Những năm cuối cùng với Adrienne
Sau khi rời khỏi Dòng, Balthasar thực sự sống trên đường phố. Trước hết, ngài phải tìm kiếm một nơi nào đó để sống, và điều này có nghĩa phải ở ngoài Basel, vì sự hiện diện của ngài tại đó không được vị giám mục hoan nghinh. Qua sự giúp đỡ tốt của bạn bè, ngài được cung cấp một căn hộ trống tại Zürichberg, số 11 Đường Im Schilf, từ đó ngài chuyển đến số 51 đường Titlistrasse. Về phía Giáo hội, Đức Giám Mục của giáo phận Chur, Christianus Caminada, đã cho phép ngài cử hành Thánh lễ. và phần nào sau đó, được giải tội, và một lần nữa có thể tổ chức tĩnh tâm. Tuy nhiên, chỉ vào ngày 2 tháng 2 năm 1956, theo sự thúc giục của một số bạn bè giáo dân của ngài ở Zurich nhân dịp sinh nhật lần thứ 50 của ngài, ngài đã được gia nhập giáo phận Chur. Với việc gia nhập này, cuối cùng ngài đã có thể trở về Basel và chấp nhận lòng hiếu khách của Giáo sư Kaegi tại số 4 đường Münsterplatz, nơi ngài vốn có một phòng riêng từ năm 1952.
Mối quan tâm thứ hai, không kém phần nặng nề là phương tiện tài chính. Để kiếm sống và cung cấp tài chính cho công ty xuất bản, công ty đã tiêu xài nhiều hơn là kiếm tiền, ngài đã thực hiện nhiều vòng thuyết trình ở Đức. Tháng 2 năm 1950, ngài đến Tübingen, Bonn, Bad Honnef, Maria Laach (nơi ngài khấn lại các lời khấn dòng của ngài với vị đan viện trưởng, vì ngài không hề muốn bỏ cam kết này), Andernach, Koblenz, NeuWied, Cologne, Essen, Munster, Paderborn, Stuttgart (31). Mùa đông tiếp theo là các giảng khóa ở Freiburg, Bonn, Walberberg, Cologne, Düsseldorf, Hannover, Hamburg, Kiel, Göttingen, Marburg, Heidelberg, Baden-Baden, và vào đầu mùa hè năm 1952, '' “trong cái nóng oi ả", tại các trường đại học khác nhau của Đức.
Không thú vị gì, nhưng nó đang thu hút rất nhiều người. Ở Freiburg phải có đến khoảng một nghìn người. Thực sự đang có sự trống vắng, và bất cứ ai có những lời thích đáng đều có những người nghe đang hết sức khao khát Chúa Kitô.
Cuốn Die Gottesfrage des heutigen Menschen [Vấn đề Thiên Chúa dành cho con người ngày nay] gây ấn tượng về nội dung của những giảng khóa này. Trong khi đó, các buổi tĩnh tâm liên tục được tổ chức; vào năm 1950, bốn khóa ở Dussnang, Kerns, Colmar và Mainz. Sau đó người ta nhấn mạnh đến các cuộc tĩnh tâm dành cho các nhà thần học, và từ năm 1958 trở đi, có các cuộc tĩnh tâm dành cho Cusanus-Werk (các sinh viên ưu tú), mỗi lần từ bốn mươi đến tám mươi người tĩnh tâm tham dự.
Một số ghế đại học đã được đề nghị cho ngài: ngay trước khi ngài rời khỏi Dòng, ngài đã được mời để kế nhiệm Cha Guardini ở Munich. Khi một lời mời phát xuất từ Tübingen, Bộ Chủng Viện và Đại học đã ra lệnh lệnh cấm ngài giảng dạy vì đã bỏ một dòng tu. Dù sao, ngài cũng đã từ chối mọi lời mời này. Ngài đã không được thong dong khỏi cam kết này để thực hiện một cam kết nọ mà không khiến ngài phải xa rời sứ mệnh của mình. Chiếc ghế duy nhất mà ngài có thể chấp nhận, tại khoa triết học ở Basel, thì lại không bao giờ được đề nghị cho ngài, mặc dù Karl Barth đã mời ngài đến với khoa thần học (Thệ Phản). Một mục trong nhật ký của ngài trong mùa xuân năm 1954, cho thấy không khí của thời kỳ này.
