Chúa Thánh Thần Như Hiệp Thông: Liên Quan Đến Mối Quan Hệ Của Thần Khí Học Và Linh Đạo Trong Thánh Augustinô
Joseph Ratzinger
Trở thành một Kitô hữu có nghĩa là trở thành hiệp thông và nhờ đó bước vào phương thức hiện hữu của Chúa Thánh thần.

Các chữ thần khí học [pneumatology] và linh đạo, cùng nhau tạo thành chủ đề của tôi, được gắn chặt với nhau theo nghĩa hoàn toàn chiểu tự. Điều này là bản dịch của điều kia. Việc này nói lên mối nối kết có tầm quan trọng nền tảng. Chúa Thánh Thần có thể được nhận biết qua cách trong đó Người hình thành ra sự sống của con người. Đời sống hình thành từ đức tin, ngược lại, là dấu chỉ Chúa Thánh Thần. Nói về “linh đạo Kitô giáo” có nghĩa là nói về Chúa Thánh Thần. Người làm cho Người được nhận ra bằng cách có được một trung tâm mới cho cuộc sống con người. Việc nói về Chúa Thánh Thần bao hàm việc nhìn vào Người nơi con người, là kẻ mà Người đã hiến mình cho.
Có một số khó khăn khi nói về Chúa Thánh Thần, thậm chí một mối nguy hiểm nào đó. Người rút lui khỏi chúng ta đi vào một mầu nhiệm thậm chí nhiều hơn chính Chúa Kitô. Rất có thể chủ đề này chỉ làm dấy lên những suy đoán không đâu và cuộc sống của con người đang được dựa trên những tưởng tượng tự tạo ra hơn là thực tại. Đây là lý do tại sao tôi ngần ngại chỉ đưa ra những suy tư của riêng mình. Dường như với tôi ba điều kiện phải được đáp ứng để nói một cách có ý nghĩa, một cách đáng tin cậy, và có thể biện hộ về Chúa Thánh Thần. Đầu tiên nó không thể là một cuộc nói chuyện dựa trên lý thuyết thuần túy, mà phải chạm đến một thực tại cảm nghiệm từng được giải thích và truyền đạt trong suy nghĩ. Nhưng kinh nghiệm một mình không đủ. Phải là một kinh nghiệm được thử nghiệm và trải nghiệm thì “tinh thần của chính mình” mới không thay thế Chúa Thánh Thần. Thứ ba: hậu quả là sự nghi ngờ sẽ luôn phát sinh khi ai đó nói về giải trình của chính mình, "từ bên trong." Lời nói như vậy mâu thuẫn với cách hiện hữu của Chúa Thánh Thần, vì Người được coi như “không nói theo ý mình” (Ga 16:13). Về phương diện này, tính độc đáo và sự thật có thể dễ dàng dẫn đến một nghịch lý. (1) Nhưng điều này có nghĩa là sự tín thác đó chỉ phù hợp khi người ta không nói trên bình diện một trình thuật hoàn toàn riêng tư, nhưng do một kinh nghiệm về Chúa Thánh thần đã được thử nghiệm trước và trong bối cảnh toàn bộ, nghĩa là khi người ta đặt kinh nghiệm “tinh thần” này dưới tính toàn thể của Giáo hội. Điều này giả định như một tiên đề của Đức tin Kitô giáo rằng chính Giáo hội là một sáng tạo của Chúa Thánh Thần - khi Giáo hội thực sự hiện hữu như Giáo hội.
