ƠN TÁI SINH NƠI MỘT GIA ÐÌNH
MỪNG CHÚA PHỤC SINH
Ngày anh chị gặp nhau, rồi trở thành vợ chồng, anh vẫn chưa là người Công Giáo. Thế là chị bị rối do ngăn trở khác đạo.
Vào những năm khó khăn, gia đình anh chị bỏ đi kinh tế mới, lúc ấy đứa con đầu lòng còn đỏ hỏn. Chồng không đạo, vợ bị rối, hai con sinh ra cũng đi trên lối mòn mà cha và mẹ chúng đã đi: không đứa nào được rửa tội.
Hoàn cảnh khó khăn, tưởng thoát ly gia đình ra đi như thế, tưởng sức chồng công vợ hợp tác mà thành, cộng với đôi bàn tay chai sần ngày ngày hòa trộn cùng những giọt mồ hôi mặn chát, xót xa, sẽ tạo ra cơm, ra mắm, ít nữa là cháo, là rau. Nhưng không ngờ, cuộc sống khắc nghiệt cho đến mức quá tàn nhẫn: càng lam lũ bao nhiêu, càng trắng tay bấy nhiêu.
Những ngày đầu phá đất hoang, sức trai vạm vỡ như anh, đã mang lại cho gia đình hy vọng: sẽ thoát khỏi đói nghèo. Nhìn những gốc cây bị lật ngược, sỏi đá được gom thành đống; gốc cây thì làm củi cho vợ, sỏi đá đắp nền nhà, mà cứ vui, mà phấn khởi. Một niềm tin đổi đời đang nhóm lên từng ngày của cả vợ lẫn chồng…
Nhưng thật mỉa mai chua xót, khi mà niềm vui chưa một lần dám thốt thành lời để khoe với họ hàng, cha mẹ, vẫn còn chôn kín trong hy vọng, thì những con muỗi rừng, những con muỗi đói đã chực cướp lấy mạng sống anh, và đứa con gái đầu lòng. Bao nhiêu tiền có được, chị bỏ ra hết để mong giữ được mạng sống của chồng, của con...
Cơn sốt rét tạm lắng, nhưng bệnh sốt rét vẫn cứ còn. Túng thiếu quá đỗi, chị kêu người ta bán luôn cả rẫy mì còn non nớt. Gia đình khốn khó, một người bệnh đã khổ, đàng này chị phải cưu mang đến hai người bệnh và đứa con trai thứ còn bồng trên tay.
Mọi vất vã, mọi thương đau đè nặng trên đôi vai quá mong manh của một phụ nữ như chị. Ðôi mắt chị thâm quần, lòng mắt đờ đẫn, xa xăm. Trên đôi mắt chứa nhiều niềm đau hơn nỗi vui ấy, những giọt nước mắt đã ráo khô tự lúc nào.
Chị đã khóc. Khóc nhiều lắm. Khóc cho gia đình. Khóc cho chồng, cho con. Chị khóc cho chính mình, cho số phận bạc phước, cho cả kiếp sống của chị bị Thượng Ðế lãng quên. Chị khóc nhiều lắm, nhưng nước mắt đã lăn ngược vào tim mất rồi...
Quá khắc nghiệt. Ba tiếng "kinh tế mới" nghe như đứt từng đoạn ruột. Gia đình anh chị chỉ còn một con đường duy nhất: chạy trốn!
Bỏ! Bỏ hết! Bỏ tất cả!
Tất cả chỉ là đôi bàn tay trắng cộng với ốm đói và bệnh tật...!
Ngày về lang thang, mang theo một gia tài rách rưới trở về quê cha đất mẹ mong tìm lại cuộc sống bình an...!
Ra đi, anh chị mang trong mình nhiều hy vọng. Nay trở về, chỉ là màn đêm chờ đợi. Sự đau buồn đã cướp mất của anh chị cả đến những tia hy vọng cuối cùng.
Một tấm tranh lợp nhà còn không có, sức khỏe của anh cũng không còn như xưa, nước da xanh như tàu lá chuối.