“Nhiều khách khứa. Thỉnh thoảng có Reinhold Schneider, C. J. Burckhardt, Guardini, Heuss. Tôi vẫn còn căn phòng của mình ở Zurich. Tôi không được nhập giáo phận nào. Nhiều khóa — tĩnh tâm hoặc tuần học hỏi thêm — sau lễ Phục sinh, lễ Thăng thiên, vào tháng sáu, cuối tháng bảy, đầu tháng tám, ở Tây Ban Nha, rồi ở Louvain. Tôi không gặp Adrienne cho đến ngày 17 tháng 8 ở Paris. Từ đó chúng tôi đi đến St. Quay. Sau kỳ nghỉ hè, nhiều khóa học và hội nghị hơn. Thành thử, Adrienne được thong dong một mình khá nhiều. Năm nay, bà ấy đã thực hiện cuộc phẫu thuật cuối cùng ở Eisengasse. Bà ấy quá ốm đau không thể thực hiện nó tại nhà được nữa” (32).
Điều trên nghe giống như một cuộc sống bị phân mảnh khủng khiếp. Tuy nhiên, trong những năm của tuổi trung niên này, Balthasar đã tìm được tâm điểm thực sự của riêng mình. Nó bắt đầu với hai cuốn sách nhỏ, mà khi xuất bản chúng đã gây ra khá nhiều chấn động, và thậm chí cho đến nay vẫn được coi là cột mốc quan trọng trong sự phát triển tư tưởng của ngài: Der Laie und der Ordensstand [Giáo dân và Dòng tu] năm 1948 và Die Schleifung der Bastionen [San bằng các pháo đài] năm 1952. Vào năm 50 tuổi, ngài đã hướng Kleiner Lageplan zu meinen Büchern [Bản đồ nhỏ Các Sách của Tôi] của ngài vào tâm điểm này, và sau đó nhiều năm, Rechenschaft [Trách nhiệm giải trình], năng nổ và quan tâm đến bản thân hơn, bắt đầu từ tâm điểm đó. Vấn đề là Giáo hội ở trong thế giới, không phải việc tỏa sáng sự thánh thiện của Giáo hội vào thế giới trần tục, nhưng là việc dậy men thế giới từ bên trong để làm cho vinh quang của Thiên Chúa hữu hình, luôn tỏa sáng trong thế giới này. Balthasar nói rằng trung tâm của Giáo Hội là nơi người ta thường nhìn thấy ngoại vi: tức sứ mệnh thế tục của Giáo Hội. Đó là lý do tại sao các tường thành phòng thủ phải được san bằng và những đại lộ rộng rãi được xây dựng từ đống đổ nát. Sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới này phải được thực hiện bởi giáo dân, những người sống hoàn toàn trong thế gian. Nhưng, để có thể hoàn thành sứ mệnh đó, họ phải thực sự là ''muối"và là ''men". Họ phải sống ở tâm điểm của Kitô giáo, ở việc chịu nhục nhã vì Thập giá, ở việc cầu nguyện và từ bỏ mình. Ở đây Balthasar nhìn thấy vai trò của các viện thế tục, như được đề xuất vào năm 1947 bởi tông hiến Provida Mater [Đức Mẹ Lo Liệu], và như Cộng đồng Thánh Gioan cố gắng đem vào thực hành.
