Tuyên Úy sinh viên

Để hiểu giai đoạn tiếp theo trong cuộc đời của Balthasar, ta nên nhớ tình hình lúc ấy. Tại Thụy Sĩ, các cha Dòng Tên ở thế được khoan dung, chắc chắn không được chính thức chấp nhận. Việc hiến pháp ngăn cấm bất cứ loại công việc nào “trong Giáo Hội và trường học” hoặc nơi cư trú vẫn còn hiệu lực. Thành thử chỉ nhờ các cá nhân nổi tiếng mà Dòng Tên có sự hiện diện nơi công chúng. Sự hiện diện định chế không được phép bất cứ ở đâu. Tư thế tuyên úy sinh viên vì thế rất nổi bật. Tạp chí thiết lập trong thời kỳ này bởi các Cha Dòng Tên Thụy sĩ, Apologetischen Blatter [Tạp chí Hộ giáo] (sau đổi thành Orientierung [Định Hướng] thoạt đầu xuất bản như một loại tạp chí “hầm trú”. Về pháp lý, các tu sĩ Dòng Tên Thụy Sĩ trực thuộc tỉnh dòng Nam Đức Quốc, mặc dù, do hoàn cảnh chiến tranh, các ngài khá độc lập. Năm 1947, một phụ tỉnh dòng Thũy Sĩ được thiết lập. Hồi đầu Thế chiến, cũng có một nhà tập Thụy Sĩ, thoạt đầu khá khiêm tốn đặt ở ngoài biên giới Thụy Sĩ, tại Balzers thuộc công quốc Liechtenstein, sau đó, kín đáo đặt tại tổng Fribourg. Kể về người Thụy Sĩ, không có ai là giáo sư cả, thậm chí không có ai được coi là trí thức, phần lớn là các mục tử có khả năng. Một người cùng dòng còn trẻ, ngay từ lúc bắt đầu ra làm việc, vốn đã viết nhiều cuốn sách hơn bất cứ ai khác như Balthasar, hẳn phải được coi là của hiếm hoi.



Nói thế thôi, chứ các tu sĩ dòng Tên Thụy Sĩ không thiếu chiều kích trí thức ngay thời đó. Đạo Công Giáo Thụy Sĩ đang trải qua một cuộc thức tỉnh về văn hóa, và các tu sĩ dòng Tên như Richard Gutzwiller và Paul de Chastonay đang đứng ở tuyến đầu. Đầu thập niên 40, chức tuyên úy sinh viên trước nhất lo việc văn hóa. Việc phát triển mới này được đẩy mạnh hơn nhờ chiến tranh và do đó nhờ bị cô lập về văn hóa, nhất là trong cộng đồng nói tiếng Đức. Việc xuất bản phát triển mạnh, vì tất cả phải dựa vào thế tự cung tự cấp về văn học. Chống lại một nước Đức của Hitler, người Công Giáo ngày càng tìm đến đạo Công Giáo của Pháp.

Đó là bối cảnh trong đó, các hoạt động của Balthasar ở Basel khởi đầu. Hoạt động quan trọng hơn cả của ngài là hiệu đính và dịch thuật. Ngài đảm nhiệm việc hiệu đính “loạt Âu Châu” của tuyển tập Klosterberg, một cố gắng thời chiến nhằm cứu vãn gia tài văn hóa của Âu Châu. Loạt này thu lượm lại với nhau 50 tuyển tập ngắn. Chính Balthasar chịu trách nhiệm 10 tuyển tập: Goethe, Novalis, Nietzsche (3 cuốn), Brentano, và Borchardt. Ngài phiên dịch Claudel, Péguy, thi ca của Kháng Chiến Pháp, sau này cả Bernanos và Mauriac. Năm 1943, Nhà Hát Zurich (Zurich Playhouse), lúc đó, có lẽ là Nhà Hát nói tiếng Đức tốt nhất trên thế giới, đã cho trình diễn lần đầu tiên vở Satin Slipper ngài dịch của Claudel. Balthasar giúp làm cố vấn cho cuộc trình diễn. Các vở kịch khác của Claudel lần lượt xuất hiện sau đó. Cuối cùng năm 1951, là buổi trình diễn lần đầu vở Carmelites của Bernanos cũng do Balthasar dịch. Balthasar giữ liên lạc thân hữu với các kịch sĩ như Richard Seewald, Albert Schilling... những người đi tiên phong trong việc canh tân nền nghệ thuật Giáo Hội, vốn là thành quả phong phú nhất của phong trào phục hưng văn hóa trong Giáo Hội Công Giáo Thụy sĩ.