May nhờ một ông chủ lò chén mướn anh làm một việc hết sức nhẹ nhàng, gần như là bảo vệ: trông coi nhà cửa. Hàng ngày chị đi gánh nước mướn tạm sống qua ngày. Ông chủ lò chén thương tình cất cho gia đình anh chị một căn chòi vách tre, mái lợp lá.
Thế là cũng đủ cho những kẻ nghèo mạt kiếp như anh chị và các con của mình có nơi dung thân tạm sống qua ngày.
Hàng ngày chị gánh nước đi ngang trường học. Thấy đám trẻ con hồn nhiên quá, vui quá, những tiếng đánh vần bi bô cứ vang lên từng ngày, nghe mà nao lòng lắm.
Có đêm chị nằm mơ thấy hai đứa con chị cãi nhau về kết quả của một bài toán. Chị còn thấy đứa con gái lớn của chị đọc thuộc lòng một bài thơ mà ban sáng, chị nghe trong một lớp học nào đó, đám học sinh đọc thật to...
Giật mình tĩnh giấc, nước mắt chị ràn rụa, thấm ướt cả chiếc gối kê đầu: con chị còn chưa đánh vần nỗi một chữ cái đầu. Hóa ra kết quả của một bài toán, và tiếng đọc thơ của con chị chỉ là niềm mơ ước cháy bỏng tâm hồn người mẹ, làm chị xót xa đoạn trường, đã theo chị đi và từng giấc ngủ như thế…
Chị bàn với anh, thôi thì gia đình có nghèo, sự lận đận, anh chị cố gắng mà chịu. Dù sao kinh tế gia đình đã có phần ổn định, đã có thể lo cho con đi học, chắc chắn không đầy đủ như con người ta, nhưng được đi học, sau này chúng nó không tủi thân.
Vậy là chị lại nắm tay các con dẫn tới trường học. Nhưng chị có ngờ đâu, con chị đã qua cái tuổi học lớp một rồi. Tuy vậy, con trai chị vẫn được nhận vào lớp một.
Hết cách, chị đưa con gái vào trường bổ túc văn hóa. Ngay năm đầu tiên, các con đã đem về cho anh chị những niềm vui quá bất ngờ, quá lớn lao, có sức an ủi làm mát lòng cha mẹ chúng: Con gái anh chị chỉ một năm học đầu tiên đã học đúp hai lớp, lớp một và lớp hai. Còn cháu trai được xếp hạng nhì, đem về nào phần thưởng, nào giấy khen. Nhận giấy mời đến trường dự lễ phát thưởng của con mình, anh chị như có phần trút bớt nỗi lầm lũi, bớt tủi thân.
Cháu gái con anh chị, sau khi đi học hai năm, đã học hết chương trình cấp một. Tin vào sự thông minh của con mình, cuối năm lớp sáu, anh chị làm đơn xin chuyển trường cho con từ bổ túc sang trường phổ thông. Người ta chấp nhận. Hết năm lớp 12, con gái anh chị thi vào Ðại học Sư phạm. Ngày cô chị bắt đầu vào đại học, thì cũng là ngày cậu em lên lớp 10. Cô chị tốt nghiệp đại học, cậu em cũng tốt nghiệp phổ thông…
Cô con gái của anh chị sau vài năm đi dạy học, đã có người yêu. Vô cùng may mắn, người yêu của cô là một người Công Giáo, cũng dạy học như cô.
Kể từ khi con gái làm bạn với người Công Giáo, bỗng dưng cảm thức đức tin ngày xưa trở lại trong lòng chị. Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, cụm từ "người Công Giáo", đối với chị đã trở thành xa vắng từ lâu, đức tin đã tắt ngúm, bây giờ bỗng le lói.
Chị nhớ lại, ngày xưa chị cũng đã từng theo mẹ đến nhà thờ. Lớn lên chị cũng đã từng mặc áo dài tha thước đi dự lễ ngày Chúa nhật. Thế là chị quyết định cho con theo đạo lập gia đình.
Ðiều khó khăn chị gặp phải lúc này là anh không đồng ý quyết định của hai mẹ con. Chị lén chồng đưa con tới nhà thờ gặp linh mục. Chị đã thật thà kể hết mọi chuyện trong gia đình của mình cho linh mục nghe.