Mọi tranh luận của Balthasar đều xoay quanh tâm điểm đó. Chúng bắt đầu bằng các cuộc trao đổi vẫn còn khá hòa bình trong thời kỳ này về khái niệm tự nhiên và với Karl Rahner, về định nghĩa giáo dân. Sau đó, với một giọng điệu gay gắt hơn, có Friedlichen Fragen an das Opus Dei [Những Câu hỏi Thân thiện Đối với Opus Dei] (33) (Trong Schleifung der Bastionen [San bằng Pháo đài], ngài đã trưng dẫn Opus Dei như một thí dụ cho điều ngài muốn nói. Sau này, ngài nhẹ nhõm khi nghe nói hội này không còn tự coi mình như một viện thế tục nữa). Cuối cùng, có những cuộc tấn công gay gắt hơn về thời kỳ hậu công đồng, trong số này, Cordula [Dây thìa canh] được biết đến nhiều nhất. Cái hăng say (zelos) của nhà tranh luận này không chỉ là mặt trái của các dục lực (eros) thần học của ngài (hãy nghĩ Karl Barth có thể sẽ mỉa mai xiết bao!). Ngài cũng lo ngại rằng không nên từ bỏ hoặc che khuất mối liên kết không thể hủy tiêu giữa sứ mệnh của Kitô hữu trên thế giới và việc bắt chước Chúa Kitô bị đóng đinh — điều mà ngài gọi là "thử thách quyết định", nghĩa là làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc sống và đau khổ của mình.
Khi rời bỏ dòng tu của mình, Balthasar một lần nữa “ở trong đời”. Cuộc sống của ngài có tính thế tục của một Kitô hữu bình thường hơn là của một linh mục giáo phận. Ở đây, khi nhìn lại, có thể thấy rõ ý nghĩa sâu sắc hơn việc quyết định rời Dòng Tên, đối với sứ mệnh của ngài: phong cách sống và sứ mệnh trùng hợp với nhau nhiều hơn.
Đối với ngài, trọng tâm sứ mệnh của ngài nay rõi sáng cho công trình trước đây của ngài, kể cả công trình văn học.
Tất cả có thể là chuyện phiếm văn chương nếu nó không phục vụ cho một hoạt động giáo hội không tự lựa chọn hoặc tự bổ nhiệm. Đó là trọng tâm: mọi thứ khác, dù xẩy ra sớm hơn, đều được sắp xếp xung quanh nó (34).
Trong những năm mà chúng ta đang nói tới, ở trong đời, trước hết, có nghĩa là quan tâm đến việc con người trở lại với Chúa, như đã diễn tả trong Die Gottesfrage des heutigen Menschen [Vấn đề Thiên Chúa dành cho con người ngày nay]. Nhưng ở lại trung tâm Kitô giáo, trước hết, có nghĩa là cầu nguyện và chiêm niệm. "Hành động đó có ý nghĩa thâm nhập càng sâu, thì sự suy niệm càng phải đi trước và sau nó" (35). Đó là lý do tại sao nghĩa vụ chính của các thành viên của Schulungsgemeinschaft [Cộng đồng đào tạo] là phải dành “một ít thời gian vắn vỏi hàng ngày cho việc tĩnh tâm trước mặt Thiên Chúa, để suy niệm cầu nguyện”. Để giúp đỡ điều này, vào năm 1955, Balthasar bắt đầu một loạt ấn phẩm tại Johannesverlag có tên là Adoratio (Thờ Lạy). Chính ngài đã viết cuốn đầu tiên, Das betrachtende Gebet (Cầu nguyện Chiêm niệm). Điều đáng lưu ý, loạt sách này đã kết thúc sau bốn cuốn: không tìm được người cộng tác nào cho nó. Và vì vậy Balthasar liên tục thử các bộ sách mới: Lectio Spiritualis [Sách đọc Thiên liêng] (từ năm 1958), Beten Heute (Cầu nguyện Ngày nay] (từ năm 1972), Christliche Meister [Những bậc thầy Kitô giáo] (từ năm 1979). Ngay đầu năm 1948, cùng lúc với cuốn sách về các cộng đồng giáo dân, một tiểu luận đã ra đời sẽ xác định mãi hình ảnh của Balthasar trong nhiều năm tới: Theologie und Heiligkeit [Thần học và sự thánh thiện]. Sự tương phản viết trong đó giữa thần học “ngồi” và thần học “qùy” trở thành phương châm.