Việc làm của ngài với các sinh viên phần lớn cũng có tính văn hóa. Tuyên úy sinh viên liên tục có những giảng khóa (20), vì hồi ấy, còn lâu mới có chứng ghiền truyền hình. Ngoài các buổi thuyết giảng công cộng hàng năm, ngài dành nhiều buổi tối tranh luận trong các hiệp hội sinh viên khác nhau, đặc biệt là hiệp hội có xu hướng văn hóa, Akademische Gegellschaft Renaissance [Hội Học Thuật Phục Hưng], mà chính ngài cũng là một thành viên kỳ cựu. Cả ở Zurich, Bern, và Freiburg, ngài cũng là khách mời thường xuyên và được hoan nghinh trong các cuộc tụ tập của nó. Hiệp hội Studentische Schulungsgemeinschaft [Cộng đồng đào tạo sinh viên] (SG) mà chính ngài thiết lập năm 1941 cũng nhằm trước nhất, như chính tên gợi ý, cung cấp cho sinh viên một hình thức huấn luyện về triết lý đời sống. Danh sách những người đến diễn giảng hay tham dự hội nghị bao gồm các tên tuổi lớn hồi đó: Hugo Rahner, Max Muller, Otto Karrer, Martin Buber, Karl Rahner, Yves Congar, Henri de Lubac... phần lớn là bạn và người quen của ngài.

Nhưng Schulungsgemeinschaft cũng nói lên hoạt động mục vụ của Balthasar. Hoạt động này không giới hạn ở các buổi phụng vụ cho sinh viên, các bài giảng thường xuyên tại Marienkirche, hay vô số các đàm đạo với các cá nhân. Mà hàng năm, ngài còn tổ chức nhiều buổi tĩnh tâm cho nam sinh viên, và cuối cùng, coi như một cải tiến, cho cả nữ sinh viên nữa. Các buổi tĩnh tâm này diễn ra dưới hình thức linh thao của Thánh Inhaxio nhằm giúp sinh viên đưa ra các quyết định liên quan tới bậc sống của họ. Ngài thiết lập nhiều tình bạn lâu dài với các sinh viên và người dự tĩnh tâm loại này. Họ khó quên những buổi đàm đạo trên đường đi dạo, những buổi hội thảo suốt đêm của từng nhóm nhỏ bạn bè, những buổi tối sau khi kết thúc huấn luyện, được ngài trình tấu dương cầm bản Don Giovanni của Mozart.

Ít nhất một trong các sinh viên của thời này cần được nhắc đến, đó là Robert Rast (1920-1946), người có lẽ gần gũi nhất với Balthasar. Giống Balthasar, Rast xuất thân từ một gia đình cổ kính của Lucerne, và giống như ngài là cựu học sinh của trung học Biển Đức ở Engelberg. Tốt nghiệp kỳ thi kết thúc trung học với điểm cao nhất, anh tới Basel và Freiburg để học triết lý văn hóa, vì chỉ có ngành này mới tổng hợp được các sở thích đa dạng của anh về văn hóa, âm nhạc, văn chương và thần học, và vì anh cảm thấy được kêu gọi trở thành một chính trị gia văn hóa Kitô giáo, can dự vào “cuộc đụng độ trí thức giữa nền văn hóa Kitô giáo Thụy Sĩ đương thời (nền văn hóa Phương Tây) và chủ nghĩa Quốc Xã” (21). Chính do ý nghĩ của Rast mà có ý nghĩ thiết lập ra Schulungsgemeinschaft. Rast khởi đầu sáng kiến bằng cách sắp xếp nó và trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của nó. Ngoài việc học, anh còn ham mê văn chương. Anh viết một số bài báo, xuất bản một cuốn sách, Về Ý Nghĩa Văn Hóa, và trong bộ Klosterberg, một tuyển tập của Herder. Sau khi hoàn tất ban tiến sĩ, anh quyết định gia nhập Dòng Tên, nhưng, chỉ sau một ít tuần lễ, anh mắc chứng bệnh phổi, phải nằm bệnh xá một năm ở Leysin nơi anh hoàn tất một bản dịch khác của Lallemant, Học lý Tâm linh. Ngày 16 tháng 5 năm 1946, sau khi khấn dòng, anh qua đời. Mộ của anh trong khuôn viên Hofkirche ở Lucerne, không xa mộ của Balthasar.

