman ngỏ với người thất vọng:
"Đừng ngưng các cố gắng phục vụ Thiên Chúa, dù bạn không thấy kết quả chi từ các cố gắng này. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, và tuân theo lương tâm, dù bạn không thể tri cảm sự tiến triển của mình trên đường thánh thiện. Hãy tiếp tục, dù không thể nhưng hãy tiến bước; hãy tin vào nó dù không thấy nó. Hãy thi hành các bổn phận trong ơn gọi của mình, dù chúng không có mùi vị chi với bạn. Hãy giáo dục con cái một cách cẩn trọng trên đường tốt lành, dù bạn không thể nói ơn thánh của Thiên Chúa đã tác động lên tâm hồn chúng bao xa. Hãy để ánh sáng của bạn soi chiếu trước mặt người ta, và ca ngợi Thiên Chúa bằng một cuộc sống nhất quán, dù các người khác xem ra không vinh tụng Cha của họ nhờ cuộc sống này, hay được ích nhờ gương sáng của bạn".
Ơn gọi Truyền gíao
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
09:03 21/10/2017
Ơn gọi Truyền gíao
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645 , sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. , viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
„ Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo Hội Công Giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
1. Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là „Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
2. Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức Mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật , mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
3. Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức…các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
„ Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
Khánh nhật truyền giáo 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645 , sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. , viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
„ Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo Hội Công Giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
1. Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là „Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
2. Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức Mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật , mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
3. Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức…các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
„ Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
Khánh nhật truyền giáo 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bên Nhau Buổi Sáng Đầu Ngày
Nguyễn Đức Cung
08:43 21/10/2017
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Hôm qua ta hãy quên đi
Bởi vì nó cũng nhớ gì ta đâu
Ngày mai đừng sợ đừng sầu
Vì ta đã gặp nó đâu mà sầu
Hãy vui đời sống ân cần Hôm nay.
(nđc phóng ngữ)
Forget yesterday
it has already forgotten you.
Don't sweat tomorrow
you haven't even met.
Instead,
Open your eyes and your heart
to a truly precious gift - today.
(Steve Maraboli)