Như thế, một cách xử lý thích hợp cho chủ đề của tôi bao gồm việc cô đọng những chứng nhân vĩ đại của Chúa Thánh Thần trong lịch sử Giáo hội thành những hướng đi cho sự sống trong Thần Khí. Vì thiếu công trình chuẩn bị cho việc này, tôi đành bằng lòng với việc bình luận về học thuyết Chúa Thánh Thần của Thánh Augustinô. (2) Điều này có nhược điểm ít liên quan hơn, nhưng lợi thế là một nhân chứng vĩ đại của truyền thống đang nói với chúng ta. Một ưu điểm khác là tính khách quan của nó. Điều sống còn sau khi bị 1,500 năm lịch sử sàng lọc như một biểu thức của đức tin chung và trở thành điểm khởi đầu cho cuộc sống trong Thần Khí có thể yêu cầu một mức độ hợp pháp nào đó. Chính Thánh Augustinô ý thức khá rõ về sự khó khăn của vấn đề. Ngài cũng đấu tranh với tính khách quan. Ngài tra vấn tính độc đáo và tín thác bất cứ điều gì có thể được tìm thấy một cách khách quan trong đức tin chung của Giáo Hội. Ngài tiếp tục cố gắng nắm bắt thực chất của Chúa Thánh Thần bằng cách giải thích tên thường được dùng của Người. Ngài không thăm dò chủ đề “Thần khí học và Linh đạo.” Đối với ngài, điều tra thần khí học, trong bản chất, là điều tra linh đạo. Các câu hỏi của ngài không phải là về sự việc mà là về những gì được định nghĩa như ánh sáng và tình yêu và do đó chỉ có thể được nhìn thấy bằng cách bước vào sự thánh thiện và ấm áp của chúng.
1. Danh xưng Chúa Thánh Thần như một dấu chỉ về Đặc Tính Độc đáo của Ngôi Ba trong Ba Ngôi
Như đã nói, Thánh Augustinô cố gắng nắm bắt diện mạo đặc thù của Chúa Thánh Thần bằng cách điều tra các tên truyền thống của Người, đầu tiên, là danh hiệu “Thánh Thần.” (3) Nhưng danh hiệu này trình bầy Người với một vấn nạn nan giải. Trong khi những cái tên “Cha” và “Con” làm sáng tỏ những gì là đặc điểm của Ngôi thứ nhất và Ngôi thứ hai của Chúa Ba Ngôi, danh xưng “Thánh Thần” không hỗ trợ việc trình bày tính đặc thù của Ngôi thứ ba như cho và nhận, tức là vừa là quà tặng vừa là sự tiếp nhận, là lời nói và trả lời—những đặc điểm hoàn toàn là một đến nỗi thống nhất chứ không phải lệ thuộc nảy sinh bên trong chúng. Ngược lại, mỗi Ngôi trong số hai Ngôi khác của Chúa Ba Ngôi có thể được đặt tên theo cách này. Trên hết, chính Thiên Chúa và như là Thiên Chúa có thể được đặt tên theo cách này vì Gioan 4:24 cũng nói: “Thiên Chúa là thần khí." Là thần khí và là thánh thiện là sự mô tả yếu tính về Thiên Chúa. Đó là những gì xác định Người là Thiên Chúa. Như thế, nỗ lực để đạt được một số loại hiểu biết cụ thể về Chúa Thánh Thần theo cách này chỉ khiến Người hoàn toàn không thể nhận ra.
Thánh Augustinô nhìn thấy nét đặc thù của Chúa Thánh Thần được diễn tả chính trong tiến thoái lưỡng nan này. Khi Người được đặt tên bởi những gì là thiên tính của Thiên Chúa, bởi những gì Cha và Con có chung, thì bản chất của Người chính là sự hiệp thông của Cha và Con. Tính đặc thù của Chúa Thánh Thần rõ ràng là: Người là điểm Cha và Con có chung. Tính đặc thù của Người là sự thống nhất. Tên tổng quát "Thánh Thần" là cách thích hợp nhất để phát biểu Người trong đặc trưng nghịch lý của Người — chính sự hỗ tương. Tôi nghĩ rằng chúng ta học được điều gì đó rất quan trọng ở đây. Sự trung gian Cha và Con đi đến sự thống nhất hoàn toàn không phải khi nó được nhìn trong consubstantialitas [tính đồng bản thể] phổ quát, hữu thể nhưng như communio [hiệp thông]. Nói cách khác, nó không phải bắt nguồn từ một bản thể siêu hình phổ quát nhưng từ ngôi vị. Theo bản chất của Thiên Chúa, nó có tính bản vị từ nội tại. Cặp hai trở lại hiệp nhất trong Ba Ngôi mà không làm gián đoạn cuộc đối thoại. Đối thoại thực sự được xác nhận theo cách này. Trung gian trở lại thống nhất vốn không phải là Ngôi khác sẽ phá vỡ cuộc đối thoại như một cuộc đối thoại. Thần Khí là Ngôi vị như sự hiệp nhất, sự hiệp nhất như Ngôi vị.