Robert Rast không phải là học trò duy nhất của Balthasar ở Basel tìm được đường vào nhà tập Dòng Tên. Hai ngưòi bạn của anh đã đi trước anh, nhiều người khác theo chân anh. Các sinh viên ở Basel nói tới “thứ bệnh Dòng Tên” (Jesuititis). Không phải ai vào nhà tập đều ở lại cả. Điều này dẫn tới nhiều thảm kịch, cay đắng và đồn đại. Phong thái của Balthasar không phải là điều ai cũng ưa thích. Đối với nhiều người, nó quá đạo đức, đòi hỏi. Ngài thành công với các sinh viên văn chương và lịch sử, với các sinh viên kiến trúc, một ít sinh viên luật khoa và y khoa. Với các sinh viên khoa học nói chung, ngài không bao giờ tìm được cách tiếp cận thích đáng. Thành thử không tránh được việc đề tặng cuốn sách năm 1945, Herz der Welt [Trái tim của thế giới] – Electis dilectis [Những người được tuyển lựa yêu quí], được coi là quá duy ưu tú và bản thân Balthasar bị nhiều người coi như là không thể với tới, ngạo mạn. Ngài nhìn sự việc khác thế. Điều ngài viết về Mozart trong niên giám Phục Hưng chắc chắn ám chỉ về chính tâm tư riêng của ngài:

“Sự cao quí của thiên tài này có tính cách độc hữu đến độ loại bỏ hết điều thông thường và bao gồm trong chính nó mọi sự trong thế gian... Giống mọi điều thực sự vĩ đại, nó không ghen tị bất cứ điều gì hoặc bất cứ ai, vì nó biết sự vĩ đại tự bản chất của nó vốn là điều bí truyền và không cần bùa mê giả tạo của một ‘giới’” (22).

Lãnh vực hoạt động thứ ba của tuyên úy sinh viên là gặp gỡ Phong Trào Thệ Phản. Basel, thành phố cổ kính của các nhà duy nhân bản [humanist], cũng vốn là thành lũy của Phong Trào Cải Cách. Karl Barth vốn giảng dạy tại phân khoa thần học của nó. Balthasar vốn đã thảo luận về Barth trong cuốn Apokalypse [Ngày Chung Cuộc] của ngài. Nay, ngài cố gắng tiếp nối trở lại cuộc đối thoại bất thành về analogia entis [loại suy hữu thể] giữa Barth và Przywara. Ý niệm là lấy nền thần học của Lubac về tạo dựng làm khởi điểm. Chính lòng say mê Mozart chung đã làm cho cuộc gặp gỡ của họ trở nên dễ dàng hơn và nằm mãi tại tâm điểm tình bạn lâu dài của họ. Ngoài rất nhiều những cuộc đàm đạo riêng, Barth mời Balthasar tham dự buổi hội thảo của ông và trong các năm 1949-1950, Balthasar đã có nhiều buổi thuyết giảng về Barth trước sự có mặt của Barth. Cuốn sách về Barth năm 1951, “được Barth hân hoan chào đón và chấp thuận” (23), cho thấy hai quan điểm này đã sáp lại một cách khỏe khoắn xiết bao. Barth trở thành ngươi gợi hứng vĩ đại thứ ba cho nền thần học của Balthasar. “Học huyết của Barth về việc tuyển chọn, việc vượt qua Calvin một cách sáng chói ấy, đã lôi cuốn tôi một cách mạnh mẽ và trường cửu” (24). Nhưng chính lý thuyết qui Kitô triệt để của Barth đã tạo một ảnh hưởng lâu dài nhất. Chính Balthasar thừa nhận, các tiểu luận về Verbum Caro,Theologie der Geschichte [Ngôi Lời Thành Xác Phàm,Thần Học Lịch Sử] và Glaubhaft ist nur Liebe [Chỉ có tình yêu là đáng tin cậy] là thành quả và sự tiếp tục của cuộc thảo luận đại kết này (25).

