Ngày 24-11-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:47 24/11/2019

90. Thiên Chúa đem sự trong sáng và ân sủng viên mãn nhất để ban cho người khiêm tốn.

(Thánh Vincent de Paul)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


-----------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:51 24/11/2019
70. ĐỐI ĐỊCH PHẢI TRÁI

Trịnh Giới Phu tên Hiệp, tự gọi là “Nhất Phật cư sĩ”, thích phô trương đánh cờ vây, mỗi khi có khách đến, thì nhất định ép họ đánh cờ vây với mình.

Có một người khách không biết đánh cờ, ông ta cũng kéo người này đến bên cạnh để coi, dùng tay phải và tay trái của mình làm thành hai phe cục diện đối đầu, trắng bên trái và đen bên phải, cũng tận tình suy nghĩ như đánh thật với địch vậy, giả sử bên trắng mà thắng, thì dùng tay trái rót rượu và uống, còn nếu như bên đen mà thắng thì làm ngược lại.

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 70:

Cái tội nghiệp nhất của người hay khoe khoang là không biết mình là ai, họ là những người không chịu “ngồi yên” một chổ nhưng làm việc gì cũng muốn người khác biết đến…

Người thích khoe khoang thì cũng thích tự mình thưởng cho mình, chứ không thích mình thưởng cho ai cả, bởi vì người khoe khoang thì luôn coi cái gì của mình cũng đẹp, cũng tốt và cũng hay, cho nên mọi người phải “biết” và tán dương mình mới phải đạo !!!

Có người khoe nhà cửa mình đẹp hơn người ta, có người khoe chiếc xe môtô của mình loại “xịn” hơn người khác, lại có người khoe mình tiền bạc bỏ đầy trong ngân hàng… những thứ mà họ đem ra khoe khoang ấy không làm cho họ sống thêm được một phút, trái lại càng làm cho mạng sống của họ ngắn thêm một chút, vì khoe của là mời gọi và khêu gợi lòng tham của mọi người…

Người khoe khoang thì lôi kéo người khác đến để coi cái khoe khoangg của mình, cho nên mặt họ càng ngày càng dày ra và không đẹp; người khiêm tốn thì họ giấu tài của mình trong lòng, chỉ khi có cơ hội giúp đỡ cho người khác thì họ mới phải thi thố tài năng của mình và luôn cảm tạ ơn Thiên Chúa mà thôi…

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-----------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài Giảng của Đức Phanxicô trong Thánh Lễ tại Sân Baseball ở Nagasaki
Vũ Văn An
06:24 24/11/2019
"Lạy Chúa Giêsu, hãy nhớ đến tôi khi Ngài vào Vương quốc của Ngài" (Lc 23:42). Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ này, chúng ta kết hợp tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của người trộm lành, bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu, đã nhận ra Người và tuyên bố Người là vua. Ở đó, tại thời điểm ít chiến thắng và vinh quang hơn, giữa những tiếng kêu gào nhạo báng và nhục mạ, tên cướp đã có thể lên tiếng và thực hiện lời tuyên xưng đức tin của mình. Đó là những lời cuối cùng Chúa Giêsu nghe được và đáp lại, đây là những lời cuối cùng mà Chúa Giêsu nói với anh ta trước khi phó mình cho Cha Người: "Ta cho con hay: hôm nay, con sẽ ở trên Thiên đường với Ta" (Lc 23:43). Quá khứ quanh co của kẻ trộm, trong một khoảnh khắc, dường như bỗng nhận được một ý nghĩa mới: đồng hành sát cạnh nỗi thống khổ của Chúa; và trong khoảnh khắc này, nó chỉ chứng thực cuộc sống của Chúa: cung hiến sự cứu rỗi mọi lúc và mọi nơi. Đồi Calvariô nơi rối loạn và bất công, trong đó sự bất lực và hiểu lầm gặp nhau, kèm theo những lời cằn nhằn và rỉ tai thờ ơ biện minh cho những kẻ nhạo báng liên tiếp dưới chân người vô tội, nhờ thái độ của kẻ trộm lành, trở thành lời hy vọng cho toàn thể nhân loại. Những lời nhạo báng và tiếng la hét ''hãy tự cứu mình đi” về phiá người vô tội đang đau khổ không phải là những lời cuối cùng; trái lại, chúng làm nổi lên tiếng nói của những người tự để trái tim mình được đánh động và chọn lòng cảm thương làm phương cách thích hợp để xây dựng lịch sử.



Hôm nay, chúng ta muốn làm mới lại đức tin và cam kết của chúng ta; chúng ta biết lịch sử các thất bại, tội lỗi và giới hạn của chúng ta, giống như kẻ trộm lành, nhưng chúng ta không muốn điều đó xác định hoặc định nghĩa hiện tại và tương lai của chúng ta. Chúng ta biết rằng chúng không phải là hiếm, những lần chúng ta có thể tắm gội trong bầu không khí thuận tiện của tiếng la dễ dãi và thờ ơ kiểu ''hãy tự cứu mình lấy mình đi'' và quên đi ý nghĩa của việc tự nhận lấy trách nhiệm sự đau khổ của nhiều người vô tội. Đất nước này được biết đến như là rất ít, mức độ hủy diệt mà con người nhân bản có khả năng chịu. Đó là lý do tại sao, giống như người trộm lành, chúng ta muốn sống khoảnh khắc này, khoảnh khắc trong đó chúng ta có thể cất tiếng nói để tuyên xưng đức tin của chúng ta bằng cách bảo vệ và phục vụ Chúa, người đau khổ vô tội. Chúng ta muốn đồng hành với Người trong nỗi thống khổ của Người, hỗ trợ Người trong sự cô độc và bị bỏ rơi của Người, và lắng nghe một lần nữa rằng ơn cứu rỗi là lời mà Chúa Cha muốn dành cho tất cả chúng ta: "Hôm nay, con sẽ ở trong Thiên đường với Ta".

Ơn cứu rỗi và sự chắc chắn này, Thánh Paul Miki và bạn đồng hành của ngài đã mạnh dạn làm chứng bằng cuộc sống của họ, giống như hàng ngàn vị tử đạo vốn đặc trưng cho di sản thiêng liêng của anh chị em. Chúng ta muốn lên đường theo vết chân họ, chúng ta muốn theo bước chân của họ để công bố một cách can đảm rằng tình yêu được Chúa Kitô ban tặng và cử hành trên thập giá, có thể chiến thắng mọi loại thù hận, ích kỷ, nhạo báng hoặc trốn tránh ; nó có khả năng chiến thắng mọi bi quan vô bổ hay hạnh phúc hư ảo trốn đàng sau ma túy, mà cuối cùng làm tê liệt một số hành động hay lựa chọn tốt. Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta rằng: tự tách xa khỏi chân lý là những người, khi biết rằng chúng ta không có kinh thành vĩnh viễn ở đời này, nhưng chúng ta đang tiến về phía kinh thành tương lai, tin rằng vì điều này chúng ta có thể bỏ bê các nhiệm vụ nhân bản của chúng ta, mà không nhận ra rằng chính đức tin mà chúng ta tuyên xưng buộc chúng ta phải đối đầu với chúng một cách khiến chúng phải giải thích và làm chứng cho sự cao quý của ơn gọi của chúng ta” (xem Gaudium et Spes, 43).



Chúng ta tin vào Chúa của người sống. Chúa Kitô đang sống và hoạt động giữa chúng ta, dẫn tất cả chúng ta đến cuộc sống viên mãn. Người đang sống và Người muốn chúng ta sống. Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta (xem Christus vivit, 1). Chúng ta cầu khẩn Người mỗi ngày: Lạy Chúa, xin cho Nước Chúa ngự đến. Và làm như vậy, chúng ta cũng muốn cuộc sống và các hành động của chúng ta trở thành lời ngợi khen. Nếu sứ mệnh làm môn đệ truyền giáo của chúng ta là sứ mệnh trở thành nhân chứng và sứ giả của những gì sẽ đến, chúng ta không thể cam chịu khi đứng trước sự ác và các sự xấu xa, nhưng nó thúc đẩy chúng ta trở thành men bột của Vương quốc Người dù chúng ta ở đâu: trong gia đình, nơi làm việc, ngoài xã hội; nó thúc đẩy chúng ta trở thành cửa hẹp qua đó Chúa Thánh Thần tiếp tục thổi vào niềm hy vọng giữa các dân tộc. Vương quốc thiên đường là đích đến chung của chúng ta, một đích đến không chỉ dành cho ngày mai, mà chúng ta cầu khẩn và bắt đầu sống từ hôm nay, giữa sự thờ ơ biết bao lần bao vây và làm câm lặng các bệnh nhân của chúng ta và những người khuyết tật, những người già và những người bị bỏ rơi, người tị nạn và người lao động nước ngoài; mỗi người trong số họ là một bí tích sống của Chúa Kitô, Vua của chúng ta (xem Mt 25: 31-46), vì "nếu chúng ta thực sự tái khởi hành tử việc chiêm niệm Chúa Kitô, chúng ta phải biết khám phá ra Người trước nhất trong khuôn mặt của những người mà Người vốn muốn đồng hóa với” "(Đức Gioan Phaolô II, Novo Millennio Ineunte, 49).

Hôm đó, trên đồi Canvariô, nhiều tiếng nói im lặng, rất nhiều tiếng khác chế nhạo, chỉ có tiếng nói của người trộm mới có thể cất lên và bảo vệ người đau khổ vô tội; tóm lại, một tuyên xưng đức tin can đảm! Tùy mỗi chúng ta đưa ra quyết định im lặng, chế giễu hoặc nói tiên tri. Anh chị em thân mến, Nagasaki mang trong linh hồn nó một vết thương khó lành, một dấu hiệu đau khổ khôn tả của rất nhiều người vô tội; các nạn nhân gây ra bởi các cuộc chiến của ngày hôm qua, nhưng họ tiếp tục chịu đựng ngày hôm nay, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ ba từng mảnh này. Chúng ta hãy cất tiếng nói ở đây trong một lời cầu nguyện nhất trí, cho tất cả những người ngày nay phải chịu, trong thân xác họ, tội lỗi đang kêu thấu trời này, và để ngày càng có nhiều người, giống như kẻ trộm lành, không thể im lặng hoặc chế giễu, nhưng bằng giọng nói của họ tuyên bố một triều đại của sự thật và công lý, của thánh thiện và ân sủng, của tình yêu và hòa bình (xem Sách lễ Rôma, Kinh Tiền tụng Ngày Lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ).
 
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại đền các thánh tử đạo trên đồi Nishizaka, Nagasaki
J.B. Đặng Minh An dịch
16:41 24/11/2019
Sáng Chúa Nhật 24/11, từ Tokyo, Đức Thánh Cha đã đáp máy bay đến Nagasaki. Đức Thánh Cha dã viếng thăm công viên Hypocenter của Nagasaki nơi người Mỹ đã ném bom nguyên tử xuống đây vào ngày 9 tháng 8, 1945, đúng ngay vào ngôi nhà thờ chính tòa Urakami.

Nagasaki đã từng là một cứ điểm truyền giáo. Các nhà truyền giáo Âu Châu nghỉ ngơi tại đây, học các ngôn ngữ rồi được đưa sang Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cambốt, Thái Lan và Mã Lai Á. Nagasaki cũng là nơi 26 vị tử đạo tiên khởi của Nhật Bản bị đóng đinh vào thập giá ngày 5 tháng Hai, 1597. 26 vị này được giáo sử ghi nhận là các vị tử đạo tiên khởi tại Nhật và đã được Đức Giáo Hoàng Urbanô thứ Tám tuyên thánh ngày 14 tháng 9, 1627.

Tại đền các thánh tử đạo trên đồi Nishizaka, Đức Thánh Cha đã có một diễn từ với các tín hữu.

Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Tôi đã rất mong chờ thời điểm này. Tôi đã đến đây như một người hành hương để cầu nguyện, để củng cố anh chị em trong đức tin, và được củng cố bởi đức tin của những anh chị em này là những người mà chứng tá và lòng sùng mộ của họ thắp sáng con đường của chúng ta. Tôi cảm ơn tất cả các anh chị em đã nồng nhiệt chào đón tôi.