Từ cụm từ “Chúa Thánh Thần,” Thánh Augustinô đưa ra định nghĩa về Chúa Thánh Thần như communio. Điều này đã có một ý nghĩa tự căn bản có tính giáo hội học cho Người, như sẽ được xác nhận trong các tên khác của Chúa Thánh Thần. Nó mở thần khí học thành giáo hội học, và đảo ngược giáo hội học thành thần học. Trở thành một Kitô hữu có nghĩa là trở thành communio và do đó bước vào phương thức hiện hữu của Chúa Thánh Thần.
Nhưng điều đó cũng chỉ có thể xảy ra nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng vốn là sức mạnh của thông truyền, làm trung gian cho nó, làm cho nó có thể và chính Người là một Ngôi vị.
Thánh Thần là sự hiệp nhất được Thiên Chúa tự ban cho Người. Trong sự thống nhất này, Người tự hiến mình. Trong sự hiệp nhất này, Chúa Cha và Chúa Con hiến mình trở lại cho nhau. Thuộc tính nghịch lý và độc đáo của Chúa Thánh Thần là communio, có tính bản ngã cao nhất của Người chính trong việc hoàn toàn là chuyển động của communio. Do đó, trở thành “tinh thần”, trong yếu tính, luôn luôn phải có liên hệ với việc thống nhất hóa, thông truyền. Điều này có nghĩa Thánh Augustinô cũng đã bí mật thực hiện một duyệt xét quan trọng đối với ý niệm về tinh thần đúng nghĩa. Cùng một lúc, cũng diễn ra một chút siêu hình học về tinh thần. Ngài trích dẫn câu nói của Thánh Gioan “Chúa là thần khí” để đứng trong một ý nghĩa hữu thể học thuần túy. Tinh thần, theo ngài, trước nhất có nghĩa không phải là vật chất. Mặt khác, người ta có thể ngay lập tức phản bác cho rằng, trong Thánh Gioan, nó không hề liên quan đến điều này. Ở đó, chữ thần khí nói lên sự khác biệt của Thiên Chúa đối lập với các vấn đề thế gian. Đối lập với tinh thần không phải là vật chất mà là “thế gian.” (4) Người không có tính hữu thể học theo nghĩa Hy Lạp, nhưng có tính giá trị học [axiological], nhằm đặc tính chuyên biệt tôn giáo của Đấng Khác hoàn toàn và theo nghĩa này đề cập đến Chúa Thánh Thần như là một biểu thức của đặc tính tự xác định của Thiên Chúa, đến “sự thánh thiện” nói lên Đấng “Khác” này. Về nhiều mặt, đây là một sự đối lập triệt để hơn nhiều so với sự tương phản của tinh thần và vật chất, vì tinh thần cuối cùng cũng có thể có tính thế giới và không buộc phải bao gồm việc vượt ra ngoài toàn bộ thế giới bên trong. Nhìn vào toàn bộ cách giải thích của Thánh Augustinô, người ta có thể nói rằng ngài chấp nhận quan điểm này hoàn toàn, từ bỏ siêu hình học cổ xưa về tinh thần chính vì ngài phải giải thích Chúa Thánh Thần không phải một cách phổ quát và siêu hình học mà trên cơ sở của sự năng động giữa Cha và Con. Communio do đó trở thành một yếu tố yếu tính của ý niệm Chúa Thánh Thần, do đó thực sự mang lại cho nó nội dung và hoàn toàn bản vị hóa nó. Chỉ có một người biết "Chúa Thánh Thần" là gì, mới có thể biết tinh thần nghĩa là gì. Và chỉ có người bắt đầu biết Thiên Chúa là gì, mới có thể biết Chúa Thánh Thần là gì. Hơn nữa, chỉ có người bắt đầu có ý tưởng về Chúa Thánh Thần là gì, mới có thể bắt đầu biết Thiên Chúa là ai.
2. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu
Việc phân tích thần khí học Kinh thánh dẫn Thánh Augustinô đến luận điểm này: bên cạnh chữ “Chúa Thánh Thần”, các chữ “tình yêu” (caritas) và “hồng ân” (donum) nói đúng ra cũng là tên của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy bắt đầu với việc phân tích chữ tình yêu, đã dẫn Thánh Augustinô đến ý tưởng này. (5)
a) Bản văn trung tâm mà từ đó, Thánh Augustinô phát triển luận án của mình tìm thấy trong thư thứ nhất của Thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (4:16). Thánh Augustinô xác định rằng, trước hết và về cơ bản, tuyên bố này hoàn toàn liên quan tới Thiên Chúa như Ba Ngôi không phân chia nhưng vẫn nói lên đặc tính độc đáo của Chúa Thánh Thần. Trường hợp này tương tự như các chữ "khôn ngoan" và “lời” vốn phát biểu các phẩm tính của Thiên Chúa theo nghĩa tổng quát, nhưng trong Kinh thánh cũng ám chỉ Chúa Con theo một nghĩa chuyên biệt. Thánh Augustinô tìm thấy bằng chứng cho ý nghĩa của caritas trong đồng văn 1 Ga 4:7–16. (6) So sánh văn bản của câu 12 và 16b với câu 13 có tính quyết định đối với ngài: Câu 12: Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta... Câu 16b: Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu thì Thiên Chúa ở trong người ấy. Câu 13: Chúng ta nhận ra rằng chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta vì Người đã ban cho chúng ta thần khí Người.
Trong trường hợp đầu tiên, tình yêu mang lại sự tồn tại mãi mãi [abiding]; trong trường hợp thứ hai, tình yêu mang lại Chúa Thánh Thần. Trong những câu thơ trên, pneuma chiếm chỗ tình yêu và ngược lại. Hay theo nghĩa đen: “Chúa Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta, khiến chúng ta ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Nhưng tình yêu làm được điều này. Vì vậy, Người là Thiên Chúa, Đấng là tình yêu." Để làm sáng tỏ, Thánh Augustinô nói thêm điều này: Rm 5:5 nói rằng tình yêu của Thiên Chúa được tuôn đổ qua Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho chúng ta. Với tôi, những nhận xét này dường như chính xác về nguyên tắc. Hồng ân của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Hồng ân của Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa thông truyền chính mình trong Chúa Thánh Thần như là tình yêu. Đối với Thánh Augustinô, điều này tiết lộ một số kết luận quan trọng, có ý nghĩa. Trước hết là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, trong yếu tính, được công bố theo cách của tình yêu. Đó là tiêu chuẩn của Chúa Thánh Thần như trái ngược với tinh thần không thánh thiện. Trên thực tế, đó là sự hiện diện của chính Chúa Thánh Thần, và, theo nghĩa đó, là sự hiện diện của Thiên Chúa.
Ý nghĩa căn bản và trọng tâm của việc Chúa Thánh Thần là gì và Người thực hiện được gì cuối cùng không phải là “nhận thức” mà là tình yêu. Điều này làm cho khái niệm mở rộng về tinh thần, lời giải thích về nó là sự hiểu biết của Kitô giáo về tính khác biệt hoàn toàn của Thiên Chúa, thậm chí còn cụ thể hơn người ta thường tưởng tượng trước đây. Phải thừa nhận rằng, sự rõ ràng đầy đủ của tuyên bố này lần đầu tiên được đưa ra ánh sáng trong giáo hội học, nơi Thánh Augustinô buộc phải giải quyết câu hỏi thực tế: “Tình yêu nghĩa là gì như một tiêu chuẩn của Chúa Thánh Thần và do đó cũng như một tiêu chuẩn để trở thành Kitô hữu và của Giáo hội?”