Trong các cuộc thảo luận này, điều Balthasar nhắm, dù vô vọng, là việc Barth trở lại Công Giáo. Lúc ấy, ở Thụy Sĩ, việc tiếp xúc với người Thệ Phản gần như có nghĩa là để họ trở lại. Một làn sóng trở lại hết sức phi thường khiến người ta lưu ý, và tại Basel, Balthasar có tiếng là “tạo tân tòng”. Thực vậy, ngài giữ một vai trò nhỏ trong các vụ trở lại nổi tiếng nhất, diễn ra ngay buổi đầu mới tới Basel. Ngài được một người bạn chung giới thiệu với giáo sư Albert Béguin và một mệnh phụ muốn gia nhập đạo Công Giáo, Adrienne Kaegi-von Speyr. Xuất thân từ miền tây Thụy Sĩ, Béguin là bạn thân của Georges Bernanos, một giáo sư dạy văn chương Pháp và là một thẩm quyền về phong trào lãng mạn Đức. Ông bị trục xuất khỏi Đức Quốc Xã và đang giảng dậy tại Đại Học Basel. Khoảng cuối Thế Chiến II, ông trở về Pháp để đảm nhiệm việc điều hành tạp chí Esprit. Ông được Balthasar ban phép rửa ngày 15 tháng 11 năm 1940. Người bạn tuổi trẻ của ông, Adrienne von Speyr, người Balthasar đã tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo 2 tuần trước đó, là mẹ đỡ đầu của ông.

Với Adrienne

Việc gặp Adrienne von Speyr có một ảnh hưởng quyết định đối với phần còn lại của cuộc sống và việc làm của Balthasar. Vị bác sĩ y khoa này, xuất thân từ một gia đình cổ xưa của Basel, sinh tại La Chaux-de-Fonds năm 1902. Năm 1927, bà kết hôn với một người góa vợ, sử gia Emil Durr, người Basel. Sau cái chết vì tai nạn của ông, sau 7 năm hôn nhân hạnh phúc, bà xa lìa Thiên Chúa và trong nhiều năm đến Kinh Lạy Cha bà cũng không đọc. Năm 1936, bà tái hôn, lần này với người kế vị Durr, giáo sư Werner Kaegi; bà sống với ông này cho đến khi bà qua đời tại căn nhà yêu quí Auf Burg thuộc khu Munsterplatz ở Basel. Sau này, Balthasar được chào đón tại đó như một vị khách. Bà là một phụ nữ có tài hài hước, một tâm trí sống động, miệng lưỡi sắc bén, nổi tiếng ngoài xã hội, và tận tâm với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo và những người có vấn đề tâm thần. Việc bà trở lại gây nhiều xôn xao tại Basel, nhất là giữa gia đình và bạn hữu Thệ phản của bà. Chẳng bao lâu, nhiều tin đồn về phép lạ, dường như đã xẩy ra tại phòng mạch của bà. Lại có cả nhiều thị kiến cho là bà có được. Những buổi gặp gỡ thường xuyên và lâu dài với vị linh hướng của bà gây nhiều nghi ngờ nơi các bạn đồng tu của ngài và dĩ nhiên tạo ra nhiều bàn tán hành tỏi.