Vị linh mục quyết định đến thăm gia đình anh chị. Lần đầu tiên cả gia đình còn ngại, xa cách linh mục. Nhưng cuối cùng, anh đã chấp nhận cho con theo đạo, và chấp nhận làm phép chuẩn với chị để chị thong dong giữ đạo...
Sau bao nhiêu năm trời xa cách, vị linh mục đã coi sóc nhiều giáo xứ. Bây giờ vị linh mục trẻ ngày xưa cũng đang vào tuổi già, bất ngờ thăm lại gia đình anh chị.
May mắn, anh chị vẫn còn ở ngôi nhà xưa, nhưng khang trang, sạch sẽ. Giờ đây anh chị cũng đã già, nhưng cả hai vẫn còn khỏe mạnh. Gặp lại vị linh mục ân nhân ngày nào, anh chị mừng mừng tủi tủi, xúc động tràn lên khóe mắt...
Vị linh mục còn nhận thêm một tin vui lớn hơn tất cả mọi niềm vui. Chắc chắn, đó là việc Chúa thực hiện để chúc lành cho gia đình này: Vài năm sau khi lãnh nhận phép chuẩn, chính anh đã tự ý xin học đạo.
Cậu con trai của anh chị, ngày xưa anh từng tuyên bố, nó là con đích tôn, phải lo giữ đạo ông bà. Vậy mà trong thời gian học giáo lý, anh cũng đưa cháu theo, cả hai cha con cùng ngồi chung bàn học giáo lý. Giờ đây, cả nhà, từ anh chị đến con cháu, dâu rể đều là Kitô hữu...
Các con của anh chị đã ổn định cuộc sống. Anh chị sống chung trong căn nhà xưa với người con trai và nàng dâu của mình. Người con gái và chàng rể có nhà mới cách xa chừng vài trăm mét. Anh chị có đến sáu cháu nội ngoại và hai cháu cố. Một cháu nội và hai cháu ngoại của anh chị cũng mới lập gia đình vài năm nay...
Tuy không quá giàu có, các con của anh chị sống thảo hiếu với cha mẹ chúng. Tiếc là khi vị linh mục đến thăm, không gặp lại các cháu và dâu rể của anh chị vì tất cả đều đi làm, phải đến chiều mới về.
Dù vậy, niềm vui vẫn tràn ngập trong gia đình anh chị. Mọi vất vả, mọi đau khổ ngày nào, tạo nên kết quả của ngày hôm nay, đã trở thành một kỷ niệm, một dấu ấn mà tâm khảm của mọi người trong nhà này không dễ xóa nhòa.
***
Nhớ lại đêm Phục Sinh năm ấy, khi chứng kiến chồng và con của mình lần đầu tiên trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Chúa Kitô, thành Con Thiên Chúa, đứng chung hàng ngũ cùng mọi người con của Hội Thánh Công Giáo, chị lại xúc động...
Còn vị linh mục lại thêm một lần xã tín, Chúa đâu chỉ phục sinh thân xác của mình, mà Chúa còn phục sinh trong cõi hồn con người để tái sinh, để đổ tràn đầy sức sống Phục Sinh của Ngài.
Từ ngàn xưa, đêm vọng Phục Sinh đã là đêm tưng bừng, đêm tràn ngập ánh sáng, cả Hội Thánh vui mừng trong khúc ca Alleluia mà ngợi khen Chúa.
Ðêm mà Thiên Chúa đi tìm con người, mang lên vai trở về để trao tặng tình yêu và ơn cứu độ (Lc 15, 5).
Ðêm mà mọi Kitô hữu vô cùng hân hoan diễn tả lòng yêu mến Chúa, sự tôn thờ Thiên Chúa của mình bằng những lời ca hay nhất, bằng những tiếng reo vang dội: "Vang lên muôn lời ca, ta ca tụng Chúa, vì uy danh Ngài cao cả".
Ðêm cực thánh, đêm đại lễ, xứng đáng là đêm của mọi đêm, lễ mẹ của mọi lễ. Chúa Kitô đã làm cho nấm mồ chôn xác Ngài trở thành huyệt mả chôn tội lỗi.