Ngôi đền này ghi khắc hình ảnh và tên của các Kitô hữu đã tử đạo từ lâu, bắt đầu với Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo của ngài vào ngày 5 tháng 2 năm 1597, và một loạt các vị tử đạo khác đã thánh hiến mảnh đất này bởi sự đau khổ và cái chết của họ.

Tuy nhiên, ngôi đền này không chỉ nói về cái chết; nó cũng nói lên sự chiến thắng của sự sống trên cái chết. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xem nơi này không chỉ đơn giản là ngọn đồi của các vị tử đạo mà là một ngọn Núi Các Mối Phúc Thật thực sự, nơi trái tim của chúng ta có thể bị khuấy động bởi chứng tá của những người nam nữ đầy tràn Chúa Thánh Thần và được giải thoát khỏi tích ích kỷ, lòng tự mãn và tự hào (x. Tông huấn Gaudete et Exsultate – Mừng rỡ Hân hoan, 65). Vì ở đây, ánh sáng của Tin mừng tỏa sáng nơi tình yêu chiến thắng sự bách hại và thanh gươm.

Ngôi đền này trên hết là một tượng đài về lễ Phục sinh, vì nó công cáo với thế giới rằng - bất chấp mọi bằng chứng ngược lại - cái chết không có tiếng nói cuối cùng nhưng sự sống mới có tiếng nói chung cuộc. Chúng ta không được tiền định cho cái chết nhưng cho sự sống viên mãn. Đây là thông điệp mà các vị tử đạo tuyên bố. Vâng, ở đây chúng ta thấy bóng tối của cái chết và tử đạo, nhưng cũng thấy ánh sáng của sự phục sinh, khi máu của các vị tử đạo trở thành hạt giống của cuộc sống mới mà Chúa Giêsu muốn ban cho chúng ta. Chứng tá của các ngài củng cố chúng ta trong đức tin và giúp chúng ta đổi mới sự cống hiến và cam kết của chúng ta đối với sứ mệnh truyền giáo của người môn đệ Chúa, cố gắng tạo ra một nền văn hóa có khả năng bảo vệ và bênh vực tất cả sự sống thông qua sự phục vụ thầm lặng hàng ngày đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những người quẫn bách nhất.

Tôi đã đến tượng đài các thánh tử đạo này để tỏ lòng tôn kính với những người nam nữ thánh thiện này. Nhưng tôi cũng đến trong sự khiêm nhường, với tư cách là một tu sĩ Dòng Tên từ thời tuổi trẻ ở một nơi xa xôi “tận cùng của trái đất”, đã tìm thấy nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong câu chuyện về những nhà truyền giáo đầu tiên và các vị tử đạo Nhật Bản. Cầu xin cho chúng ta đừng bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của các ngài! Cầu xin cho tượng đài này không chỉ còn là một di tích vinh quang của quá khứ, được lưu giữ và tôn vinh trong một bảo tàng viện, nhưng là một ký ức sống động, một nguồn cảm hứng cho các công việc tông đồ và thúc đẩy sự canh tân truyền giáo ở vùng đất này. Cầu xin cho Giáo Hội tại Nhật Bản trong thời đại của chúng ta, giữa muôn khó khăn và các dấu chỉ hy vọng, cảm thấy được mời gọi để nghe lại mỗi ngày thông điệp được Thánh Phaolô Miki tuyên bố từ thập giá, và chia sẻ với tất cả những người nam nữ niềm vui và vẻ đẹp của Tin mừng là con đường của sự thật và sự sống (x. Ga 14: 6). Cầu xin cho chúng ta có thể được giải thoát bản thân hàng ngày khỏi bất cứ điều gì đè nặng chúng ta và ngăn cản chúng ta bước đi trong khiêm nhường, tự do, hùng hồn nói lên sự thật và bác ái.

Anh chị em thân mến,

Ở nơi này, chúng ta hợp nhất với những Kitô hữu trên khắp thế giới, trong thời đại của chúng ta, đang chịu tử đạo vì đức tin. Họ là những vị tử đạo của thế kỷ hai mươi mốt và chứng tá của họ hiệu triệu chúng ta lên đường với lòng can đảm trên con đường các Các Mối Phúc Thật. Chúng ta hãy cầu nguyện với họ và cho họ. Chúng ta hãy lên tiếng và khẳng định rằng tự do tôn giáo phải được bảo đảm cho mọi người ở mọi nơi trên thế giới của chúng ta. Chúng ta cũng hãy lên án sự thao túng các tôn giáo thông qua “các chính sách cực đoan và chia rẽ, thông qua các hệ thống tìm kiếm lợi lộc không kềm chế hoặc thông qua các khuynh hướng ý thức hệ thù ghét đang thao túng các hành động và tương lai của những người nam nữ (Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại, Abu Dhabi, 4 tháng Hai, 2019).

Chúng ta hãy cầu xin cùng Đức Mẹ, Nữ vương các thánh tử vì đạo, Thánh Phaolô Miki và tất cả các bạn tử đạo của ngài, là những người trong suốt dòng lịch sử đã tuyên bố bằng cuộc sống của họ những điều kỳ diệu của Chúa, và cầu nguyện cho đất nước của anh chị em và cho toàn Giáo Hội. Cầu xin cho chứng tá của các ngài thức tỉnh và nâng đỡ tất cả chúng ta trong niềm vui của sứ vụ.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Bài diễn văn của Đức Phanxicô tại Đài Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima, Chúa nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2019
Vũ Văn An
17:36 24/11/2019
“Vì tình yêu anh chị em và bạn bè của tôi, tôi nói: Bình an cho anh chị em!” (Tv 122: 8).

Lạy Thiên Chúa của lòng thương xót và Chúa của lịch sử, chúng con ngước mắt lên Chúa, từ nơi này, nơi sự chết và sự sống, mất mát và tái sinh, đau khổ và cảm thương gặp nhau.

Tại đây, trong một bùng nổ chói lọi đầy sét và lửa, rất nhiều người đàn ông và đàn bà, rất nhiều giấc mơ và hy vọng, đã biến mất, chỉ còn lại bóng tối và im lặng. Ngay lập tức, mọi thứ bị nuốt chửng bởi một lỗ hổng đen ngòm của hủy diệt và chết chóc. Từ vực thẳm im lặng này, cả hôm nay nữa, chúng ta vẫn tiếp tục nghe thấy những tiếng than khóc của những người không còn nữa. Họ đến từ những nơi khác nhau, có tên khác nhau và một số người nói các ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đã được hợp nhất trong cùng một số phận, trong một giờ phút kinh hoàng để lại dấu ấn muôn thuở không chỉ trong lịch sử của đất nước này, mà còn trên khuôn mặt của cả nhân loại.



Ở đây, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính với tất cả các nạn nhân, và tôi cúi đầu trước sức mạnh và phẩm giá của những người sống sót những giây phút ban đầu ấy, trong nhiều năm về sau còn mang trong da thịt mình những nỗi đau khôn cùng, và trong tinh thần mình hạt giống chết chóc từng rút hết năng lực sống của họ.

Tôi cảm thấy có bổn phận phải đến đây như một khách hành hương hòa bình, đứng im trong lời cầu nguyện thầm lặng, nhớ lại những nạn nhân vô tội của một bạo lực như thế và mang trong trái tim mình những lời cầu nguyện và khát mong của những người đàn ông và đàn bà thời ta, nhất là giới trẻ, những người khát mong hòa bình, làm việc cho hòa bình và tự hy sinh cho hòa bình. Tôi đã đến nơi đầy ký ức và hy vọng cho tương lai này, mang theo với tôi tiếng kêu của người nghèo, những người luôn là nạn nhân bất lực nhất của thù hận và xung đột.

Mong muốn khiêm tốn của tôi là trở thành tiếng nói của những người không có tiếng nói, những người quan tâm và lo lắng chứng kiến các căng thẳng đang gia tăng trong thời đại chúng ta: các bất bình đẳng và bất công không thể chấp nhận đang đe dọa sự chung sống của con người, sự bất lực trầm trọng không thể chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, và việc liên tục bùng nổ xung đột vũ trang, như thể những điều này có thể bảo đảm một tương lai hòa bình.

Với niềm xác tín sâu sắc, tôi muốn một lần nữa được tuyên bố rằng việc sử dụng năng lượng nguyên tử cho các mục đích chiến tranh ngày nay, hơn bao giờ hết, là một tội ác không chỉ chống lại phẩm giá con người mà còn chống lại bất cứ tương lai khả hữu nào cho ngôi nhà chung của chúng ta. Việc sử dụng năng lượng nguyên tử cho mục đích chiến tranh là vô luân, giống như việc sở hữu vũ khí hạt nhân cũng là vô luân, như tôi đã nói hai năm trước đây. Chúng ta sẽ bị phán xét về điều này. Các thế hệ tương lai sẽ đứng dậy lên án sự thiếu sót của chúng ta nếu chúng ta nói đến hòa bình nhưng không hành động để đem nó vào giữa lòng các dân tộc trên trái đất. Làm thế nào chúng ta có thể nói đến hòa bình trong khi chúng ta chế tạo vũ khí chiến tranh mới đáng sợ? Làm thế nào chúng ta có thể nói về hòa bình khi chúng ta biện minh cho các hành động phi pháp bằng những bài phát biểu đầy kỳ thị và hận thù?

Tôi tin rằng hòa bình chỉ là một hạn từ trống rỗng, trừ khi nó được thiết lập trên sự thật, được xây dựng trong công lý, được đức ái sinh động hóa và hoàn thiện, và đạt được trong tự do (x. Thánh Gioan XXIII, Pacem in Terris, 37).

Xây dựng hòa bình trong sự thật và công lý đòi hỏi phải thừa nhận rằng “người ta thường khác nhau về kiến thức, đức hạnh, trí thông minh và sự giàu có” (ibid., 87), và điều này không bao giờ có thể biện minh cho mưu toan muốn áp đặt các lợi ích đặc thù của chúng ta lên người khác. Thật vậy, những khác biệt đó đòi hỏi một trách nhiệm và một lòng tôn trọng lớn hơn. Các cộng đồng chính trị có thể khác biệt một cách hợp lẽ về mặt văn hóa hoặc phát triển kinh tế, nhưng tất cả đều được kêu gọi dấn thân làm việc “cho chính nghĩa chung”, vì lợi ích của mọi người (sđd., 88).



Thật vậy, nếu chúng ta thực sự muốn xây dựng một xã hội công bằng và an toàn hơn, chúng ta phải buông vũ khí. “Không ai có thể yêu trong khi tay cầm vũ khí tấn công” (Thánh Phaolô VI, Diễn văn trước Liên Hợp Quốc, ngày 4 tháng 10 năm 1965, 10). Khi chúng ta nhượng bộ luận lý học vũ khí và tránh xa việc thực hành đối thoại, chúng ta quên đến có hại cho mình rằng, trước khi tạo ra các nạn nhân và sự hủy hoại, vũ khí có thể tạo ra những cơn ác mộng; “Chúng đòi các khoản chi phí khổng lồ, làm gián đoạn các dự án liên đới và lao động có ích, và làm méo mó quan điểm của các quốc gia” (ibid.). Làm thế nào chúng ta có thể đề xuất hòa bình nếu chúng ta liên tục viện dẫn mối đe dọa chiến tranh hạch nhân như một cách chính đáng để giải quyết các cuộc xung đột? Mong sao vực thẳm đau đớn đã chịu đựng ở đây nhắc nhở chúng ta có những ranh giới không bao giờ được vượt qua. Một nền hòa bình thực sự chỉ có thể là một nền hòa bình không vũ trang. Vì “hòa bình, không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của chiến tranh ... mà phải được xây dựng không ngừng” (Gaudium et Spes, 78). Đó là thành quả của công lý, phát triển, liên đới, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và cổ vũ lợi ích chung, như chúng ta đã học được từ những bài học lịch sử.