Minh giải duy nhất quan trọng ngay lập tức phát xuất từ việc phân tích bản văn của Thánh Gioan: tiêu chuẩn căn bản của tình yêu - hoạt động đặc trưng của nó và do đó hoạt động đặc trưng của Chúa Thánh Thần - là nó tạo ra sự ngụ cư mãi mãi. Tình yêu tự chứng tỏ trong sự kiên định. Tình yêu không thể nhận ra ngay tại bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ trong một khoảnh khắc; thay vào đó, tình yêu cư ngụ mãi mãi, vượt qua sự dao động, và mang sự vĩnh cửu trong chính nó, điều này theo ý kiến tôi, cũng cho thấy mối liên hệ giữa tình yêu và sự thật. Yêu theo nghĩa trọn vẹn chỉ có thể hiện hữu khi sự kiên định hiện hữu. Nơi sự ngụ cư mãi mãi hiện hữu. Bởi vì tình yêu liên quan đến việc ngụ cư mãi mãi, nó không thể diễn ra ở bất cứ đâu ngoại trừ ở nơi có sự vĩnh cửu.
Từ đó xuất hiện khuôn khổ căn bản cho một học thuyết về việc biện phân các tinh thần và một hướng dẫn cho đời sống tâm linh. Một cách rõ ràng, bất cứ ai chỉ tìm kiếm pneuma [thần khí] ở bên ngoài, trong những điều luôn luôn bất ngờ, quả đang ở trên con đường sai lầm. Họ không đánh giá cao hoạt động căn bản của Chúa Thánh Thần: hợp nhất tình yêu đi vào ngụ cư mãi mãi. Điều này dẫn đến một quyết định có ý nghĩa to lớn: “Phải chăng pneuma chỉ được tìm kiếm ở dạng không liên tục hoặc nó cư ngụ chính trong ‘việc ngụ cư mãi mãi’, trong sự kiên định của lòng trung thành sáng tạo?” Nếu là vế sau, thì điều đó cũng có nghĩa là tinh thần không hiện diện ở nơi người ta nói “nhân danh mình” hoặc “tìm kiếm danh tiếng cho riêng mình”, do đó tạo ra bè phái. Pneuma hiện diện chính trong việc tưởng nhớ (Ga 14:26) và hiệp nhất. Chúng ta sẽ trở lại với những tuyên bố này, trong đó thần khí học, theo Thánh Augustinô, đã trở thành một chỉ thị hành động cụ thể. Nhưng trước tiên chúng ta hãy tiếp tục với phân tích của chúng ta.
b) Tôi muốn đề cập ngắn gọn đến đoạn văn thứ hai trong đó Thánh Augustinô nhận thấy quan điểm của mình đã được xác nhận, tức là chữ “tình yêu” trong Kinh thánh có ý đề cập cụ thể đến Chúa Thánh Thần. (7) Thánh Augustinô tương phản câu thứ bảy và câu mười sáu của thư 1 Ga 4 và tìm thấy sự xác nhận thêm cho sự tương phản giữa câu 16/12 và câu 13, trong cách giải thích hỗ tương của hai bản văn. Câu 16 nói rằng Thiên Chúa là tình yêu. Câu 7 viết: “Tình yêu phát xuất từ Chúa.” Tình yêu một mặt là “Thiên Chúa”, mặt khác "Từ Thiên Chúa." Nếu bạn đặt cả hai lại với nhau, tình yêu vừa là “Thiên Chúa” vừa “từ Thiên Chúa”; nói cách khác, tình yêu là “Thiên Chúa phát từ Thiên Chúa”. Cùng với đoạn trước, nó dường như giải thích một lần nữa rằng “Thiên Chúa phát xuất từ Thiên Chúa”— Thiên Chúa như sức mạnh xuất hiện và trở nên gần gũi, như sức mạnh của sự sinh hạ mới, một nơi đến mới cho con người nam nữ—là Chúa Thánh Thần và chúng ta có thể nhận được những gì từng được nói về agape như một việc làm sáng tỏ tương đương về điều Chúa Thánh Thần là gì.