Chúa Kitô đã chỗi dậy, đã khải thắng, đã giết chết tử thần. Chính đêm nay Chúa Kitô phục sinh đã làm bừng lên sức sống mới.
Và trong đêm vô cùng thánh thiện của lễ Phục Sinh năm ấy, anh và con trai của anh chị bước lên cung thánh dỏng dạc tuyên xưng đức tin trước mặt cả cộng đoàn đông hàng ngàn người.
Dòng nước vừa mới làm phép xong, đã trở nên dòng nước thanh tẩy và thánh hiến.
Và gia đình anh chị là những người đầu tiên lãnh nhận ơn thánh hiến từ dòng nước mới ấy: Từ đêm Vọng Phục Sinh ấy, họ đã thuộc về Chúa Kitô. Tôi tin, trong đời sống của mình, họ đã từng chết cho tội lỗi để sống cho Chúa Kitô. Rồi khi quyết định nhận chìm quá khứ trong dòng nước của đêm khải hoàn, gia đình anh chị đã tái sinh.
Có người Công Giáo nào, sau nhiều năm lặn lội trong biển đời mênh mông, đức tin xem ra vuột mất, bị cuộc đời vùi dập, đức tin như chỉ còn là sợi chỉ mỏng như tơ chôn chặt thẳm sâu trong lòng, giờ đây có dịp bùng lên, lại không cảm thấy niềm an ủi tràn đầy, lại không cảm thấy cuộc đời quá đổi thiêng liêng, và như trút bỏ cả một gánh nặng lương tâm bấy nhiêu năm.
Dẫu đức tin đã trở thành như chỉ là kỷ niệm, thì cảm thức về một kỷ niệm như thế vẫn đủ để người ta nhận ra mình, vẫn đủ để thêm sức cho người ta trở lại với huyền nhiệm của tình yêu, một thứ tình không phải đến từ con người nhưng do Thiên Chúa rộng rãi trao ban.
Cũng vậy, thắp sáng trên tay ánh lửa lấy từ nến phục sinh, chính chị cũng đã nhận ra rằng, ngọn lửa đức tin mà bao năm tháng chỉ còn trơ một chút tàn, bỗng dưng bùng cháy, xóa tan mọi mặc cảm, xóa tan mọi bất bình an. Trong đêm mừng Chúa Phục Sinh vui mừng của năm ấy, chị đã khóc. Không còn là giọt nước mắt đau khổ của một thời nghiệt ngã gắn liền với ba chữ "kinh tế mới", nhưng là giọt hạnh phúc của tình yêu Thiên Chúa, của ơn Phục Sinh khải thắng trong chính tâm hồn, trong chính gia đình anh chị.
Ngày xưa chị cũng khóc. Nhưng giọt nước mắt của hai lần khóc khác nhau lắm. Giọt nước mắt bây giờ cứ tự nhiên rơi xuống trên làn môi đầm thắm và hạnh phúc, không còn là giọt đau xót ngẹn ứ và ảm đạm.
Ơn tái sinh quá diệu kỳ. Không chỉ hồi sinh sức sống của tâm hồn, mà còn trả lại cho con người biết bao nhiêu niềm thương, niềm bình an, thay cho những gì là thương đau chừng như giết chết con người trong vũng của thê lương bất hạnh.
Mới hay, khi con người tìm về tình yêu của Chúa, hoặc trở lại với tình yêu muôn đời bền vững ấy, họ sẽ nhận lại mọi phẩm chất, mọi giá trị, bất kể là sự sống của tâm hồn hay của thể chất.
Nguyện xin bình an của Chúa Kitô Phục sinh ở lại trong tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình anh chị.
Chúng ta cũng thế. Chúng ta cũng rất cần ơn tái sinh của Ðấng Phục Sinh, để bình an và sức sống mới của Ngài có khả năng biến đổi những gì còn khô cằn, còn mang dáng dấp sự chết trong ta thành ánh sáng của hoa trái thánh thiện. Vì thế nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ở lại trong cuộc đời mỗi chúng ta.