Tưởng nhớ, cùng bước đi với nhau, bảo vệ. Đó là ba mệnh lệnh luân lý mà ở đây tại Hiroshima này mang một ý nghĩa mạnh mẽ và thậm chí phổ quát hơn, và có thể mở ra nẻo đường dẫn đến hòa bình. Vì lý do này, chúng ta không thể để các thế hệ hiện tại và tương lai mất ký ức về những gì đã xảy ra ở đây. Đó là một ký ức bảo đảm và khuyến khích việc xây dựng một tương lai công bằng và huynh đệ hơn; một ký ức mở rộng, có khả năng đánh thức lương tâm của mọi người nam nữ, nhất là những người ngày nay đang đóng một vai trò quan trọng trong vận mệnh của các quốc gia; một ký ức sống động giúp chúng ta nói trong mọi thế hệ: Đừng bao giờ xẩy ra nữa!

Đó là lý do tại sao chúng ta được kêu gọi đồng hành với nhau bằng một ánh mắt thấu hiểu và tha thứ, mở chân trời cho hy vọng và mang đến một tia sáng giữa nhiều đám mây hiện đang làm tối đen bầu trời. Chúng ta hãy mở rộng cõi lòng ta cho hy vọng, và trở thành công cụ hòa giải và hòa bình. Điều này sẽ luôn luôn khả hữu nếu chúng ta có thể bảo vệ lẫn nhau và nhìn nhận rằng chúng ta được nối kết với nhau bởi một số phận chung. Thế giới của chúng ta, liên kết qua lại với nhau không những bởi việc hoàn cầu hóa mà còn bởi chính trái đất mà chúng ta luôn chia sẻ, đòi hỏi, hiện nay hơn bao giờ hết, phải bác bỏ các lợi ích dành riêng cho một số nhóm hoặc lĩnh vực nhất định, để đạt được sự vĩ đại của những người đấu tranh một cách đồng trách nhiệm để bảo đảm một tương lai chung.

Trong một lời khẩn khoản với Thiên Chúa và tất cả những người nam nữ có thiện chí, nhân danh mọi nạn nhân của các vụ đánh bom và thí nghiệm nguyên tử, và của mọi cuộc xung đột, chúng ta hãy cùng nhau kêu lớn từ trái tim chúng ta: Đừng bao giờ có chiến tranh nữa, đừng bao giờ xảy ra đụng độ vũ trang nữa, đừng bao giờ lại gây đau khổ đến thế nữa! Ước mong hòa bình đến trong thời ta và thế giới ta. Lạy Thiên Chúa, Chúa đã hứa với chúng con rằng “lòng thương xót và lòng trung thành đã gặp nhau, công lý và hòa bình đã ôm nhau; lòng trung thành sẽ trổ sinh từ trái đất và công lý từ thiên đàng nhìn xuống” (Tv 84: 11-12).

Lạy Chúa, xin Chúa hãy đến vì trời đã xế chiều, và nơi sự hủy diệt đầy rẫy, xin cho hy vọng cũng có dư đầy ngày hôm nay để chúng con có thể viết và đạt được một tương lai khác. Lạy Chúa, xin Chúa hãy đến, lạy Hoàng tử hòa bình! Xin Chúa làm cho chúng con thành khí cụ và phản ánh hòa bình của Chúa!

“Vì tình yêu anh chị em và bạn bè của tôi, tôi nói: Bình an cho anh chị em!” (Tv 122: 8).
 
Đức Thánh Cha Phanxicô đứng lặng nghẹn ngào trước đài kỷ niệm tại của Hiroshima
Thanh Quảng sdb
17:45 24/11/2019
Đức Thánh Cha Phanxicô đứng lặng nghẹn ngào trước đài kỷ niệm tại của Hiroshima

Đức Thánh Cha lên án việc dùng tiền bạc cách vô nhân vào việc chế tạo vũ khí nguyên tử mà tiếng than khóc của các nạn nhân xưa đã vang thấu trời cao!
(Bài của Andrea Tornielli của Đài Vatican)

Lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã phá vỡ một sự im lặng trùm phủ cả khu vực đài tưởng niệm các nạn nhân nguyên tử của hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Phát biểu trong buổi lễ tưởng niệm các nạn nhân của hai trái bom nguyên tử đã bỏ xuống hai thành phố này, Đức Thánh Cha đã quyết liệt lên án việc chế tạo và sở hữu vũ khí nguyên tử, đánh dấu một bước quyết liệt trong giáo huấn xã hội của Giáo hội.
Tại Công viên Tưởng Niệm trái bom nguyên tử trút xuống Thành phố Nagasaki, Đức Thánh Cha Phanxicô cho hay hòa bình và sự ổn định quốc tế không thể được xây dựng trên nỗi sợ hoặc đe dọa hủy diệt nhau!... Trong một thế giới mà có hàng triệu trẻ em và gia đình các em đang sống trong điều kiện thiếu thốn cùng cực, thì con người lại đang lãng phí nhiều tiền bạc vào việc sản xuất, nghiên cứu và bán các loại vũ khí hủy diệt kinh khùng này!
Đức Thánh Cha tố cáo sự tha hóa của chủ nghĩa đa phương, vốn tập trung vào việc phát triển công nghệ quân sự mới, đưa chúng ta đến gần với nguy cơ của thế chiến thứ ba: một cuộc chiến đang diễn ra trong các cuộc giao tranh hiện nay trên thế giới!

Sự kiện đánh dấu một ngày dài của ĐTC tại Nhật Bản đã kết thúc tại Hiroshima, nơi đây một lần nữa ĐTC khẳng định rằng "việc sử dụng năng lượng nguyên tử cho mục đích chiến tranh xưa cũng như nay và bất luận lúc nào luôn là một tội ác không chỉ chống lại phẩm giá con người mà còn chống lại tương lai của ngôi nhà chung của chúng ta. Chúng ta phải lên án việc sử dụng năng lượng nguyên tử vào chiến tranh!

Đức Thánh Cha Phanxicô lặp lại những gì ngài đã nói trong Hội nghị tháng 11 năm 2017 tại Vatican rằng việc sử dụng vũ khí nguyên tử không chỉ vô nhân đạo, nó đang đẩy thế giới chúng ta sống tới vực thảm hủy diệt! Đức Thánh Cha đã kết thúc một ngày dầy đặc các biến cố thăm viếng của ngài tại Hiroshima rằng: Nền hòa bình thực sự chỉ có thể có được trong một thế giới không có vũ trang! Hòa bình phải là thành quả của công lý, phát triển, đoàn kết, chăm sóc cho ngôi nhà chung của chúng ta và thúc đẩy tới lợi ích chung như chúng ta đã học được từ những bài học lịch sử.

Ước mong vực thẳm của nỗi đau tại Hiroshima và Nagasaki là một lời nhắc nhở liên tục cho chúng ta: nỗi đau được bọc lộ trên khuôn mặt của bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ nổi tiếng được tìm kiếm được từ những tro tàn tại thành phố Nagasaki. Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ trước di ảnh này như Mẹ đang đau khổ nhắc nhở cho các con cái Mẹ một sứ điệp…
 
Diễn từ của Đức Thánh Cha tưởng niệm các nạn nhân bom nguyên tử tại công viên HypoCenter, Nagasaki
J.B. Đặng Minh An dịch
18:02 24/11/2019
Lúc 6:40 sáng Chúa Nhật 24/11, Đức Thánh Cha rời tòa Sứ Thần Tòa Thánh để ra phi trường Haneda của Tokyo đáp máy bay đi Nagasaki, cách đó 1100 cây số.

Trong Thế chiến II, Nagasaki là nơi xảy ra vụ tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, ba ngày sau khi quả bom nguyên tử Little Boy được ném xuống thành phố Hiroshima.

Vào lúc 11:02 A.M., ngày 9 tháng 8 năm 1945, một quả bom nguyên tử đã được ném xuống ngay ngôi nhà thờ chính tòa Urakami. Khối đá nguyên khối màu đen ở trước cửa nhà thờ vẫn còn đó để đánh dấu tâm chấn của vụ nổ.

Gió bụi mịt mù dữ dội, những tia nắng nóng lên tới vài ngàn độ và bức xạ chết người do vụ nổ nghiền nát, đốt cháy và giết chết mọi thứ trong tầm nhìn và làm toàn bộ khu vực này thành một đống đổ nát cằn cỗi.

Khoảng một phần ba thành phố Nagasaki đã bị phá hủy và 150,000 người thiệt mạng hoặc bị thương và vào thời điểm đó. Thêm vào đó, khu vực này sẽ không có thảm thực vật trong 75 năm.

6.7 triệu mét vuông chung quanh ngôi nhà thờ chính tòa bị san bằng thành bình địa.

11,574 ngôi nhà bị đốt cháy hoàn toàn:

1,326 ngôi nhà không cháy nhưng bị sụp đổ.

5,509 ngôi nhà bị hư hỏng nặng:

73,884 người chết ngay lập tức

74,909 người bị thương và chết trong vòng một tháng sau đó.

Tổng cộng có 148,793 người chết ngay lúc đó hoặc chỉ trong vòng một tháng sau.

Điều đáng nói là Urakami, và toàn bộ thành phố Nagasaki, đã từng là một trung tâm Công Giáo ở Nhật Bản trong hơn bốn thế kỷ. Người Công Giáo sống quây quần chung quanh ngôi nhà thờ chính tòa hình thành các xóm đạo để bảo vệ nhau chống lại các cuộc bách hại. Điều này hệt như những gì vẫn thường xảy ra tại Việt Nam.

Chính vì thế, khi quả bom được thả xuống, 8,500 người Công Giáo trong tổng số 12,000 người Công Giáo đã bị giết ngay lập tức.

Tại địa điểm đã bị san thành bình địa trong cuộc tấn công hạt nhân năm 1945 vào Nagasaki, mà từ chuyên môn của giới báo chí gọi là Nagaski Ground Zero, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân đối với đối phương không phải là cách để xây dựng hòa bình và chia sẻ trách nhiệm trong gia đình nhân loại. Đồng thời, ngài cũng nhắc lại cam kết dấn thân cổ vũ cho hòa bình một cách không mệt mỏi của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Nơi này khiến chúng ta nhận thức sâu sắc về nỗi đau và nỗi kinh hoàng mà con người chúng ta có khả năng gây ra cho nhau. Cây thánh giá bị hư hại và bức tượng Đức Mẹ được phát hiện gần đây trong Nhà thờ Nagasaki nhắc nhở chúng ta một lần nữa về nỗi kinh hoàng không thể kể xiết trong xác thịt của các nạn nhân và gia đình họ trong vụ đánh bom.

Một trong những khát khao sâu thẳm nhất trong trái tim con người là an ninh, hòa bình và ổn định. Việc sở hữu hạt nhân và các vũ khí hủy diệt hàng loạt khác không phải là câu trả lời cho mong muốn này; thực ra chúng xem ra luôn luôn cản trở những ước vọng ấy. Thế giới của chúng ta được đánh dấu bởi một sự ngụy biện gian trá trong đó người ta cố gắng bảo vệ và bảo đảm sự ổn định và hòa bình thông qua cảm giác an toàn giả tạo được nuôi dưỡng bởi một tâm lý sợ hãi và ngờ vực, mà chung cuộc là tạo ra các mối quan hệ độc hại giữa các dân tộc và cản trở bất kỳ mọi hình thức đối thoại nào.

Hòa bình và ổn định quốc tế không phù hợp với các nỗ lực được xây dựng trên nỗi sợ hủy diệt lẫn nhau hoặc mối đe dọa hủy diệt hoàn toàn. Hòa bình và ổn định chỉ có thể đạt được trên cơ sở một nền luân lý liên đới và hợp tác toàn cầu để phục vụ cho một tương lai được định hình bởi sự phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ trách nhiệm trong toàn thể gia đình nhân loại hôm nay và ngày mai.

Tại thành phố này, nơi chứng kiến những hậu quả thảm khốc về nhân đạo và môi trường của một cuộc tấn công hạt nhân, những nỗ lực của chúng ta nhằm lên tiếng chống lại cuộc chạy đua vũ trang sẽ không bao giờ là đủ. Cuộc chạy đua vũ trang lãng phí tài nguyên quý giá có thể được sử dụng tốt hơn để mang lại lợi ích cho sự phát triển toàn diện của các dân tộc và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Trong một thế giới nơi hàng triệu trẻ em và gia đình sống trong những điều kiện vô nhân đạo, số tiền bị lãng phí và lợi nhuận tạo ra từ việc sản xuất, nâng cấp, bảo trì và bán các loại vũ khí ngày càng có khả năng hủy diệt khốc liệt hơn bao giờ là một sự báng bổ kêu thấu tới trời cao.