3. Chúa Thánh Thần là Hồng ân
a)Tin mừng Gioan 4:7–14, tức là cuộc trò chuyện của Chúa Giêsu với người đàn bà Samari, là bản văn chính của Thánh Augustinô để trình bày chữ hồng ân (donum) như một danh xưng yếu tính của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xin nàng “hồng ân” nước để tự mạc khải như người ban nước tốt hơn. (8) “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” Đối với Thánh Augustinô, luận lý bên trong của bản văn này được hỗ trợ bởi lời hứa về nước trong Lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7:37). Thánh sử thêm vào đoạn này: “Chúa Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận.” (7:39). Thánh Augustinô tìm thấy lối chú giải thần khí tương tự về hồng ân nước hằng sống trong 1 Côrintô 12:13: “Tất cả chúng ta đã được ban cho thức uống của một Thần Khí.” Sự khẳng định này về Thần Khí dưới hình ảnh của nước, theo công thức trong Gioan 4 và Gioan 7, cung cấp cho Thánh Augustinô mối liên kết giữa Kitô học và thần khí học. Chúa Kitô là giếng nước hằng sống. Nghĩa là Chúa chịu đóng đinh là nguồn sinh ra sự sống cho thế giới. Giếng Thánh Thần là Chúa Kitô chịu đóng đinh. Từ Người, mỗi Kitô hữu trở thành giếng của Chúa Thánh Thần.
Điều cũng quan trọng là hiểu rằng tất cả sức mạnh của hình ảnh được nối kết với thần khí học. Cơn khát tột cùng của con người kêu cầu Chúa Thánh Thần. Người và chỉ mình Người là nước mát mà không có nó thì không có sự sống. Mầu nhiệm Chúa Thánh Thần trở nên hữu hình qua hình ảnh cái giếng và nước uống một cách khôn tả và không thể lấy lại được thông qua suy nghĩ, vì nước tưới tắm và biến đổi một sa mạc và gặp gỡ con người như một lời hứa mầu nhiệm. Cơn khát của con người trở thành cơn khát vô tận, triệt để, một cơn khát không bị dập tắt bởi bất cứ loại nước nào khác ngoài sự giải khát của nước đó. Trong bối cảnh này, Thánh Augustinô thừa nhận đã không theo đuổi mối liên kết giữa thần học về thập giá và thần học về lịch sử, vốn được đặc biệt đề xuất bởi Gioan 19 và có ảnh hưởng rộng rãi trong thần học giáo phụ đã được Hugo Rahner chứng minh thành công. (9)
Theo Thánh Augustinô, kết quả quan trọng thứ hai của mối liên kết giữa Gioan 4 và Gioan 7 là sự chắc chắn rằng tên hồng ân là tên của Chúa Thánh Thần ngõ hầu làm cho nền thần học (hay nói đúng hơn thần khí học) về việc cho đi và hồng ân thành khả hữu. Ngược lại, yếu tính của Thiên Chúa trong tư cách Chúa Thánh Thần cũng được giải thích bằng ý niệm hồng ân. Trên cơ sở này, giờ đây, Thánh Augustinô có thể làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Chúa Con và thần khí. Nói cách khác, ngài có thể trả lời câu hỏi về lý do tại sao Chúa Thánh Thần, Đấng cũng thực sự là “Thiên Chúa phát xuất từ Thiên Chúa,” cũng không phải là “Chúa Con”. Đâu là khác biệt ở đây?