Vào thời điểm này, trong cuộc sống bản thân của ngài, Balthasar đã được đưa ngày càng sâu vào trung tâm của Kitô giáo, tức vào Thập giá. Đầu tiên là việc hợp tác với Adrienne, một điều, với thời gian, ngày càng đòi hỏi ngài nhiều hơn. Sau những bài bình luận Kinh thánh tuyệt vời phải ghi chép, có rất nhiều công việc thư ký tự nguyện được thực hiện. Vào đầu tháng 4 năm 1956, ngài báo cáo:
“Kể từ tháng Giêng, tôi đã sao chép một nghìn trang bản thảo: thư thứ nhất Côrintô, thư Côlôsê, và một cuốn sách về các bậc sống của Kitô hữu. Đối với tôi, tất cả đều xuất sắc theo cách riêng của chúng. Tôi cho rằng năm nay tôi sẽ phải tập trung vào công việc này nếu có bao giờ tôi có thể nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Tôi cũng phải suy xét nhiều điều trước khi 'tôi có thể đưa ra ý kiến riêng và chuẩn bị xuất bản nó”.
Tuy nhiên, ngài nhanh chóng nghĩ rằng mình có thể làm được vào thời điểm đó, công việc chưa bao giờ kết thúc đối với ngài. Ngay đến những năm cuối đời, ngài đã phải hy sinh những kỳ nghỉ của mình để hoàn thành nhiều bản thảo hơn. Ở bên Adrienne ngày càng có nghĩa là phải chăm sóc một người phụ nữ bị bệnh nặng. Trong những bức thư của mình, ngài nói đi nói lại: “Bà Kaegi bị bệnh rất nặng”. Kể từ năm 1940, bà bị bệnh tim, và với thời gian trôi qua, càng ngày càng phải chịu đựng nhiều đau đớn hơn. Một vài lần bà đã phải (hoặc được phép) trải qua cơn hấp hối, và từ năm 1954, bà không thể rời khỏi nhà ở Münsterplatz nữa.
Nhưng chính sức khỏe của Balthasar cũng bị ảnh hưởng. Từ đầu tuổi năm mươi, ngài liên tục bị bệnh giữa các chuyến đi thuyết trình hoặc tĩnh tâm khác nhau. Vào mùa thu năm 1957 - Albert Béguin qua đời vào tháng 5 – một tình trạng kiệt sức đã khiến ông suy sụp trong sáu tháng. "Tôi thực sự nghĩ mình đã bị suy sụp, nhưng bây giờ có vẻ như đang trở lại bình thường. Được quảng cáo về việc này cũng tốt thôi”.
Vào đầu mùa hè năm 1958, ngài bị viêm tĩnh mạch trong vài tuần, và sáu tháng sau, căn bệnh đã đánh gục ngài hoàn toàn và đưa ngài đến gần cửa tử. Tê liệt tứ chi được chẩn đoán chính xác là triệu chứng của dạng bệnh bạch cầu. Nhiều tháng dưỡng bệnh ở Montana-Vermala đã phục hồi sức khỏe cho ngài, nhưng trong nhiều năm sau đó, ngài sẽ bị ảnh hưởng bởi hậu quả của căn bệnh đó. Hai tay của ngài hoạt động rất kém, đứng và đi lại rất khó khăn.
Nhưng ngài không bao giờ ngừng làm việc. Trong những năm bị bệnh, ngài đã hoàn thành bản dịch thơ trữ tình của Claudel, dịch Great Theatre of the World (Nhà hát lớn của thế giới) của Calderon để trình diễn ở Einsiedeln (mặc dù cuối cùng, một bản văn khác đã được sử dụng), và trên hết, ngài bắt đầu lên kế hoạch cho bộ ba tác phẩm của ngài, tập đầu tiên trong số này ra đời năm 1961. Cuối năm 1958, lần đầu tiên ngài viết:
“Tôi đang cố gắng đem thẩm mỹ và thần học giáp mặt nhau. Đây là nỗ lực đầu tiên của tôi đối với những đỉnh cao này. Một chủ đề tuyệt vời, nhưng những ngày này ai là người đủ sức thực hiện nó? Eros (dục lực) từ đâu đã đi vào thần học và chú giải về Diễm ca, vốn thuộc tâm điểm của thần học?”