Một thế giới hòa bình, không có vũ khí hạt nhân, là khát vọng của hàng triệu những người nam nữ ở khắp mọi nơi. Để biến lý tưởng này thành hiện thực đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người: cá nhân, cộng đồng tôn giáo và xã hội dân sự, các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và cả những quốc gia không có, các thành phần quân đội và tư nhân và các tổ chức quốc tế. Phản ứng của chúng ta đối với mối đe dọa của vũ khí hạt nhân phải được liên kết và phối hợp, phải được linh hứng từ những nỗ lực gian khổ và không ngừng nghỉ để xây dựng niềm tin lẫn nhau, và do đó vượt qua được tình trạng mất lòng tin hiện nay. Năm 1963, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, viết trong thông điệp Pacem in Terris – nghĩa là Hòa bình tại thế, rằng bên cạnh việc cổ vũ cho việc cấm vũ khí nguyên tử (xem số 112), hòa bình quốc tế đích thực và lâu dài không thể dựa vào sự cân bằng các thế lực quân sự, nhưng phải dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau (xem số 113).

Cần phải phá vỡ bầu bầu khí mất lòng tin có nguy cơ dẫn đến việc loại bỏ các khuôn khổ kiểm soát vũ khí quốc tế. Chúng ta đang chứng kiến một sự xói mòn trong quan hệ đa phương, nghiêm trọng hơn bao giờ hết, trước sự phát triển của các hình thức công nghệ quân sự mới. Diễn biến này xem ra rất phi lý trong bối cảnh kết nối ngày nay; nó tiêu biểu cho một tình huống khẩn cấp đòi hỏi sự chú ý và dấn thân của tất cả các nhà lãnh đạo.

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo luôn cam kết thúc đẩy hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia. Đây là một nghĩa vụ mà Giáo Hội cảm thấy bị ràng buộc trước mặt Chúa và trước mọi người nam nữ trong thế giới của chúng ta. Chúng ta không được trở nên mệt mỏi khi hoạt động để hỗ trợ các công cụ pháp lý quốc tế chính yếu nhằm giải trừ và không phổ biến vũ khí hạt nhân, bao gồm Hiệp ước cấm hoàn toàn các vũ khí hạt nhân. Tháng 7 năm ngoái, các giám mục Nhật Bản đã đưa ra một lời kêu gọi bãi bỏ vũ khí hạt nhân, và mỗi tháng 8, Giáo Hội tại Nhật tổ chức một buổi cầu nguyện mười ngày vì hòa bình. Cầu xin cho lời cầu nguyện, và các hoạt động không mệt mỏi trong việc hỗ trợ các hiệp định và quyết tâm theo đuổi đối thoại trở nên “vũ khí” mạnh nhất trong đó chúng ta đặt trọn niềm tin, và là nguồn cảm hứng cho những nỗ lực của chúng ta nhằm xây dựng một thế giới công bằng và đoàn kết có thể cung cấp một sự bảo đảm đích thực cho hòa bình.

Tôi tin rằng một thế giới không có vũ khí hạt nhân là có thể và cần thiết, tôi yêu cầu các nhà lãnh đạo chính trị đừng quên rằng những vũ khí này không thể bảo vệ chúng ta khỏi các mối đe dọa hiện tại đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chúng ta cần suy ngẫm về tác động thảm khốc của việc triển khai chúng, đặc biệt là từ quan điểm nhân đạo và môi trường và bác bỏ việc đề cao bầu không khí sợ hãi, ngờ vực và thù địch do các học thuyết hạt nhân đưa ra. Tình trạng hiện tại của hành tinh chúng ta đòi hỏi phải có sự suy tư nghiêm túc về phương cách các tài nguyên của trái đất có thể được sử dụng trong bối cảnh triển khai phức tạp và khó khăn Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, nhằm đạt được mục tiêu phát triển con người tích hợp. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã đề nghị rất nhiều vào năm 1964, khi ngài đề xuất thành lập Quỹ toàn cầu để hỗ trợ cho những người nghèo nhất, được rút một phần từ chi phí quân sự (x. Tuyên bố với các nhà báo, ngày 4 tháng 12 năm 1964; thông điệp Populorum Progressio – Phát triển các dân tộc, số 51).

Tất cả điều này nhất thiết đòi hỏi phải tạo ra các công cụ nhằm bảo đảm sự phát triển tin cậy và hỗ tương; và đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải có khả năng ủng hộ các công cụ này trong những trường hợp cần thiết. Đó là một nhiệm vụ có liên quan và thách thức mỗi người chúng ta. Không ai có thể thờ ơ trước nỗi đau của hàng triệu những người nam nữ mà những đau khổ của họ làm nhức nhối lương tâm chúng ta ngày nay. Không ai có thể bịt tai trước những lời cầu xin của anh chị em đang quẫn bách của chúng ta. Không ai có thể nhắm mắt làm ngơ trước sự hủy hoại gây ra bởi một nền văn hóa không có khả năng đối thoại. Tôi xin anh chị em tham gia trong lời cầu nguyện mỗi ngày cho sự hoán cải tâm hồn và cho chiến thắng của một nền văn hóa sự sống, hòa giải và huynh đệ. Đó là một tình huynh đệ có thể nhận ra và tôn trọng sự đa dạng trong cuộc tìm kiếm một vận mệnh chung.

Tôi biết rằng một số người ở đây không phải là người Công Giáo, nhưng tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều có thể xem lời cầu nguyện cho hòa bình của Thánh Phanxicô thành Assisi là lời cầu nguyện của mình:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù,
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hoà vào nơi tranh chấp,
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Đức Phanxicô ca ngợi các tử đạo Nhật tại đền thánh các ngài ở Nagasaki
Vũ Văn An
20:25 24/11/2019
Theo Vatican News, giải giới hạch nhân và phúc tử đạo là hai chủ đề bàng bạc trong ngày thứ hai của Đức Phanxicô trên đất Nhật. Ngài bay tới hai thành phố Nagasaki và Hiroshima, vượt hơn 1,500 cây số. Mưa như trút đã đã đón rước ngài tại thành phố nơi các Kitô hữu đã ẩn núp suốt trong 250 năm!

Và cũng chính ở Nagasaki, Thánh Phanxicô Xavier đã tìm thấy mảnh đất mầu mỡ nhất cho hạt giống Kitô giáo nẩy mẩm sinh hoa kết trái năm 1550. Ngài làm cho hàng ngàn người trở lại Đạo Công Giáo chỉ trong vòng vài tháng. Cũng chính những người tân tòng này phải đi hầm trú khi hàng loạt cuộc bách hại xẩy ra khiến họ phải bỏ trốn để duy trì đức tin, họ được mệnh danh là “các Kitô hữu hầm trú”. Như một hậu duệ của họ phát biểu, di sản của họ là hồng ân đức tin.

Chính tại đây, bất chấp mưa rơi, Đức Giáo Hoàng đã lớn tiếng ca ngợi 26 Kitô hữu đó, những người đã cương quyết không từ bỏ đức tin dù phải chết:

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em buổi sáng!

Tôi rất mong chờ thời điểm này. Tôi đến đây như một người hành hương để cầu nguyện, để củng cố anh chị em trong đức tin, và để được củng cố bởi đức tin của những anh chị em này, những người, bằng chứng tá và lòng tận tụy của họ, đã thắp sáng đường đi của chúng ta. Tôi cảm ơn tất cả anh chị em đã chào đón tôi nồng nhiệt.



Ngôi đền này mang hình ảnh và tên của các Kitô hữu đã tử đạo lâu rồi, bắt đầu với Thánh Phaolô Miki và các bạn đồng hành của ngài vào ngày 5 tháng 2 năm 1597, và một loạt các vị tử đạo khác đã thánh hiến mặt đất này bằng sự đau khổ và cái chết của họ.

Tuy nhiên, ngôi đền này không chỉ nói về cái chết; nó cũng nói về chiến thắng của sự sống trên cái chết. Thánh Gioan Phaolô II đã xem nơi này không chỉ đơn giản là đồi tử đạo mà là Đồi Bát Phúc thực sự, nơi trái tim của chúng ta có thể được khuấy động bởi chứng tá của những người đàn ông và đàn bà lòng đầy Chúa Thánh Thần và được giải thoát khỏi mọi ích kỷ, tự mãn và kiêu căng (x. Gaudete et Exsultate, 65). Vì ở đây, ánh sáng Tin mừng rạng chiếu vào tình yêu chiến thắng bách hại và gươm giáo.

Ngôi đền này trên hết là một tượng đài Phục sinh, vì nó công bố rằng lời cuối cùng - bất chấp mọi bằng chứng ngược lại - không thuộc về cái chết mà thuộc về sự sống. Số phận của chúng ta không nằm trong cái chết mà trong sự sống viên mãn. Đây là thông điệp mà các vị tử đạo đã công bố. Vâng, ở đây chúng ta thấy bóng tối của cái chết và việc tử đạo, nhưng cũng là ánh sáng của sự phục sinh, khi máu của các vị tử đạo trở thành hạt giống của đời sống mới mà Chúa Giêsu muốn ban cho chúng ta. Các chứng tá của họ củng cố chúng ta trong đức tin và giúp chúng ta đổi mới lòng tận tụy và cam kết của chúng ta đối với việc làm môn đệ truyền giáo vốn cố gắng tạo ra một nền văn hóa có khả năng bảo vệ và bênh vực mọi sự sống qua việc hàng ngày âm thầm phục vụ mọi người, nhất là những người có nhu cầu lớn nhất.



Tôi đến tượng đài tử đạo này để tỏ lòng tôn kính những người đàn ông và đàn bà thánh thiện này. Nhưng tôi cũng đến một cách khiêm nhường, như một tu sĩ Dòng Tên trẻ tuổi từ “tận cùng trái đất”, tìm thấy nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong câu chuyện của những nhà truyền giáo đầu tiên và các vị tử đạo Nhật Bản. Mong chúng ta đừng bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của họ! Có thể nó không còn là một di tích vinh hiển của quá khứ, được lưu giữ và tôn kính trong một viện bảo tàng, mà đúng hơn là một ký ức sống động, một nguồn cảm hứng cho các công trình tông đồ và là một thúc đẩy việc truyền giảng tin mừng đổi mới ở vùng đất này. Mong sao Giáo hội tại Nhật Bản thời ta, giữa mọi khó khăn và dấu hiệu hy vọng của nó, cảm thấy được kêu gọi để nghe lại mỗi ngày thông điệp của Thánh Phaolô Miki tuyên bố từ trên thập giá, và chia sẻ với mọi người đàn ông và đàn bà niềm vui và vẻ đẹp của Tin mừng vốn là đường sự thật và sự sống (x. Ga 14: 6). Mong sao chúng ta hàng ngày được giải thoát khỏi bất cứ điều gì đè nặng chúng ta và ngăn cản chúng ta tiến bước trong khiêm nhường, tự do, mạnh bạo và bác ái.

Anh chị em thân mến, ở nơi này, chúng ta hợp nhất với những Kitô hữu trên khắp thế giới, trong thời đại của chúng ta, đang chịu tử đạo vì đức tin. Họ là những vị tử đạo của thế kỷ hai mươi mốt và việc làm chứng của họ mời gọi chúng ta lên đường một cách can đảm theo đường Bát Phúc. Chúng ta hãy cầu nguyện với họ và cho họ. Chúng ta hãy lên tiếng và nhấn mạnh rằng tự do tôn giáo phải được bảo đảm cho mọi người ở mọi nơi trên thế giới của chúng ta. Chúng ta cũng hãy lên án sự thao túng của các tôn giáo qua “các chính sách của chủ nghĩa cực đoan và chia rẽ, bởi các hệ thống tìm lợi nhuận không hạn chế hoặc bởi các khuynh hướng ý thức hệ đầy hận thù luôn thao túng các hành động và tương lai của mọi người nam nữ” (Văn kiện về Tình Huynh Đệ Nhân Bản, Abu Dhabi, 4 tháng 2 năm 2019).

Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ, Nữ vương các Thánh Tử đạo, Thánh Phaolô Miki và mọi bạn đồng hành của ngài, những người suốt trong lịch sử đã tuyên xưng bằng cuộc sống của họ các kỳ công của Chúa, cầu nguyện cho đất nước của anh chị em và cho cả Giáo hội. Ước mong chứng tá của họ đánh thức và duy trì trong mọi người chúng ta niềm vui của việc truyền giáo.
 
Đức Phanxicô nói với các nạn nhân của thảm hoạ ba mặt năm 2011: chúng ta là thành phần của nhau
Vũ Văn An
22:51 24/11/2019
Theo tin Vatican News, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, sáng thứ Hai, 25 tháng 11, đã có buổi gặp gỡ với các nạn nhân của động đất, sóng thần và tai nạn hạch nhân đã tàn phá Fukushima năm 2011.



Các nạn nhân sống sót đã chia sẻ các trải nghiệm của họ. Giáo viên mẫu giáo Toshito Kato, người mà thị trấn của bà bị cuốn đi bởi trận sóng thần, nói rằng bất chấp tai họa, “tôi đã nhận được nhiều điều hơn là mất mát”. Bà nói đến ‘tầm quan trọng của việc dạy các em sự qúy giá của sự sống”.

Tokuun Tanaka, một tu sĩ Phật Giáo, người mà ngôi chùa của ngài không xa nhà máy điện lực nguyên tử Fukushima bao nhiêu, hỏi rằng chúng ta có thể đáp ứng ra sao trước các thiên tai; ngài bảo “suy niệm trung thực và khiêm nhu, hiểu biết sâu sắc, và các quyết định về những gì phải làm đều cần thiết”. Ngài nhấn mạnh “Điều quan trọng hơn cả là lắng nghe tiếng nói của trái đất”.

Matsuki Kamoshita 8 tuổi khi em và gia đình di tản vào Tokyo sau tai nạn hạch nhân ở Fukushima. Em nói người lớn nên nói sự thật về các hậu quả của ô nhiễm phóng xạ.

Em yêu cầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô cùng cầu nguyện “để chúng ta đánh giá cao nỗi đau của nhau và yêu thương người lân cận của chúng ta”. Em yêu cầu “xin vui lòng cầu nguyện với chúng tôi để người khắp thế giới chịu làm việc để tận diệt cơn đe dọa phải hứng chịu phóng xạ trong tương lai”.

Hy vọng một tương lai đẹp đẽ hơn

Sau khi nghe chứng từ của các nạn nhân sống sót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cám ơn họ đã phát biểu “đau buồn”, nhưng cũng cả “hy vọng của họ nữa về một tương lai đẹp đẽ hơn”.

Ngài yêu cầu dành một phút im lặng lúc bắt đầu bài diễn văn của ngài “để những lời nói đầu tiên của chúng ta là lời cầu nguyện” cho những người đã chết, cho gia đình họ và cho những người vẫn còn mất tích. “Xin cho lời cầu nguyện này kết hợp chúng ta và đem lại cho chúng ta lòng can đảm để nhìn tới một cách đầy hy vọng”.

Biết ơn sự trợ giúp

Đức Thánh Cha cám ơn những người đã đáp ứng một cách quảng đại để trợ giúp các nạn nhân, cả bằng lời cầu nguyện lẫn các trợ giúp vật chất và tài chánh.

Ngài nói “Chúng ta đừng nên để cho hành động này bị mất hút với thời gian hay biến mất sau cơn sốc buổi đầu, đúng hơn, chúng ta nên tiếp tục nâng đỡ”. Ngài kêu gọi “mọi người thiện chí để các nạn nhân của các thảm họa này tiếp tục nhận được sự trợ giúp rất cần”.



“Không ai tự mình tái thiết được”

Ngài nhấn mạnh nhu cầu phải có những nhu yếu phẩm căn bản nhất trong đó có thực phẩm, áo quần và chỗ ở. Ngài nói việc này “đòi cảm nhận được tình liên đới và sự trợ giúp của cả cộng đồng. Không ai ‘tái thiết’tự mình được; không ai một mình có thể bắt đầu lại được”.

Sau khi ca ngợi Nhật Bản đã chứng tỏ “một dân tộc có thể đoàn kết ra sao trong tình liên đới, kiên nhẫn, kiên trì, và mềm dẻo”, ngài mời cử tọa “tiến từng bước, mỗi ngày, đề xây dựng một tương lai dựa trên tình liên đới và cam kết lẫn nhau”.

Một nền văn hóa có khả năng chống lại sự dửng dưng

Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời một câu hỏi của Tokuun về việc phải đáp ứng ra sao các vấn đề lớn như chiến tranh, tỵ nạn, thực phẩm, bất bình đẳng kinh tế, và các thách đố môi trường, nói rằng chúng ta không thể đối đầu với các vấn đề này cách tách biệt được.

Chúng ta phải nhìn nhận rằng các thách đố này liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Nhưng, ngài nói “điều quan trọng hơn cả ... là tiến triển trong việc xây dựng một tương lai có khả năng đánh phá được sự dửng dưng”. Theo ngài, “chúng ta phả làm việc với nhau để phát huy ý thức này: nếu một thành viên trong gia đình chúng ta đau, mọi người chúng ta đều đau. Hiện tượng liên kết qua lại với nhau sẽ không diễn ra trừ khi chúng ta vun sới đức khôn ngoan của việc ở cùng nhau”.

Bãi bỏ năng lực nguyên tử

Suy tư cách đặc biệt về tai nạn của nhà máy năng lực nguyên tử ở Fukushima, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngoài các quan tâm về khoa học và y khoa, “cũng còn thách thức to lớn về việc phục hồi cơ cấu xã hội”. Ngài nói, việc này nêu lên vấn đề đáng lo ngại về việc tiếp tục sử dụng năng lực nguyên tử; và ngài nhận định rằng các Giám Mục Nhật Bản kêu gọi bãi bỏ các nhà máy năng lực nguyên tử.

Ngài nói rằng trong một thời đại “người ta bị cám dỗ biến tiến bộ kỹ thuật thành thước đo tiến bộ nhân bản”, điều quan trọng là dừng lại và suy tư về điều “chúng ta là ai... và chúng ta muốn trở nên loại người nào”.

Nẻo đường mới cho tương lai

Khi nghĩ tới “tương lai ngôi nhà chung của chúng ta”, ngài nói, “chúng ta cần hiểu ra rằng chúng ta không thể đưa ra các quyết định hoàn toàn vị kỷ, và chúng ta có trách nhiệm lớn đối với tương lai”. Ngài nói rằng các chứng từ của các nạn nhân sống sót nhắc nhở chúng ta việc cần phải tìm ra một nẻo đường mới dẫn tới tương lai, một nẻo đường bắt nguồn từ việc tôn trọng mỗi người và thế giới tự nhiên”.

Nắm tay nhau, hợp nhất trong lòng

Kết thúc bài diễn văn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng “trong công trình phục hồi và tái thiết liên tục sau tai họa ba mặt, nhiều bàn tay phải nắm lấy nhau và nhiều cõi lòng phải hợp nhất như một” để các nạn nhân của thảm họa “được trợ giúp và biết họ không bị lãng quên”.

Một lần nữa, khi cám ơn mọi người “đã cố gắng làm nhẹ gánh nặng cho các nạn nhân”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bày tỏ niềm hy vọng của ngài là “lòng cảm thương sẽ là nèo đường giúp mọi người tìm thấy hy vọng, ổn định, và an toàn cho tương lai”. Và ngài cầu nguyện “Xin Thiên Chúa ban cho mọi người qúy vị và mọi người thân yêu của qúy vị các phúc lành khôn ngoan, sức mạnh và hòa bình của Người”.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Đoàn KiTô Vua Lakemba Sydney Mừng Kính Bổn Mạng
Diệp Hải Dung
19:14 24/11/2019
Chiều Chúa Nhật 24/11/2019 các Đoàn thể, Quan Khách và các Giáo đoàn bạn đã đến nhà thờ St. Therese Lakemba Sydney tham dự Lễ mừng kính Đức KiTô Vua Quan Thầy của Giáo Đoàn, Ca đoàn và Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và Lòng Chúa Thương Xót Lakemba Sydney.

Tất cả mọi người tập trung trong khuôn viên trường học nhà thờ đồng thời dâng lời kinh nguyện trước kiệu Thánh tượng Chúa KiTô Vua và Cha Paul Văn Chi xông hương kiệu Thánh tượng sau đó Thánh Tượng rước vào nhà thờ. Cuộc kiệu rất long trọng và trang nghiêm, đi đầu Thánh Giá nến cao, cờ Úc Việt, cờ Hội Thánh, Thiếu Nhi Thánh Thể, Legio Mariae, Phong Trào Lòng Chúa Thương Xót, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, quan khách và Giáo dân.

Xem Hình

Khi Thánh tượng Chúa KiTô Vua được rước vào nhà thờ và an vị trên cung thánh. Cha Paul Văn Chi chào mừng mọi người đồng thời Cha giới thiệu qúi Cha Canut Nguyễn Thái Hoạch và Cha Phêrô Hà Thanh Hải Chính xứ Lakemba cùng hiện diện trong Thánh lễ mừng Bổn Mạng của Giáo Đoàn hôm nay

Sau nghi thức cung nghinh Phúc Âm do các em Thiếu Nhi Thánh Thể phụ trách. Trong bài giảng Cha Paul Văn Chi nói cả thế giới hôm nay mừng Lễ Chúa KiTô Là Vua, Vua vũ trụ, Vua gia đình, Vua cuộc đời và đặc biệt là Vua Giáo Đoàn Lakemba đã chọn Ngài làm Bổn Mạng và cũng chính ngày 11/11/1925 Đức Giáo Hoàng Pio XI đã long trọng công bố toàn thế giới thiết lập mừng Lễ Đức KiTô Là Vua…Lạy Chúa KiTô Là Vua ! Giáo đoàn chúng con chọn Chúa là Quân Thầy của Giáo Đoàn chúng con, nguyện xin Chúa ban an bình cho Giáo Đoàn cho Gia Đình và trong mỗi người chúng con…

Trước khi kết thúc Thánh lễ, Cha Chính xứ Hà Thanh Hải ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo Đoàn Lakemba. Kế tiếp anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo đoàn, Ca đoàn, Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và Lòng Chúa Thương Xó, đặc biệt cám ơn quý thành viên Ban Mục Vụ Giáo Vu Giáo đoàn, đã góp sức đồng hành với những sinh hoạt trong Giáo đoàn và Cộng Đồng mỗi ngày thăng tiến hơn.

Sau cùng anh Nguyễn Ngọc Sinh Trưởng Ban Mục Vụ Giáo Đoàn Lakemba lên ngỏ lời cám ơn quý Cha, qúy Sơ, quý Quan Khách và mọi người đã đến tham dự Thánh lễ mừng kính Bổn Mạng Giáo Đoàn. Đặc biệt anh cũng cám ơn quý ân nhân đã góp công góp của giúp cho Giáo Đoàn có đủ phương tiện tổ chức mừng Bổn Mạng được tốt đẹp. Sau cùng ông cám ơn Ca đoàn đã giúp cho Thánh lễ thêm phần sốt sắng và Ban Tây Nhạc Cecilia.

Sau Thánh lễ mọi người cùng ở lại tham dự tiệc liên hoan mừng Bổn Mạng bên sân trường của nhà thờ và thưởng lãm văn nghệ mừng kỷ niệm 35 năm của Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể KiTô Vua.

Diệp Hải Dung
 
Đức Cha Mark Edwards dâng lễ và ban Bí Tích Thêm Sức tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm, Melbourne
Trần Văn Minh
19:59 24/11/2019
Melbourne, Thánh lễ 5 giờ chiều Chúa Nhật 24/11/2019, Lễ Chúa Kitô Vua. Tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm, Ca Đoàn Cecilia chuyên phụ trách thánh lễ 5 giờ chiều Chúa Nhật đã hân hoan mừng bổn mạng của ca đoàn nhân dịp mừng kính Thánh nữ Cecilia vào Thứ Sáu tuần trước. Cũng nhân dịp mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua, 14 em trong Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm cũng được vinh dự đón nhận Bí Tích Thêm Sức.
Đức Cha ban phép Bí Tich Thêm Sức


Xem hình

Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Mark Edwards, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo phận Melbourne chủ tế, cùng với Linh mục Giuse Trần Ngọc Tân, Quản nhiệm Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm và Linh mục Trần Minh Hiếu SSS đồng tế. Đức Cha đã đến cộng đoàn rất sớm để gặp gỡ và cầu nguyện chung với các em trước khi ban phép thêm sức cho các em.