Câu trả lời của Thánh Augustinô: “Người phát xuất từ Thiên Chúa không phải như được sinh ra nhưng như được ban cho (non quomodo natus, sed quomodo datus). Vì vậy, Người không được gọi là con bởi vì Người không được 'sinh ra' như 'con đầu lòng' cũng không được 'tạo ra' như chúng ta (neque natus... eque factus).” (10) Ngài phân biệt ba phương thức bắt nguồn từ Thiên Chúa: được sinh ra, được ban cho và được tạo ra (natus, datus, factus). Nếu ta có thể mô tả tốt nhất bản chất của Chúa Con, tư thế của Người đối với Chúa Cha, bằng khái niệm sinh sản, thì tư thế của Chúa Thánh Thần là “ban cho”. Chuyển động ban cho là chuyển động đặc biệt thánh thiện, thiêng liêng. Việc “được ban cho” (datus) này không nhằm mục đích trở thành một vị thế trung gian giữa việc được sinh ra và việc được tạo ra (natus và factus). Nó không hề xóa bỏ ranh giới phân cách tạo vật và Thiên Chúa nhưng vẫn ở trong thiên tính. Tuy nhiên, nó vẫn đại diện cho một sự mở ra với lịch sử và con người.
Thánh Augustinô đặt câu hỏi liệu Chúa Thánh Thần có hữu thể-hồng ân của riêng Người hay hữu thể của Người hoàn toàn xuất phát từ việc Người được “ban cho”. Liệu Người có một hữu thể độc lập với việc trở thành hồng ân và trước khi Người trở thành hồng ân, hoặc hữu thể của Người hệ chính ở chỗ là hồng ân của Thiên Chúa? Vị Tiến sĩ Hội Thánh phát xuất từ Hippo trả lời rằng Chúa Thánh Thần, trong yếu tính của Người, luôn là hồng ân của Thiên Chúa, Thiên Chúa như Đấng tự hiến, Thiên Chúa như Đấng tự phân phối, như một hồng ân. (11) Cơ sở bên trong của lịch sử sáng tạo và cứu độ đã nằm trong phương thức hiện hữu này của Chúa Thánh Thần, là donum [hồng ân] và datum [ban cho], thực sự, bắt đầu với lịch sử cứu độ, với việc Thiên Chúa tự hiến trọn vẹn, một điều, về phần nó, xuất hiện như cơ bên trong của sự sáng tạo. Một mặt, học thuyết “nội tại” về Chúa Ba Ngôi được mở hoàn toàn cho “nhiệm cục cứu độ” [economic]. Mặt khác, lịch sử cứu độ được quy chiếu trở lại thần học. Hồng ân của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Người là nội dung của lời cầu nguyện Kitô giáo. Người là hồng ân duy nhất thoả đáng dâng lên thiên tính. Thiên Chúa ban cho như Thiên Chúa không là gì khác hơn là Thiên Chúa, tự ban chính Người và với chính Người, mọi sự. Lời cầu nguyện thích đáng của Kitô hữu không cầu xin điều này hay điều khác nhưng xin hồng ân Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, cho mình.
Thánh Augustinô diễn đạt điều này một cách tuyệt vời bằng cách diễn giải như một lẽ tất nhiên lời cầu xin trong Kinh “Lạy Cha chúng con,”: “Xin Cha ban cho chúng con lương thực hằng ngày,” theo nghĩa Chúa Thánh Thần. Người là “bánh của chúng ta,” của chúng ta như một người không phải của chúng ta, như một điều hoàn toàn được ban cho. Tinh thần “của chúng ta” không phải là tinh thần của chúng ta...(12) Do đó, điều thực sự đáng kể là Thiên Chúa như hồng ân thực sự là Thiên Chúa; nói cách khác, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Độ chính xác cổ điển trong Công thức của Thánh Augustinô hầu như không thể dịch sang từ ngữ của chúng ta hoặc ý tưởng của chúng ta: “Ở đó (tức là với Chúa), không phải là một vị trí cấp dưới của được ban cho cũng không phải vị trí chúa tể của người ban cho mà là sự hài hòa (concordia) của người được ban cho và người cho.” Hơn nữa, điểm này xác nhận điều mà Thánh Augustinô trước đó lấy từ tên “Chúa Thánh Thần”: “Bởi vì Người là Đấng chung cho cả hai, tên riêng của Người là điểm chung của chúng. Câu tuyên bố này cũng thiết lập sự thống nhất bên trong của các danh xưng "tình yêu" và "hồng ân" với danh xưng chính là "Chúa Thánh Thần". Bằng cách này, ngài cho thấy tính hợp pháp của sự thống nhất này và việc tích nhập toàn bộ vào một giải nghĩa thống nhất.