Thế nhưng, dù chưa hết bệnh, ngài đã lại lại ngập đầu với những công việc phụ. Chúng ta đang ở cuối năm 1960, thời kỳ lên cơn sốt chuẩn bị Công đồng Vatican II. Nên, nhiều việc nhỏ bất cứ loại nào cũng chỉ được cam kết rời rạc. Truyền thanh, truyền hình. Vội vội vàng vàng, quá nhiều khuấy động, chưa hết chuyện này đã đến chuyện khác. Thà ở trong một Nhà Tế bần [charterhouse] còn hơn.
Lúc này, làm sao ngài rút về Nhà Tế bần cho được. Tuy nhiên, ngài không được mời dự Công đồng, và vì vậy, bên cạnh phòng bệnh của Adrienne, ngài có thể tiếp tục viết cuốn Thẩm mỹ của ngài mà không bị quấy rầy. Đặc biệt, tập thứ hai, với mười hai nghiên cứu riêng lẻ, đã mang lại cho ngài rất nhiều niềm vui, nhưng cũng rất nhiều việc phải làm. Mỗi phần đều phải được thực hiện cẩn thận, mặc dù ngài có thể tổng hợp một số theo kế hoạch trước đây vốn là các phần riêng biệt — các chương về Denys, Dante và Péguy. Các tập đầu tiên của bộ tổng luận thần học này đã mang lại cho ngài nhiều danh dự vào ngày sinh nhật thứ sáu mươi của ngài: Thập giá Vàng của Núi Athos, và các bằng tiến sĩ thần học danh dự từ các trường đại học của Edinburgh, Munster, và sau một thời gian trì hoãn, Fribourg.
Trước khi ngài có thể kết thúc cuốn Thẩm mỹ, năm 1967, với căn bệnh hiểm nghèo của Adrienne, đã tạo ra một gián đoạn thứ hai trong cuộc đời ngài. Trong ba năm, bà đã gần như mù hoàn toàn. Giờ đây, với căn bệnh ung thư ruột, cơn hấp hối hết sức chậm chạp, hết sức nặng nề bắt đầu - "chết với máy đếm giọt, trong chuyển động chậm chạp" (36) từ tháng 6 đến tháng 9. Bà mất vào đêm 17 tháng 9 năm 1967 - một mình, như nhà dìu dắt trên trời của bà, Thánh Inhaxiô.
Đối với Balthasar, một giai đoạn mới của cuộc đời đã bắt đầu. Ngài chuyển từ Münsterplatz đến số 42 đường Arnold Böcklinstrasse, - và từ nay trở đi đã có thể di chuyển tự do hơn. Vào lúc này, ngài đã có đầy đủ khả năng hoàn tất cuốn Erster Blick auf Adrienne von Speyr [Cái nhìn đầu tiên về Adrienne von Speyr] và chuẩn bị để in cuốn đầu tiên trong số các tác phẩm chưa được xuất bản. Các thành viên của Cộng đồng Thánh Gioan rất ngạc nhiên, có thể nói là sững sờ, trước số lượng phong phú các đặc sủng của vị sáng lập của họ, mà khi vị này còn sống, họ chưa hề có một ý niệm nào. Trong hai mươi năm cuối đời, Balthasar đã cống hiến hết mình để vận động cho sứ mệnh của Adrienne được Giáo hội công nhận. Việc in tư nhân các tác phẩm chưa xuất bản đã gây cho ngài tốn phí rất cao; theo ước tính đầu tiên, ngài đã tiêu ít nhất 300,000 Đức Mã (37). Đối với các danh dự thần học và sự sự tín nhiệm ngày càng tăng của Đức Giáo Hoàng, ngài đều chuyển cho Adrienne. Đó là cách hiểu của ngài đối với mũ Hồng Y và lý do tại sao, mặc dù miễn cưỡng, ngài đã chấp nhận nó. Trở lại năm 1965, ngài viết:
"Công việc của bà và của tôi không thể tách rời nhau về mặt tâm lý hay thần học. Chúng là hai nửa của một tổng thể, với một nền tảng duy nhất ở trung tâm" (38). Vì vậy, trước khi chuyển sang những năm cuối cùng của đời ngài, chúng ta ít nhất phải có một cái nhìn vắn vỏi về công việc chung này.
Kỳ tới: Sự Nghiệp Hans Urs von Blathasar