Trong phần chia sẻ lời Chúa, Đức Cha đã chia sẻ bằng Anh Ngữ và được Linh mục quản nhiệm chuyển ngữ với nội dung rút gọn: Khi chúng ta còn trẻ, đời rất nhiều ước mơ cho tương lai, nào là muốn trở thành bác sỹ, kỹ sư, nha sỹ, giáo sư hay khoa học gia. Nhưng mộng ước không phải lúc nào cũng thành hiện thực, vì thế, chúng ta phải cần thêm sức mạnh, nghị lực để đạt được những mộng ước ấy. Trong đời sống đạo, chúng ta cũng xin được đón nhận ơn Chúa Thánh Thần thêm sức và ban cho chúng ta những ơn cần thiết để giúp cho đời sống đức tin thêm vững vàng hơn.

Sau khi cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống cho mọi người, Đức Cha đã ban Bí Tích Thêm Sức cho 14 em trong cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm trong niềm vui của các em và toàn thể gia đình các em, đang hiện diện trong nhà thờ.

Thánh lễ rất long trọng cũng một phần có sự đóng góp lời ca, tiếng hát, tiếng đàn điêu luyện của Ca đoàn Cecilia, một trong bốn ca đoàn nòng cốt và gắn bó lâu đời của Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm. Với thời gian phục vụ lâu dài và rất đoàn kết đã tạo cho các anh chị em ca viên gắn kết với nhau, thân tình như tình anh em trong một gia đình. Giúp ca đoàn ngày thêm trẻ trung hóa để mang những khả năng về ca hát mà Thiên Chúa ban cho họ, để họ phục vụ lại cho cộng đoàn thật rất đáng biểu dương.

Đặc biệt, hôm nay là ngày mà Ca đoàn Cecilia mừng bổn mạng, Thánh Cecilia là một vị thánh trẻ với một tài năng về âm nhạc thiên phú, Ngài đã dùng âm nhạc để vinh danh và làm cho danh Chúa cả sáng. Chính vì thế mà Thánh Nữ đã được rất nhiều các ca đoàn chọn Ngài là vị thánh bổn mạng của ca đoàn mình, trong đó có Ca đoàn Cecilia của Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm.

Cầu chúc cho các anh chị em trong ca đoàn luôn được bình an, mạnh khỏe để dùng những khả năng sẵn có của mình để phục vụ Thiên Chúa qua các thánh lễ chiều Chúa Nhật của cộng đoàn. Chúc Ca đoàn Cecilia luôn thăng tiến trong tinh thần đoàn kết, yêu thương và phục vụ.
 
Văn Hóa
Lễ Kitô Vua : Giờ Đăng Quang Rất Lạ
Sơn Ca Linh
09:52 24/11/2019
“Nước tôi không thuộc về thế gian nầy…Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi sinh ra và đã đến thế gian nầy vì điều nầy: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía của sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 19,36-37).

Sáng hôm ấy,
Mượn tạm ngai toà Tổng trấn,
với chiếc áo choàng đỏ khinh miệt của đám quân binh,
Một triều thiên gai, một cây sậy, một đám ô hợp vô tình,
Đã đủ cho “Giờ Đăng Quang” của vị Vua Cứu Thế!

Nếu quả là Vua, mang “chân mệnh vương đế”,
Sao tháng năm dài lại ẩn khuất giữa mạt hạng cùng đinh?
Làng Na-da-rét, kiếp thợ mộc nghèo, chỗ nào để tôn vinh?
Thêm nhóm bề tôi, lũ dân chài, bọn lầm than dang dở…

Đúng là Vua của bọn cùi, phường trôi sông lạc chợ…
Vua của những chàng mù, què, câm, điếc thêm cả gái làng chơi….
Vua của đôi chân trần, ngủ bờ bụi, nhịn đói cầm hơi,
Chẳng tỵ hiềm bọn phần thu chơi luôn chén thù chén tạc…

Mới có ba năm mà tiếng đồn vang dội từ nam chí bắc,
Vua mang tiếng chạnh lòng trước mẹ goá con côi.
Hễ gặp ông vua nầy, bọn nghèo hèn, rách nát, tanh hôi,
Như tìm được chỗ dựa yên bình và niềm vui giải thoát…

Chuyện người ta kháo láo về Vua nhiều không kể xiết,
Nhưng thế gian mà, vẫn chuộng ngai vàng, lọng bạc, quyền uy.
Một tên tội đồ, tấm thân nát, đồ phế thải vứt đi,
Ai mà nhận, mà tin, Vua là Đấng chịu khổ hình thập giá!

Tưởng đâu chuyện cũ, chuyện của “Giờ đăng quang rất lạ”,
Hai ngàn năm rồi lại cứ sống mãi với thời gian.
Và cái anh “trộm lành” của buổi chiều thứ Sáu lầm than,
đã trở thành “người công dân đầu tiên” của Nước Trời vinh phúc.

Thì ra, chuyện của Chúa Trời, những trang dài cứu độ,
Riêng chuyện “Làm Vua” của Người Con Một dấu yêu,
Giờ đăng quang, bàn thờ thập giá loang máu một chiều,
tái diễn, khắp nơi, mọi thời, trên muôn nẻo đường dương thế.

Máu ở Syria, máu ở Hồng Kông…, đồi Canvê trải qua muôn ngàn thế hệ,
“Giờ của Vua Trời”, của chứng nhân công bình, sự thật, tình yêu.
“Giờ” của những con người bị tù đày, bách hại, thủ tiêu…
Nhưng cũng từ đó, “Giờ” của Vương quốc Nước Trời đã điểm!

Sơn Ca Linh (CN Kitô Vua 2019)
 
Hùng Sử Ca Tử Đạo Việt Nam
Đinh Văn Tiến Hùng
19:09 24/11/2019
*Hiệp thông cùng Cộng đoàn CGVN Mừng Đại Lễ Kính 117 Thánh Tử Đạo VN
Tại Nhà thờ Chính tòa CHÚA KITÔ Giáo phận Orange ngày 23/11/19.


*”Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thày mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ mọi điều xấu. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em Trên Trời lớn lao.” ( Mt.5: 10- 12 & Lc.6: 22 )

Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Đã mở đầu vang dội Bản Hùng Ca,
Ba trăm năm mươi năm không xóa nhòa,
Ấn tích Anh Hùng Tử Đạo còn đó,
Gông cùm, tra tấn, đầu rơi, máu đổ,
Cho hoa muôn màu trổ đẹp hôm nay,
Giáo Hội Việt Nam hy vọng tràn đầy,
Vươn cao mãi trên bầu trời oanh liệt.

Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Lời ngợi ca vang vọng khắp năm châu,
Tiếng Thánh Ca tràn ngập cả tinh cầu,
Của hơn Một Trăm Ngàn Vị Tử Đạo,
Nhận cái chết lòng không hề than oán,
Để chứng minh một Đạo Giáo Tình Yêu,
Dâng cuộc đời làm của Lễ Toàn Thiêu,
Theo gương Chúa Hiến Mình trên Thập Giá.

Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Hùng Sử Thi bất diệt rọi ngàn sau,
Xuyên suốt qua bốn thế kỷ ngẩng đầu,
Không khiếp nhược trước xích xiềng gươm giáo,
Máu tuôn chảy giữa pháp trường tàn bạo,
Tưới nẩy mầm bao hạt giống Đức Tin,
Chuông báo tử chính là chuông Phục Sinh,
Nơi hàng triệu con tim đang thổn thức.

Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Nét oai hùng rạng rỡ vẫn còn đây,
Cả địa cầu lòng ngưỡng mộ dâng đầy,
Vinh Hiển Thánh Một Trăm Mười Tám Vị,
Những Anh Hùng mang tâm hồn tuyệt mỹ,
Xin cúi đầu kính bái và cậy trông,
Phù trợ con yêu cuộc sống Vĩnh Hằng,
Như Các Ngài hân hoan vào Đất Hứa.

Anh hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Ngày trọng đại Giáo đô thật từng bừng,
Bao triệu con tim phấn khởi reo mừng,
Đã đọng lại tâm hồn đầy kỷ niệm,
Ba mươi năm in dấu một sự kiện,
Chứng minh hào hùng cho khắp năm châu,
Việt Nam nhỏ bé cương quyết ngẩng đầu,
Phấn khởi theo chân các Vị Tử Đạo.


Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam ngời sáng,
Đã mở đầu vang dội Bản Hùng Ca,
Ba trăm năm mươi năm không xóa nhòa,
Đây Sở Kiện bảo tàng còn ghi dấu,
Anh Hùng Tử Đạo muôn đời khoe sắc,
Giáo Hội Việt bao biến cố xoay vần,
Vẫn nở hoa thành Tám Triệu Giáo Dân,
Cùng đón nhận Hồng Ân mừng Chư Thánh.


*Lời nguyện :
Lạy Chúa ! Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân và mẫu gương cho chúng con noi theo.
Xin Chúa nhận lời Các Ngài chuyển cầu ban cho chúng con ơn trung thành can đảm, để sống là những chứng nhân cho Chúa trong thời đại và xã hội Việt Nam ngày nay- Amen.

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Tịnh Không/Tranquil
Robert Helfman
21:56 24/11/2019
TỊNH KHÔNG/TRANQUIL
Ảnh của Robert Helfman

Một mình mây nước mênh mông
Tâm hiền trí cởi tịnh không đất trời.
(bt)
 
VietCatholic TV
LIVE- Trực tiếp truyền hình cuộc gặp gỡ vì hòa bình tại Hiroshima
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
00:28 24/11/2019
 
LIVE: ĐTC nói gì với những người một sớm một chiều mất hết tất cả qua 3 đại họa năm 2011
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:28 24/11/2019
 
Bài giảng của Đức Thánh Cha tại Nagasaki về người trộm lành hoán cải giữa đường biên cuối cùng cuộc đời
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:11 24/11/2019
"Lạy Chúa Giêsu, hãy nhớ đến tôi khi Ngài vào Vương quốc của Ngài" (Lc 23:42). Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ này, chúng ta kết hợp tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của người trộm lành, bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu, đã nhận ra Người và tuyên bố Người là vua. Ở đó, tại thời điểm ít chiến thắng và vinh quang hơn, giữa những tiếng kêu gào nhạo báng và nhục mạ, tên cướp đã có thể lên tiếng và thực hiện lời tuyên xưng đức tin của mình. Đó là những lời cuối cùng Chúa Giêsu nghe được và đáp lại, đây là những lời cuối cùng mà Chúa Giêsu nói với anh ta trước khi phó mình cho Cha Người: "Ta cho con hay: hôm nay, con sẽ ở trên Thiên đường với Ta" (Lc 23:43). Quá khứ quanh co của kẻ trộm, trong một khoảnh khắc, dường như bỗng nhận được một ý nghĩa mới: đồng hành sát cạnh nỗi thống khổ của Chúa; và trong khoảnh khắc này, nó chỉ chứng thực cuộc sống của Chúa: cung hiến sự cứu rỗi mọi lúc và mọi nơi. Đồi Calvariô nơi rối loạn và bất công, trong đó sự bất lực và hiểu lầm gặp nhau, kèm theo những lời cằn nhằn và rỉ tai thờ ơ biện minh cho những kẻ nhạo báng liên tiếp dưới chân người vô tội, nhờ thái độ của kẻ trộm lành, trở thành lời hy vọng cho toàn thể nhân loại. Những lời nhạo báng và tiếng la hét ''hãy tự cứu mình đi” về phiá người vô tội đang đau khổ không phải là những lời cuối cùng; trái lại, chúng làm nổi lên tiếng nói của những người tự để trái tim mình được đánh động và chọn lòng cảm thương làm phương cách thích hợp để xây dựng lịch sử.