Không bao lâu, các thành quả đầu tiên của việc hợp tác này giữa vị tuyên úy sinh viên và Bà Giáo sư Kaegi được công bố. Ngày 15 tháng 10 năm 1945, sau kỳ tĩnh tâm tại Estavayer (5-12 tháng 8), trong một căn nhà tại Wettsteinalle, nhánh phụ nữ của Cộng đồng Thánh Gioan đã được thành lập với 3 thỉnh sinh. Thoạt đầu, chỉ một ít người biết đến việc thành lập. Dịp xuất bản 3 năm sau đó cuốn sách được nhiều người thảo luận của Balthasar, Der Laie und der Ordensstand [Giáo dân và Dòng tu] giúp việc thành lập được nhiều người biết đến hơn. Năm 1947, với sự giúp đỡ của một người bạn ở Einsiedeln, Tiến sĩ Josef Fraefel, nhà xuất bản Johannesverlag [Nhà Xuất Bản Thánh Gioan] đã được thành lập để xuất bản các tác phẩm của Adrienne vốn khó nhận được phép của Giáo Hội (Imprimatur). Cùng năm, Johannesverlag xuất bản bản dịch của Adrienne cuốn Tự Truyện Của Một Linh Hồn với lời nói đầu của Balthasar. Một năm sau, cuốn sách được thảo luận và đánh giá cao về Đức Mẹ, Magd des Herrn [Nữ tỳ của Chúa], được xuất bản, cũng như cuốn chú giả thứ ba về Tin Mừng Gioan, Die Abschiedsreden [Các Phát biểu Giã từ], cũng với lời nói đầu của Balthasar. Ba cuốn còn lại, cần được xem lại do yêu cầu của các vị kiểm duyệt, mãi tới năm 1949 mới được xuất bản. Cuốn cuối cùng trong các “tác phẩm tiên khởi” này, một cuốn làm Adrienne nổi tiếng, là bộ chú giải 2 cuốn về sách Khải Huyền của Thánh Gioan, xuất bản năm 1950.

Bỏ Dòng Tên

Trong khi đó, các vấn đề do việc làm vị giải tội của Adrienne gây ra mỗi ngày mỗi gia tăng. Năm 1945, bài giảng Giáng sinh đã được quảng cáo của ngài trên Đài phát thanh Thụy Sĩ nói tiếng Đức đã bị hủy bỏ một cách vội vã vì luật lệ về Dòng Tên. Sự ngạc nhiên của công chúng về quyết định này đã dẫn đến cuộc thảo luận đầu tiên về điều khoản này của hiến pháp.

Odermatt, chủ bút tờ Neuen Zürcher Nachrichten [Tin tức mới về Zurich], đặt câu hỏi: Đài phát thanh Thụy Sĩ là "trường học" hay "nhà thờ?" Đối với các tu sĩ Dòng Tên Thụy Sĩ, những người dù sao vốn gặp rắc rối ở Zurich, thì sự việc này, ít nhất cũng phải nói là khó chịu. Những năm sau đó là là thời kỳ khủng hoảng thực sự đối với Balthasar. Tất cả các mối liên hệ nhân bản của ngài đều bị đặt trong vòng nghi vấn. Bắt đầu, có những rắc rối trong gia đình. Cha ngài đã bị bệnh nặng một thời gian và cuối cùng qua đời vào tháng 6 năm 1946. Mẹ đỡ đầu của ngài, người mà ngài vốn gần gũi nhất trong gia đình, người luôn hiểu ngài, bị đột quỵ lần đầu, bị liệt bên trái, và được ngài ban các nghi thức cuối cùng. Ngày 16 tháng 5 năm 1946 Robert Rast qua đời tại Leysin. Trước đó không lâu, Balthasar nhận được tin người bạn và người cố vấn của mình là Przywara đang mắc chứng rối loạn thần kinh nghiêm trọng, vì vậy ngài đã cố gắng xin cho vị này giấy phép nhập cảnh vào Thụy Sĩ. Vào tháng Tám, theo lệ thường, Balthasar phải chuẩn bị để khấn trọng thể trong dòng. Tuy nhiên, cùng lúc đó, ngài được thông báo Dòng Tên không thể chịu trách nhiệm đối với Bà Giáo sư Kaegi và Cộng đồng Thánh Gioan. Balthasar yêu cầu điều tra tính chân chính của các thị kiến của bà, và hoãn việc khấn của ngài cho đến lúc đó. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1947 (Lễ Mẹ Thiên Chúa, và lễ thành lập Dòng Tên), lần đầu tiên ngài nói chuyện với Cha Bề trên Cả Johann Baptist Janssens tại Rôma nhưng không thành công.