MỪNG CHÚA PHỤC SINH
Ngày anh chị gặp nhau, rồi trở thành vợ chồng, anh vẫn chưa là người Công Giáo. Thế là chị bị rối do ngăn trở khác đạo.
Vào những năm khó khăn, gia đình anh chị bỏ đi kinh tế mới, lúc ấy đứa con đầu lòng còn đỏ hỏn. Chồng không đạo, vợ bị rối, hai con sinh ra cũng đi trên lối mòn mà cha và mẹ chúng đã đi: không đứa nào được rửa tội.
Hoàn cảnh khó khăn, tưởng thoát ly gia đình ra đi như thế, tưởng sức chồng công vợ hợp tác mà thành, cộng với đôi bàn tay chai sần ngày ngày hòa trộn cùng những giọt mồ hôi mặn chát, xót xa, sẽ tạo ra cơm, ra mắm, ít nữa là cháo, là rau. Nhưng không ngờ, cuộc sống khắc nghiệt cho đến mức quá tàn nhẫn: càng lam lũ bao nhiêu, càng trắng tay bấy nhiêu.
Những ngày đầu phá đất hoang, sức trai vạm vỡ như anh, đã mang lại cho gia đình hy vọng: sẽ thoát khỏi đói nghèo. Nhìn những gốc cây bị lật ngược, sỏi đá được gom thành đống; gốc cây thì làm củi cho vợ, sỏi đá đắp nền nhà, mà cứ vui, mà phấn khởi. Một niềm tin đổi đời đang nhóm lên từng ngày của cả vợ lẫn chồng…
Nhưng thật mỉa mai chua xót, khi mà niềm vui chưa một lần dám thốt thành lời để khoe với họ hàng, cha mẹ, vẫn còn chôn kín trong hy vọng, thì những con muỗi rừng, những con muỗi đói đã chực cướp lấy mạng sống anh, và đứa con gái đầu lòng. Bao nhiêu tiền có được, chị bỏ ra hết để mong giữ được mạng sống của chồng, của con...
Cơn sốt rét tạm lắng, nhưng bệnh sốt rét vẫn cứ còn. Túng thiếu quá đỗi, chị kêu người ta bán luôn cả rẫy mì còn non nớt. Gia đình khốn khó, một người bệnh đã khổ, đàng này chị phải cưu mang đến hai người bệnh và đứa con trai thứ còn bồng trên tay.
Mọi vất vã, mọi thương đau đè nặng trên đôi vai quá mong manh của một phụ nữ như chị. Ðôi mắt chị thâm quần, lòng mắt đờ đẫn, xa xăm. Trên đôi mắt chứa nhiều niềm đau hơn nỗi vui ấy, những giọt nước mắt đã ráo khô tự lúc nào.
Chị đã khóc. Khóc nhiều lắm. Khóc cho gia đình. Khóc cho chồng, cho con. Chị khóc cho chính mình, cho số phận bạc phước, cho cả kiếp sống của chị bị Thượng Ðế lãng quên. Chị khóc nhiều lắm, nhưng nước mắt đã lăn ngược vào tim mất rồi...
Quá khắc nghiệt. Ba tiếng "kinh tế mới" nghe như đứt từng đoạn ruột. Gia đình anh chị chỉ còn một con đường duy nhất: chạy trốn!
Bỏ! Bỏ hết! Bỏ tất cả!
Tất cả chỉ là đôi bàn tay trắng cộng với ốm đói và bệnh tật...!
Ngày về lang thang, mang theo một gia tài rách rưới trở về quê cha đất mẹ mong tìm lại cuộc sống bình an...!
Ra đi, anh chị mang trong mình nhiều hy vọng. Nay trở về, chỉ là màn đêm chờ đợi. Sự đau buồn đã cướp mất của anh chị cả đến những tia hy vọng cuối cùng.
Một tấm tranh lợp nhà còn không có, sức khỏe của anh cũng không còn như xưa, nước da xanh như tàu lá chuối.