Hôm nay, chúng ta muốn làm mới lại đức tin và cam kết của chúng ta; chúng ta biết lịch sử các thất bại, tội lỗi và giới hạn của chúng ta, giống như kẻ trộm lành, nhưng chúng ta không muốn điều đó xác định hoặc định nghĩa hiện tại và tương lai của chúng ta. Chúng ta biết rằng chúng không phải là hiếm, những lần chúng ta có thể tắm gội trong bầu không khí thuận tiện của tiếng la dễ dãi và thờ ơ kiểu ''hãy tự cứu mình lấy mình đi'' và quên đi ý nghĩa của việc tự nhận lấy trách nhiệm sự đau khổ của nhiều người vô tội. Đất nước này được biết đến như là rất ít, mức độ hủy diệt mà con người nhân bản có khả năng chịu. Đó là lý do tại sao, giống như người trộm lành, chúng ta muốn sống khoảnh khắc này, khoảnh khắc trong đó chúng ta có thể cất tiếng nói để tuyên xưng đức tin của chúng ta bằng cách bảo vệ và phục vụ Chúa, người đau khổ vô tội. Chúng ta muốn đồng hành với Người trong nỗi thống khổ của Người, hỗ trợ Người trong sự cô độc và bị bỏ rơi của Người, và lắng nghe một lần nữa rằng ơn cứu rỗi là lời mà Chúa Cha muốn dành cho tất cả chúng ta: "Hôm nay, con sẽ ở trong Thiên đường với Ta".

Ơn cứu rỗi và sự chắc chắn này, Thánh Paul Miki và bạn đồng hành của ngài đã mạnh dạn làm chứng bằng cuộc sống của họ, giống như hàng ngàn vị tử đạo vốn đặc trưng cho di sản thiêng liêng của anh chị em. Chúng ta muốn lên đường theo vết chân họ, chúng ta muốn theo bước chân của họ để công bố một cách can đảm rằng tình yêu được Chúa Kitô ban tặng và cử hành trên thập giá, có thể chiến thắng mọi loại thù hận, ích kỷ, nhạo báng hoặc trốn tránh ; nó có khả năng chiến thắng mọi bi quan vô bổ hay hạnh phúc hư ảo trốn đàng sau ma túy, mà cuối cùng làm tê liệt một số hành động hay lựa chọn tốt. Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta rằng: tự tách xa khỏi chân lý là những người, khi biết rằng chúng ta không có kinh thành vĩnh viễn ở đời này, nhưng chúng ta đang tiến về phía kinh thành tương lai, tin rằng vì điều này chúng ta có thể bỏ bê các nhiệm vụ nhân bản của chúng ta, mà không nhận ra rằng chính đức tin mà chúng ta tuyên xưng buộc chúng ta phải đối đầu với chúng một cách khiến chúng phải giải thích và làm chứng cho sự cao quý của ơn gọi của chúng ta” (xem Gaudium et Spes, 43).

Chúng ta tin vào Chúa của người sống. Chúa Kitô đang sống và hoạt động giữa chúng ta, dẫn tất cả chúng ta đến cuộc sống viên mãn. Người đang sống và Người muốn chúng ta sống. Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta (xem Christus vivit, 1). Chúng ta cầu khẩn Người mỗi ngày: Lạy Chúa, xin cho Nước Chúa ngự đến. Và làm như vậy, chúng ta cũng muốn cuộc sống và các hành động của chúng ta trở thành lời ngợi khen. Nếu sứ mệnh làm môn đệ truyền giáo của chúng ta là sứ mệnh trở thành nhân chứng và sứ giả của những gì sẽ đến, chúng ta không thể cam chịu khi đứng trước sự ác và các sự xấu xa, nhưng nó thúc đẩy chúng ta trở thành men bột của Vương quốc Người dù chúng ta ở đâu: trong gia đình, nơi làm việc, ngoài xã hội; nó thúc đẩy chúng ta trở thành cửa hẹp qua đó Chúa Thánh Thần tiếp tục thổi vào niềm hy vọng giữa các dân tộc. Vương quốc thiên đường là đích đến chung của chúng ta, một đích đến không chỉ dành cho ngày mai, mà chúng ta cầu khẩn và bắt đầu sống từ hôm nay, giữa sự thờ ơ biết bao lần bao vây và làm câm lặng các bệnh nhân của chúng ta và những người khuyết tật, những người già và những người bị bỏ rơi, người tị nạn và người lao động nước ngoài; mỗi người trong số họ là một bí tích sống của Chúa Kitô, Vua của chúng ta (xem Mt 25: 31-46), vì "nếu chúng ta thực sự tái khởi hành tử việc chiêm niệm Chúa Kitô, chúng ta phải biết khám phá ra Người trước nhất trong khuôn mặt của những người mà Người vốn muốn đồng hóa với” "(Đức Gioan Phaolô II, Novo Millennio Ineunte, 49).

Hôm đó, trên đồi Canvariô, nhiều tiếng nói im lặng, rất nhiều tiếng khác chế nhạo, chỉ có tiếng nói của người trộm mới có thể cất lên và bảo vệ người đau khổ vô tội; tóm lại, một tuyên xưng đức tin can đảm! Tùy mỗi chúng ta đưa ra quyết định im lặng, chế giễu hoặc nói tiên tri. Anh chị em thân mến, Nagasaki mang trong linh hồn nó một vết thương khó lành, một dấu hiệu đau khổ khôn tả của rất nhiều người vô tội; các nạn nhân gây ra bởi các cuộc chiến của ngày hôm qua, nhưng họ tiếp tục chịu đựng ngày hôm nay, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ ba từng mảnh này. Chúng ta hãy cất tiếng nói ở đây trong một lời cầu nguyện nhất trí, cho tất cả những người ngày nay phải chịu, trong thân xác họ, tội lỗi đang kêu thấu trời này, và để ngày càng có nhiều người, giống như kẻ trộm lành, không thể im lặng hoặc chế giễu, nhưng bằng giọng nói của họ tuyên bố một triều đại của sự thật và công lý, của thánh thiện và ân sủng, của tình yêu và hòa bình (xem Sách lễ Rôma, Kinh Tiền tụng Ngày Lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ).

 
LIVE: Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và giới trẻ Tokyo tại nhà thờ Đức Bà thủ đô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:57 24/11/2019
 
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, 24/11/2019: ĐTC thăm Nagazaki, Nhật Bản
VietCatholic Network
21:41 24/11/2019

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Nghi thức đón tiếp Đức Thánh Cha tại phi trường Haneda, Tokyo, Nhật Bản.

2- Đức Thánh Cha gặp các Giám mục Nhật Bản.

3- Đức TGM Tokyo nhận định về thực trạng Giáo hội và xã hội Nhật Bản.

4- Đức Thánh Cha viếng đài tưởng niệm nạn nhân bom nguyên tử Nagasaki.

5- Kính viếng Đài Các thánh Tử đạo Nhật Bản.

6- Đức Thánh Cha Phanxicô dâng Thánh Lễ tại sân vận động Nagazaki.

7- Đức Thánh Cha gặp các Giám mục Thái Lan và Liên hội đồng Giám mục Á châu.

8- Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: "Quan hệ Việt Nam và Vatican nhiều hứa hẹn mà chưa tiến bước nào”.

9- Bài hát chủ đề chuyến thăm Nhật Bản của Đức Thánh Cha “Bảo Vệ Mọi Sự Sống”.

Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết
 
Diễn từ của ĐTC giữa trời mưa như nhỏ lệ tại đền các vị tử đạo và nơi bom nguyên tử rớt xuống
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:23 24/11/2019
Lúc 6:40 sáng Chúa Nhật 24/11, Đức Thánh Cha rời tòa Sứ Thần Tòa Thánh để ra phi trường Haneda của Tokyo đáp máy bay đi Nagasaki, cách đó 1100 cây số.

Trong Thế chiến II, Nagasaki là nơi xảy ra vụ tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, ba ngày sau khi quả bom nguyên tử Little Boy được ném xuống thành phố Hiroshima.

Vào lúc 11:02 A.M., ngày 9 tháng 8 năm 1945, một quả bom nguyên tử đã được ném xuống ngay ngôi nhà thờ chính tòa Urakami. Khối đá nguyên khối màu đen ở trước cửa nhà thờ vẫn còn đó để đánh dấu tâm chấn của vụ nổ.

Gió bụi mịt mù dữ dội, những tia nắng nóng lên tới vài ngàn độ và bức xạ chết người do vụ nổ nghiền nát, đốt cháy và giết chết mọi thứ trong tầm nhìn và làm toàn bộ khu vực này thành một đống đổ nát cằn cỗi.

Khoảng một phần ba thành phố Nagasaki đã bị phá hủy và 150,000 người thiệt mạng hoặc bị thương và vào thời điểm đó. Thêm vào đó, khu vực này sẽ không có thảm thực vật trong 75 năm.

6.7 triệu mét vuông chung quanh ngôi nhà thờ chính tòa bị san bằng thành bình địa.

11,574 ngôi nhà bị đốt cháy hoàn toàn:

1,326 ngôi nhà không cháy nhưng bị sụp đổ.

5,509 ngôi nhà bị hư hỏng nặng:

73,884 người chết ngay lập tức

74,909 người bị thương và chết trong vòng một tháng sau đó.

Tổng cộng có 148,793 người chết ngay lúc đó hoặc chỉ trong vòng một tháng sau.

Điều đáng nói là Urakami, và toàn bộ thành phố Nagasaki, đã từng là một trung tâm Công Giáo ở Nhật Bản trong hơn bốn thế kỷ. Người Công Giáo sống quây quần chung quanh ngôi nhà thờ chính tòa hình thành các xóm đạo để bảo vệ nhau chống lại các cuộc bách hại. Điều này hệt như những gì vẫn thường xảy ra tại Việt Nam.

Chính vì thế, khi quả bom được thả xuống, 8,500 người Công Giáo trong tổng số 12,000 người Công Giáo đã bị giết ngay lập tức.

Tại địa điểm đã bị san thành bình địa trong cuộc tấn công hạt nhân năm 1945 vào Nagasaki, mà từ chuyên môn của giới báo chí gọi là Nagaski Ground Zero, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân đối với đối phương không phải là cách để xây dựng hòa bình và chia sẻ trách nhiệm trong gia đình nhân loại. Đồng thời, ngài cũng nhắc lại cam kết dấn thân cổ vũ cho hòa bình một cách không mệt mỏi của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Nơi này khiến chúng ta nhận thức sâu sắc về nỗi đau và nỗi kinh hoàng mà con người chúng ta có khả năng gây ra cho nhau. Cây thánh giá bị hư hại và bức tượng Đức Mẹ được phát hiện gần đây trong Nhà thờ Nagasaki nhắc nhở chúng ta một lần nữa về nỗi kinh hoàng không thể kể xiết trong xác thịt của các nạn nhân và gia đình họ trong vụ đánh bom.

Một trong những khát khao sâu thẳm nhất trong trái tim con người là an ninh, hòa bình và ổn định. Việc sở hữu hạt nhân và các vũ khí hủy diệt hàng loạt khác không phải là câu trả lời cho mong muốn này; thực ra chúng xem ra luôn luôn cản trở những ước vọng ấy. Thế giới của chúng ta được đánh dấu bởi một sự ngụy biện gian trá trong đó người ta cố gắng bảo vệ và bảo đảm sự ổn định và hòa bình thông qua cảm giác an toàn giả tạo được nuôi dưỡng bởi một tâm lý sợ hãi và ngờ vực, mà chung cuộc là tạo ra các mối quan hệ độc hại giữa các dân tộc và cản trở bất kỳ mọi hình thức đối thoại nào.

Hòa bình và ổn định quốc tế không phù hợp với các nỗ lực được xây dựng trên nỗi sợ hủy diệt lẫn nhau hoặc mối đe dọa hủy diệt hoàn toàn. Hòa bình và ổn định chỉ có thể đạt được trên cơ sở một nền luân lý liên đới và hợp tác toàn cầu để phục vụ cho một tương lai được định hình bởi sự phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ trách nhiệm trong toàn thể gia đình nhân loại hôm nay và ngày mai.