Trong khi đó, những người bạn thuở ở Lyons của Balthasar, và bản thân ngài cùng với họ, đang bị rắc rối về mặt thần học. Trong ấn bản tháng 8 của Revue Thomiste, Michel Labourdette, O.P. đã công bố một bài phê bình chỉ trích hai loạt bài trên các tờ ThéologieSources Chrétiennes (26). Các nhận định phê phán nhắm vào de Lubac, Bouillard, Fessard và Daniélou. Lúc đầu, nhà phê bình đề cập thuận lợi đến các nghiên cứu của Balthasar về Grêgôriô Thành Nyssa, Présence et Pensée [Hiện diện và Tư tưởng] (không xuất hiện trong hai loạt bài nói trên). Nhưng rồi, trong phần kết luận, vị này quay lại với cuốn sách bằng một đoạn trích dẫn dài lấy từ lời nói đầu của Balthasar, bắt đầu như sau:

“Thần học, cũng như siêu hình học, không tự để mình bị phán đoán theo các phạm trù mỹ học. Tôi không có ý nói trong các cách diễn đạt của nó, nhưng trong giá trị phổ quát của nó và tính trường cửu của các chân lý được nó định nghĩa. Đó là điều sai với một trang hoa mỹ nhưng hời hợt được viết bởi một tác giả rất xuất sắc” (27).

Rồi, sau lời trích dẫn từ Balthasar — từ một bản văn mà trong những năm sau này, có lẽ ngài sẽ không viết dưới dạng đó nữa. Khi nhìn lại, điều đáng lưu ý là Labourdette đã nhận thức khá rõ ràng đặc tính thẩm mỹ của nền thần học Balthasar (khi nhắc đến Daniélou, cũng lần đầu tiên, ngài đã nói tới nền 'thần học bi kịch', [dramatic theology]). Quả đúng, điều ngài muốn nói ở đây, không hoàn toàn sai là một nền thần học thẩm mỹ hóa. Chính Balthasar cũng chưa tìm được đường dẫn vào việc thực sự "nhìn thấy khuôn hình" vinh quang Thiên Chúa.

Ngược với bài viết thanh lịch và tinh tế của Labourdette, bài báo của người cùng dòng Đa Minh là Garrigou Lagrange, trên tạp chí Angelicum số tháng 12, có vẻ như là một cuộc oanh kích. "Thần học mới sẽ đi về đâu?" ngài giận dữ như vậy ngay trong tựa đề bài báo. Ngài kết luận với câu trả lời ngắn gọn này: "Nó đang quay trở lại với thuyết Duy Hiện đại [modernism]" (28). Balthasar không được minh nhiên nhắc đến trong bài báo thứ hai này và do đó, ngài không tham gia vào cuộc tranh cãi; một cuộc tranh cãi kết cục đã đưa đến việc ngưng giảng dậy của de Lubac và Bouillard và thông điệp Humani Generis [Nhân loại] của Đức Piô XII. Ấy thế nhưng, sự nghi ngờ xung quanh người bạn de Lubac của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc nhất đến ngài và công việc thần học của ngài. Trong thần học cũng vậy, ngài không thể còn cọ quạy tự do nữa. Cuốn sách về Barth (và cuộc tranh cãi sau đó với E. Gutwenger về khái niệm thần học về tự nhiên) chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh của sự kinh ngạc này.