May nhờ một ông chủ lò chén mướn anh làm một việc hết sức nhẹ nhàng, gần như là bảo vệ: trông coi nhà cửa. Hàng ngày chị đi gánh nước mướn tạm sống qua ngày. Ông chủ lò chén thương tình cất cho gia đình anh chị một căn chòi vách tre, mái lợp lá.
Thế là cũng đủ cho những kẻ nghèo mạt kiếp như anh chị và các con của mình có nơi dung thân tạm sống qua ngày.
Hàng ngày chị gánh nước đi ngang trường học. Thấy đám trẻ con hồn nhiên quá, vui quá, những tiếng đánh vần bi bô cứ vang lên từng ngày, nghe mà nao lòng lắm.
Có đêm chị nằm mơ thấy hai đứa con chị cãi nhau về kết quả của một bài toán. Chị còn thấy đứa con gái lớn của chị đọc thuộc lòng một bài thơ mà ban sáng, chị nghe trong một lớp học nào đó, đám học sinh đọc thật to...
Giật mình tĩnh giấc, nước mắt chị ràn rụa, thấm ướt cả chiếc gối kê đầu: con chị còn chưa đánh vần nỗi một chữ cái đầu. Hóa ra kết quả của một bài toán, và tiếng đọc thơ của con chị chỉ là niềm mơ ước cháy bỏng tâm hồn người mẹ, làm chị xót xa đoạn trường, đã theo chị đi và từng giấc ngủ như thế…
Chị bàn với anh, thôi thì gia đình có nghèo, sự lận đận, anh chị cố gắng mà chịu. Dù sao kinh tế gia đình đã có phần ổn định, đã có thể lo cho con đi học, chắc chắn không đầy đủ như con người ta, nhưng được đi học, sau này chúng nó không tủi thân.
Vậy là chị lại nắm tay các con dẫn tới trường học. Nhưng chị có ngờ đâu, con chị đã qua cái tuổi học lớp một rồi. Tuy vậy, con trai chị vẫn được nhận vào lớp một.
Hết cách, chị đưa con gái vào trường bổ túc văn hóa. Ngay năm đầu tiên, các con đã đem về cho anh chị những niềm vui quá bất ngờ, quá lớn lao, có sức an ủi làm mát lòng cha mẹ chúng: Con gái anh chị chỉ một năm học đầu tiên đã học đúp hai lớp, lớp một và lớp hai. Còn cháu trai được xếp hạng nhì, đem về nào phần thưởng, nào giấy khen. Nhận giấy mời đến trường dự lễ phát thưởng của con mình, anh chị như có phần trút bớt nỗi lầm lũi, bớt tủi thân.
Cháu gái con anh chị, sau khi đi học hai năm, đã học hết chương trình cấp một. Tin vào sự thông minh của con mình, cuối năm lớp sáu, anh chị làm đơn xin chuyển trường cho con từ bổ túc sang trường phổ thông. Người ta chấp nhận. Hết năm lớp 12, con gái anh chị thi vào Ðại học Sư phạm. Ngày cô chị bắt đầu vào đại học, thì cũng là ngày cậu em lên lớp 10. Cô chị tốt nghiệp đại học, cậu em cũng tốt nghiệp phổ thông…
Cô con gái của anh chị sau vài năm đi dạy học, đã có người yêu. Vô cùng may mắn, người yêu của cô là một người Công Giáo, cũng dạy học như cô.
Kể từ khi con gái làm bạn với người Công Giáo, bỗng dưng cảm thức đức tin ngày xưa trở lại trong lòng chị. Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, cụm từ "người Công Giáo", đối với chị đã trở thành xa vắng từ lâu, đức tin đã tắt ngúm, bây giờ bỗng le lói.
Chị nhớ lại, ngày xưa chị cũng đã từng theo mẹ đến nhà thờ. Lớn lên chị cũng đã từng mặc áo dài tha thước đi dự lễ ngày Chúa nhật. Thế là chị quyết định cho con theo đạo lập gia đình.
Ðiều khó khăn chị gặp phải lúc này là anh không đồng ý quyết định của hai mẹ con. Chị lén chồng đưa con tới nhà thờ gặp linh mục. Chị đã thật thà kể hết mọi chuyện trong gia đình của mình cho linh mục nghe.