Tại thành phố này, nơi chứng kiến những hậu quả thảm khốc về nhân đạo và môi trường của một cuộc tấn công hạt nhân, những nỗ lực của chúng ta nhằm lên tiếng chống lại cuộc chạy đua vũ trang sẽ không bao giờ là đủ. Cuộc chạy đua vũ trang lãng phí tài nguyên quý giá có thể được sử dụng tốt hơn để mang lại lợi ích cho sự phát triển toàn diện của các dân tộc và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Trong một thế giới nơi hàng triệu trẻ em và gia đình sống trong những điều kiện vô nhân đạo, số tiền bị lãng phí và lợi nhuận tạo ra từ việc sản xuất, nâng cấp, bảo trì và bán các loại vũ khí ngày càng có khả năng hủy diệt khốc liệt hơn bao giờ là một sự báng bổ kêu thấu tới trời cao.

Một thế giới hòa bình, không có vũ khí hạt nhân, là khát vọng của hàng triệu những người nam nữ ở khắp mọi nơi. Để biến lý tưởng này thành hiện thực đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người: cá nhân, cộng đồng tôn giáo và xã hội dân sự, các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và cả những quốc gia không có, các thành phần quân đội và tư nhân và các tổ chức quốc tế. Phản ứng của chúng ta đối với mối đe dọa của vũ khí hạt nhân phải được liên kết và phối hợp, phải được linh hứng từ những nỗ lực gian khổ và không ngừng nghỉ để xây dựng niềm tin lẫn nhau, và do đó vượt qua được tình trạng mất lòng tin hiện nay. Năm 1963, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, viết trong thông điệp Pacem in Terris – nghĩa là Hòa bình tại thế, rằng bên cạnh việc cổ vũ cho việc cấm vũ khí nguyên tử (xem số 112), hòa bình quốc tế đích thực và lâu dài không thể dựa vào sự cân bằng các thế lực quân sự, nhưng phải dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau (xem số 113).

Cần phải phá vỡ bầu bầu khí mất lòng tin có nguy cơ dẫn đến việc loại bỏ các khuôn khổ kiểm soát vũ khí quốc tế. Chúng ta đang chứng kiến một sự xói mòn trong quan hệ đa phương, nghiêm trọng hơn bao giờ hết, trước sự phát triển của các hình thức công nghệ quân sự mới. Diễn biến này xem ra rất phi lý trong bối cảnh kết nối ngày nay; nó tiêu biểu cho một tình huống khẩn cấp đòi hỏi sự chú ý và dấn thân của tất cả các nhà lãnh đạo.

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo luôn cam kết thúc đẩy hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia. Đây là một nghĩa vụ mà Giáo Hội cảm thấy bị ràng buộc trước mặt Chúa và trước mọi người nam nữ trong thế giới của chúng ta. Chúng ta không được trở nên mệt mỏi khi hoạt động để hỗ trợ các công cụ pháp lý quốc tế chính yếu nhằm giải trừ và không phổ biến vũ khí hạt nhân, bao gồm Hiệp ước cấm hoàn toàn các vũ khí hạt nhân. Tháng 7 năm ngoái, các giám mục Nhật Bản đã đưa ra một lời kêu gọi bãi bỏ vũ khí hạt nhân, và mỗi tháng 8, Giáo Hội tại Nhật tổ chức một buổi cầu nguyện mười ngày vì hòa bình. Cầu xin cho lời cầu nguyện, và các hoạt động không mệt mỏi trong việc hỗ trợ các hiệp định và quyết tâm theo đuổi đối thoại trở nên “vũ khí” mạnh nhất trong đó chúng ta đặt trọn niềm tin, và là nguồn cảm hứng cho những nỗ lực của chúng ta nhằm xây dựng một thế giới công bằng và đoàn kết có thể cung cấp một sự bảo đảm đích thực cho hòa bình.

Tôi tin rằng một thế giới không có vũ khí hạt nhân là có thể và cần thiết, tôi yêu cầu các nhà lãnh đạo chính trị đừng quên rằng những vũ khí này không thể bảo vệ chúng ta khỏi các mối đe dọa hiện tại đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chúng ta cần suy ngẫm về tác động thảm khốc của việc triển khai chúng, đặc biệt là từ quan điểm nhân đạo và môi trường và bác bỏ việc đề cao bầu không khí sợ hãi, ngờ vực và thù địch do các học thuyết hạt nhân đưa ra. Tình trạng hiện tại của hành tinh chúng ta đòi hỏi phải có sự suy tư nghiêm túc về phương cách các tài nguyên của trái đất có thể được sử dụng trong bối cảnh triển khai phức tạp và khó khăn Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, nhằm đạt được mục tiêu phát triển con người tích hợp. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã đề nghị rất nhiều vào năm 1964, khi ngài đề xuất thành lập Quỹ toàn cầu để hỗ trợ cho những người nghèo nhất, được rút một phần từ chi phí quân sự (x. Tuyên bố với các nhà báo, ngày 4 tháng 12 năm 1964; thông điệp Populorum Progressio – Phát triển các dân tộc, số 51).

Tất cả điều này nhất thiết đòi hỏi phải tạo ra các công cụ nhằm bảo đảm sự phát triển tin cậy và hỗ tương; và đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải có khả năng ủng hộ các công cụ này trong những trường hợp cần thiết. Đó là một nhiệm vụ có liên quan và thách thức mỗi người chúng ta. Không ai có thể thờ ơ trước nỗi đau của hàng triệu những người nam nữ mà những đau khổ của họ làm nhức nhối lương tâm chúng ta ngày nay. Không ai có thể bịt tai trước những lời cầu xin của anh chị em đang quẫn bách của chúng ta. Không ai có thể nhắm mắt làm ngơ trước sự hủy hoại gây ra bởi một nền văn hóa không có khả năng đối thoại. Tôi xin anh chị em tham gia trong lời cầu nguyện mỗi ngày cho sự hoán cải tâm hồn và cho chiến thắng của một nền văn hóa sự sống, hòa giải và huynh đệ. Đó là một tình huynh đệ có thể nhận ra và tôn trọng sự đa dạng trong cuộc tìm kiếm một vận mệnh chung.

Tôi biết rằng một số người ở đây không phải là người Công Giáo, nhưng tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều có thể xem lời cầu nguyện cho hòa bình của Thánh Phanxicô thành Assisi là lời cầu nguyện của mình:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa

Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù,

Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục

Ðem an hoà vào nơi tranh chấp,

Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,

Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

Sau đó, tại đền các thánh tử đạo trên đồi Nishizaka, Đức Thánh Cha đã có một diễn từ khác với các tín hữu.

Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Tôi đã rất mong chờ thời điểm này. Tôi đã đến đây như một người hành hương để cầu nguyện, để củng cố anh chị em trong đức tin, và được củng cố bởi đức tin của những anh chị em này là những người mà chứng tá và lòng sùng mộ của họ thắp sáng con đường của chúng ta. Tôi cảm ơn tất cả các anh chị em đã nồng nhiệt chào đón tôi.

Ngôi đền này ghi khắc hình ảnh và tên của các Kitô hữu đã tử đạo từ lâu, bắt đầu với Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo của ngài vào ngày 5 tháng 2 năm 1597, và một loạt các vị tử đạo khác đã thánh hiến mảnh đất này bởi sự đau khổ và cái chết của họ.

Tuy nhiên, ngôi đền này không chỉ nói về cái chết; nó cũng nói lên sự chiến thắng của sự sống trên cái chết. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xem nơi này không chỉ đơn giản là ngọn đồi của các vị tử đạo mà là một ngọn Núi Các Mối Phúc Thật thực sự, nơi trái tim của chúng ta có thể bị khuấy động bởi chứng tá của những người nam nữ đầy tràn Chúa Thánh Thần và được giải thoát khỏi tích ích kỷ, lòng tự mãn và tự hào (x. Tông huấn Gaudete et Exsultate – Mừng rỡ Hân hoan, 65). Vì ở đây, ánh sáng của Tin mừng tỏa sáng nơi tình yêu chiến thắng sự bách hại và thanh gươm.

Ngôi đền này trên hết là một tượng đài về lễ Phục sinh, vì nó công cáo với thế giới rằng - bất chấp mọi bằng chứng ngược lại - cái chết không có tiếng nói cuối cùng nhưng sự sống mới có tiếng nói chung cuộc. Chúng ta không được tiền định cho cái chết nhưng cho sự sống viên mãn. Đây là thông điệp mà các vị tử đạo tuyên bố. Vâng, ở đây chúng ta thấy bóng tối của cái chết và tử đạo, nhưng cũng thấy ánh sáng của sự phục sinh, khi máu của các vị tử đạo trở thành hạt giống của cuộc sống mới mà Chúa Giêsu muốn ban cho chúng ta. Chứng tá của các ngài củng cố chúng ta trong đức tin và giúp chúng ta đổi mới sự cống hiến và cam kết của chúng ta đối với sứ mệnh truyền giáo của người môn đệ Chúa, cố gắng tạo ra một nền văn hóa có khả năng bảo vệ và bênh vực tất cả sự sống thông qua sự phục vụ thầm lặng hàng ngày đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những người quẫn bách nhất.

Tôi đã đến tượng đài các thánh tử đạo này để tỏ lòng tôn kính với những người nam nữ thánh thiện này. Nhưng tôi cũng đến trong sự khiêm nhường, với tư cách là một tu sĩ Dòng Tên từ thời tuổi trẻ ở một nơi xa xôi “tận cùng của trái đất”, đã tìm thấy nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong câu chuyện về những nhà truyền giáo đầu tiên và các vị tử đạo Nhật Bản. Cầu xin cho chúng ta đừng bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của các ngài! Cầu xin cho tượng đài này không chỉ còn là một di tích vinh quang của quá khứ, được lưu giữ và tôn vinh trong một bảo tàng viện, nhưng là một ký ức sống động, một nguồn cảm hứng cho các công việc tông đồ và thúc đẩy sự canh tân truyền giáo ở vùng đất này. Cầu xin cho Giáo Hội tại Nhật Bản trong thời đại của chúng ta, giữa muôn khó khăn và các dấu chỉ hy vọng, cảm thấy được mời gọi để nghe lại mỗi ngày thông điệp được Thánh Phaolô Miki tuyên bố từ thập giá, và chia sẻ với tất cả những người nam nữ niềm vui và vẻ đẹp của Tin mừng là con đường của sự thật và sự sống (x. Ga 14: 6). Cầu xin cho chúng ta có thể được giải thoát bản thân hàng ngày khỏi bất cứ điều gì đè nặng chúng ta và ngăn cản chúng ta bước đi trong khiêm nhường, tự do, hùng hồn nói lên sự thật và bác ái.

Anh chị em thân mến,

Ở nơi này, chúng ta hợp nhất với những Kitô hữu trên khắp thế giới, trong thời đại của chúng ta, đang chịu tử đạo vì đức tin. Họ là những vị tử đạo của thế kỷ hai mươi mốt và chứng tá của họ hiệu triệu chúng ta lên đường với lòng can đảm trên con đường các Các Mối Phúc Thật. Chúng ta hãy cầu nguyện với họ và cho họ. Chúng ta hãy lên tiếng và khẳng định rằng tự do tôn giáo phải được bảo đảm cho mọi người ở mọi nơi trên thế giới của chúng ta. Chúng ta cũng hãy lên án sự thao túng các tôn giáo thông qua “các chính sách cực đoan và chia rẽ, thông qua các hệ thống tìm kiếm lợi lộc không kềm chế hoặc thông qua các khuynh hướng ý thức hệ thù ghét đang thao túng các hành động và tương lai của những người nam nữ (Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại, Abu Dhabi, 4 tháng Hai, 2019).

Chúng ta hãy cầu xin cùng Đức Mẹ, Nữ vương các thánh tử vì đạo, Thánh Phaolô Miki và tất cả các bạn tử đạo của ngài, là những người trong suốt dòng lịch sử đã tuyên bố bằng cuộc sống của họ những điều kỳ diệu của Chúa, và cầu nguyện cho đất nước của anh chị em và cho toàn Giáo Hội. Cầu xin cho chứng tá của các ngài thức tỉnh và nâng đỡ tất cả chúng ta trong niềm vui của sứ vụ.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
LIVE: Thánh lễ với thánh ca Nhật – Việt Đức Thánh Cha chủ sự tại Sân Vận Động Tokyo Dome
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:32 24/11/2019