Vào giữa tháng 9 năm 1947 Balthasar có thể du hành qua Đức để tháp tùng Erich Przywara trở về Basel, nơi người bạn của ngài từ từ hồi phục. Vào ngày 26 tháng 11, ngài nói chuyện lần thứ hai với Cha Bề Trên Cả, người đã phái ngài đến Lyons để thảo luận với Cha Rondet. Cha Rondet đã không thể nhìn nhận tính chân chính trong các viễn kiến của Adrienne von Speyr và sứ mệnh thần linh được ủy thác cho Balthasar. Đức Giám Mục giáo phận Basel, Franziskus von Streng, cũng có nhiều dè dặt đối với Cộng đồng Thánh Gioan, và cả sau đó vẫn không rút lại các dè dặt này. Trong hoàn cảnh vô vọng này, Cha Bề Trên Cả bảo Balthasar hãy đi tĩnh tâm dưới sự hướng dẫn của Cha Donatien Mollat, một chuyên gia về thánh Gioan, và trong cuộc tĩnh tâm đó hãy đưa ra quyết định cuối cùng của mình. Cuộc tĩnh tâm diễn ra vào cuối tháng 6 năm 1948 tại Barollières gần Lyons. Quyết định, được đưa ra với thỏa thuận của cha hướng dẫn tĩnh tâm, là rời khỏi Dòng, nếu Dòng không sẵn lòng chứng nghiệm sứ mệnh của Balthasar. Sau đó là mười tám tháng chờ đợi đau đớn, trong đó Balthasar cố gắng hết sức tìm một giám mục chịu chấp nhận ngài, và các bạn đồng tu của ngài hết sức cố gắng khuyên ngài thay đổi ý định. Sau khi trao đổi thêm thư từ với Cha Bề Trên Cả, ngài bỏ Dòng Tên ngày 11 tháng 2 năm 1950.

Việc bản thân Balthasar nhìn việc ra đi này ra sao và khó khăn như thế nào đã được trình bầy trong một bản tuyên bố ngắn gửi cho bạn bè và người quen biết của ngài và bức thư tạm biệt khá dài viết cho các bạn đồng tu của ngài.

“Tôi đã thực hiện bước này, vì đối với cả hai bên, nó là một bước rất nghiêm trọng, sau một thời gian dài tìm tòi, nay, qua lời cầu nguyện, tôi đã đạt được sự chắc chắn này là tôi được Chúa kêu gọi thực hiện một số nhiệm vụ nhất định trong Giáo hội. Dòng Tên cảm thấy không thể cho phép tôi dành cho các nhiệm vụ này một cam kết không phân chia của mình... Vì vậy, đối với tôi, bước tôi chọn có nghĩa là áp dụng sự vâng lời của Kitô hữu đối với Thiên Chúa, Đấng bất cứ lúc nào cũng có quyền gọi một người không những ra khỏi ngôi nhà thể lý của họ hoặc cuộc hôn nhân của họ, mà cả ngôi nhà thiêng liêng đã chọn của họ trong một dòng tu, để Người có thể sử dụng họ cho các mục đích của mình trong Giáo hội. Bất cứ lợi thế hoặc bất lợi do đó mà ra trong lĩnh vực thế tục đều không được thảo luận và không được xét đến”.

Đối với các bạn đồng tu, ngài đi vào chi tiết nhiều hơn. Ngài nói, đó là một vấn đề mâu thuẫn giữa "việc chắc chắn nội tâm, đạt được trong lời cầu nguyện" và việc ngài vâng lời Dòng, nói cách khác, mâu thuẫn giữa việc vâng lời Dòng và việc vâng lời trực tiếp đối với Thiên Chúa. Tham chiếu Thánh Tôma và Đức Hồng Y de Lugo, Balthasar giải thích về mặt thần học rằng việc giải quyết cuộc xung đột này không tìm thấy "hoàn toàn và trong mọi trường hợp trong việc vâng lời Dòng" và ngài kết luận một cách tự tin:

“Dù khó hay dễ, có hiểu được hay không, triển vọng là công bằng hay u ám, bất kể là đêm đen – việc vâng lời ở lại hay việc vâng lời ra đi: thì điều này có nghĩa gì đối với người tìm kiếm thánh ý của Chúa? Và nếu Bài Linh Thao số 167 gần như chắc chắn trở thành sự thật, thì họ sẽ chấp nhận nó với một trái tim biết ơn. Tuy nhiên, nó có quan hệ gì đối với họ? Thiên Chúa bảo đảm rằng sự vâng phục đó, nếu được thực hành một cách như trẻ thơ mà không ''anh hùng " hay ngạo mạn, thì kết cục, không phải là chuyện bên lề, mà là ở chính nền tảng của Giáo Hội Công Giáo” (29).