Vị linh mục quyết định đến thăm gia đình anh chị. Lần đầu tiên cả gia đình còn ngại, xa cách linh mục. Nhưng cuối cùng, anh đã chấp nhận cho con theo đạo, và chấp nhận làm phép chuẩn với chị để chị thong dong giữ đạo...
Sau bao nhiêu năm trời xa cách, vị linh mục đã coi sóc nhiều giáo xứ. Bây giờ vị linh mục trẻ ngày xưa cũng đang vào tuổi già, bất ngờ thăm lại gia đình anh chị.
May mắn, anh chị vẫn còn ở ngôi nhà xưa, nhưng khang trang, sạch sẽ. Giờ đây anh chị cũng đã già, nhưng cả hai vẫn còn khỏe mạnh. Gặp lại vị linh mục ân nhân ngày nào, anh chị mừng mừng tủi tủi, xúc động tràn lên khóe mắt...
Vị linh mục còn nhận thêm một tin vui lớn hơn tất cả mọi niềm vui. Chắc chắn, đó là việc Chúa thực hiện để chúc lành cho gia đình này: Vài năm sau khi lãnh nhận phép chuẩn, chính anh đã tự ý xin học đạo.
Cậu con trai của anh chị, ngày xưa anh từng tuyên bố, nó là con đích tôn, phải lo giữ đạo ông bà. Vậy mà trong thời gian học giáo lý, anh cũng đưa cháu theo, cả hai cha con cùng ngồi chung bàn học giáo lý. Giờ đây, cả nhà, từ anh chị đến con cháu, dâu rể đều là Kitô hữu...
Các con của anh chị đã ổn định cuộc sống. Anh chị sống chung trong căn nhà xưa với người con trai và nàng dâu của mình. Người con gái và chàng rể có nhà mới cách xa chừng vài trăm mét. Anh chị có đến sáu cháu nội ngoại và hai cháu cố. Một cháu nội và hai cháu ngoại của anh chị cũng mới lập gia đình vài năm nay...
Tuy không quá giàu có, các con của anh chị sống thảo hiếu với cha mẹ chúng. Tiếc là khi vị linh mục đến thăm, không gặp lại các cháu và dâu rể của anh chị vì tất cả đều đi làm, phải đến chiều mới về.
Dù vậy, niềm vui vẫn tràn ngập trong gia đình anh chị. Mọi vất vả, mọi đau khổ ngày nào, tạo nên kết quả của ngày hôm nay, đã trở thành một kỷ niệm, một dấu ấn mà tâm khảm của mọi người trong nhà này không dễ xóa nhòa.
***
Nhớ lại đêm Phục Sinh năm ấy, khi chứng kiến chồng và con của mình lần đầu tiên trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Chúa Kitô, thành Con Thiên Chúa, đứng chung hàng ngũ cùng mọi người con của Hội Thánh Công Giáo, chị lại xúc động...
Còn vị linh mục lại thêm một lần xã tín, Chúa đâu chỉ phục sinh thân xác của mình, mà Chúa còn phục sinh trong cõi hồn con người để tái sinh, để đổ tràn đầy sức sống Phục Sinh của Ngài.
Từ ngàn xưa, đêm vọng Phục Sinh đã là đêm tưng bừng, đêm tràn ngập ánh sáng, cả Hội Thánh vui mừng trong khúc ca Alleluia mà ngợi khen Chúa.
Ðêm mà Thiên Chúa đi tìm con người, mang lên vai trở về để trao tặng tình yêu và ơn cứu độ (Lc 15, 5).
Ðêm mà mọi Kitô hữu vô cùng hân hoan diễn tả lòng yêu mến Chúa, sự tôn thờ Thiên Chúa của mình bằng những lời ca hay nhất, bằng những tiếng reo vang dội: "Vang lên muôn lời ca, ta ca tụng Chúa, vì uy danh Ngài cao cả".
Ðêm cực thánh, đêm đại lễ, xứng đáng là đêm của mọi đêm, lễ mẹ của mọi lễ. Chúa Kitô đã làm cho nấm mồ chôn xác Ngài trở thành huyệt mả chôn tội lỗi.