Sự chắc chắn đáng kinh ngạc này trái ngược hoàn toàn với những gì ngài thường xuyên gây ấn tượng nơi các học trò của ngài về đức vâng lời của Thánh Inhaxiô, đặc biệt là khi ngài hướng dẫn Linh Thao. Chỉ lúc này, nhờ các tài liệu được công bố kể từ cái chết của Adrienne von Speyr, chúng ta mới có thể hiểu nó một cách chính xác: trong nhiều năm, Balthasar vốn đã phải đối diện với rất nhiều việc như chứng thực về đặc sủng, được in dấu, chữa lành và các phép lạ khác, hết thị kiến này đến thị kiến nọ. Tác phong của người thị kiến không bao giờ làm nảy sinh bất cứ nghi ngờ nào về tính chân chính của những trải nghiệm của bà; trái lại, xem ra càng củng cố chúng. Nhưng, trên hết, người ta nhận ra Adrienne, với tài năng thấu hiểu lòng người, đã giúp đỡ vị giải tội của bà như thế nào trong công việc thiêng liêng và mục vụ của ngài. Người ta cũng thấy không những do sứ mệnh chung mà ngay trong những ngày đầu tiên, việc cần phải rời khỏi Dòng Tên đã xuất hiện một cách rõ ràng cấp thiết như thế rồi. Adrienne đau khổ vì điều vừa kể một cách sâu sắc, có vẻ như thế, còn hơn cả chính Balthasar. Nhìn lại quyết định của mình, ngài viết:

“Đối với tôi, tất nhiên Dòng là một quê hương yêu dấu; Ý nghĩ có thể phải 'bỏ tất cả' hơn một lần trong đời để theo Chúa, dù chỉ là một dòng tu, chưa bao giờ xảy đến với tôi, và việc này cho tôi một đòn giáng thật mạnh” (30).

Về cuối đời, ngài xin gia nhập lại Dòng Tên. Tuy nhiên, lời xin này không thể được ban cho ngài, vì ngài gắn vào nó điều kiện Dòng phải chịu trách nhiệm trong tương lai đối với Cộng đồng Thánh Gioan. Nhân dịp được bổ nhiệm làm Hồng Y, Cha Bề Trên Cả muốn dành cho ngài nhà thờ Sant'Ignazio làm nhà thờ hiệu tòa, nhưng điều này cũng không thành vì các vấn đề giáo luật.

Đây không phải là lúc cũng không phải là nơi để khảo sát việc phê phán về thần học các đặc sủng của Adrienne hoặc phân biệt bên trong chúng giữa hồng ân thần linh và điều có thể là chỉ là thiên phú tự nhiên - nếu một sự phân biệt như vậy thực sự có thể diễn ra. Tuy nhiên, có thể nói hai điều sau khi nhìn lại. Nếu Adrienne von Speyr có một sứ mệnh trong Giáo hội (và những tuyên bố của Giáo hội trong những năm gần đây dường như theo hướng này), thì để thi hành nó, bà cần sự sự trung gian của một linh mục như Balthasar, người có thể chấp nhận các viễn kiến của bà với kiến thức thần học và một đức tin đơn sơ như trẻ thơ. Bất cứ sự khuyến khích nào đối với việc tự phản ảnh (điều mà ngài thường xuyên tránh), bất cứ phán đoán phê phán hấp tấp nào, đều hạn chế dòng linh hứng tự do. Còn về việc thành lập Cộng đồng Thánh Gioan, việc này có thể có kết quả tốt hơn nếu Balthasar không bỏ Dòng Tên. (Trong cuộc tĩnh tâm dẫn đến quyết định của ngài, ngài coi số lượng khó khăn đang chờ đợi ngài như lập luận duy nhất chống lại nguồn gốc thần linh của sứ mệnh ngài). Tuy nhiên, trong Dòng, công trình thần học của Balthasar hiếm khi mang tâm tư này. Phù hợp với "nguyên tắc Gamalien" (xem Cv 5: 34-39), phán đoán cuối cùng về quyết định của Balthasar phải được trao cho tương lai và do đó cho Thiên Chúa.

Kỳ tới: Những năm cuối cùng với Adrienne