Chúa Kitô đã chỗi dậy, đã khải thắng, đã giết chết tử thần. Chính đêm nay Chúa Kitô phục sinh đã làm bừng lên sức sống mới.
Và trong đêm vô cùng thánh thiện của lễ Phục Sinh năm ấy, anh và con trai của anh chị bước lên cung thánh dỏng dạc tuyên xưng đức tin trước mặt cả cộng đoàn đông hàng ngàn người.
Dòng nước vừa mới làm phép xong, đã trở nên dòng nước thanh tẩy và thánh hiến.
Và gia đình anh chị là những người đầu tiên lãnh nhận ơn thánh hiến từ dòng nước mới ấy: Từ đêm Vọng Phục Sinh ấy, họ đã thuộc về Chúa Kitô. Tôi tin, trong đời sống của mình, họ đã từng chết cho tội lỗi để sống cho Chúa Kitô. Rồi khi quyết định nhận chìm quá khứ trong dòng nước của đêm khải hoàn, gia đình anh chị đã tái sinh.
Có người Công Giáo nào, sau nhiều năm lặn lội trong biển đời mênh mông, đức tin xem ra vuột mất, bị cuộc đời vùi dập, đức tin như chỉ còn là sợi chỉ mỏng như tơ chôn chặt thẳm sâu trong lòng, giờ đây có dịp bùng lên, lại không cảm thấy niềm an ủi tràn đầy, lại không cảm thấy cuộc đời quá đổi thiêng liêng, và như trút bỏ cả một gánh nặng lương tâm bấy nhiêu năm.
Dẫu đức tin đã trở thành như chỉ là kỷ niệm, thì cảm thức về một kỷ niệm như thế vẫn đủ để người ta nhận ra mình, vẫn đủ để thêm sức cho người ta trở lại với huyền nhiệm của tình yêu, một thứ tình không phải đến từ con người nhưng do Thiên Chúa rộng rãi trao ban.
Cũng vậy, thắp sáng trên tay ánh lửa lấy từ nến phục sinh, chính chị cũng đã nhận ra rằng, ngọn lửa đức tin mà bao năm tháng chỉ còn trơ một chút tàn, bỗng dưng bùng cháy, xóa tan mọi mặc cảm, xóa tan mọi bất bình an. Trong đêm mừng Chúa Phục Sinh vui mừng của năm ấy, chị đã khóc. Không còn là giọt nước mắt đau khổ của một thời nghiệt ngã gắn liền với ba chữ "kinh tế mới", nhưng là giọt hạnh phúc của tình yêu Thiên Chúa, của ơn Phục Sinh khải thắng trong chính tâm hồn, trong chính gia đình anh chị.
Ngày xưa chị cũng khóc. Nhưng giọt nước mắt của hai lần khóc khác nhau lắm. Giọt nước mắt bây giờ cứ tự nhiên rơi xuống trên làn môi đầm thắm và hạnh phúc, không còn là giọt đau xót ngẹn ứ và ảm đạm.
Ơn tái sinh quá diệu kỳ. Không chỉ hồi sinh sức sống của tâm hồn, mà còn trả lại cho con người biết bao nhiêu niềm thương, niềm bình an, thay cho những gì là thương đau chừng như giết chết con người trong vũng của thê lương bất hạnh.
Mới hay, khi con người tìm về tình yêu của Chúa, hoặc trở lại với tình yêu muôn đời bền vững ấy, họ sẽ nhận lại mọi phẩm chất, mọi giá trị, bất kể là sự sống của tâm hồn hay của thể chất.
Nguyện xin bình an của Chúa Kitô Phục sinh ở lại trong tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình anh chị.
Chúng ta cũng thế. Chúng ta cũng rất cần ơn tái sinh của Ðấng Phục Sinh, để bình an và sức sống mới của Ngài có khả năng biến đổi những gì còn khô cằn, còn mang dáng dấp sự chết trong ta thành ánh sáng của hoa trái thánh thiện. Vì thế nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ở lại trong cuộc đời mỗi chúng ta.