4. Mở Vào Lịch Sử Cứu Độ
Như đã lưu ý, việc mở vào lịch sử cứu độ phát xuất bằng nhau từ các khái niệm tình yêu và hồng ân. Hai bản văn làm sáng tỏ và thậm chí rõ ràng hơn ý nghĩa của các liên kết này.
a)Trong De Trinitate 15.18.32, Thánh Augustinô phát triển ý nghĩa cánh chung của pneuma từ chức năng cánh chung của tình yêu trong tư cách thẩm phán. Caritas không chống lại công lý nhưng chính nó là sự phán xét. Tình yêu và một mình tình yêu là sự phán xét của Thiên Chúa. Tình yêu phân rẽ phải trái (Mt 25!). Người yêu thì đứng “bên phải” Người, còn người không yêu đứng ở bên trái. Không có tình yêu thì không có “điều tốt” nào là tốt cả.
Thánh Augustinô củng cố lập luận của ngài bằng cách hướng tới những vị rao giảng dường như mâu thuẫn với Tin Mừng, các thánh Phaolô và Giacôbê, thư gửi tín hữu Galát và thư Giacôbê. Theo Galát 5:6, cắt bì hay không cắt bì đều không đáng kể, chỉ có đức tin hành động qua tình yêu mới đáng kể mà thôi. Thánh Phaolô lặp lại một cách cô đọng những gì ngài đã nói một cách cảm kích trong thư 1 Côrintô 13:1–3: “Không có caritas [đức ái] thì mọi điều khác, đức tin, việc làm, chẳng là gì cả, tuyệt đối không là gì cả." Các thánh Phaolô và Giacôbê gặp nhau ở điểm này bởi vì khi đề cập đến đức tin làm việc thông qua tình yêu, Thánh Phaolô tách đức tin cứu rỗi, khí chất đức tin được thần khí linh hứng, ra khỏi đức tin không cứu rỗi mà ma quỷ cũng sở hữu (Gc 2:19). Thánh Augustinô nói, nếu không có tình yêu, đức tin có thể “hiện hữu nhưng không cứu rỗi,” esse non prod-esse, bằng tiếng Latinh không ai bắt chước được của giám mục Hippo.
Những tuyên bố này, nhằm giải thích caritas, tức pneuma, như phán xét cánh chung và do đó như dấu chỉ quyết định của đức tin Kitô giáo, làm nền tảng cho toàn bộ thần học bí tích và giáo hội học của Thánh Augustinô, mà tại thời điểm này được hợp nhất với thần khí học. Với niềm tin này, Thánh Augustinô đã đối đầu với những người theo lạc giáo Đônatô [Donatists]. Những người này có các bí tích giống như Giáo Hội Công Giáo, vậy sự khác biệt nằm ở đâu? Điều gì sai với những người theo lạc giáo Đônatô? Lưu ý tới tiền sử của sự phân rẽ, cũng như hình thức hiện đại của chúng, Thánh Augustinô trả lời rằng họ đã làm tan vỡ tình yêu. Họ đã rời xa sự thật đức tin bởi vì họ đã đặt ý tưởng về sự toàn thiện của riêng họ lên trên sự hợp nhất. Họ đã tuân giữ mọi điều thuộc về Giáo Hội Công Giáo ngoại trừ họ đã từ bỏ tình yêu khi họ từ bỏ sự hiệp nhất. Không có tình yêu mọi điều khác là trống rỗng. Chữ caritas ở đây nhận được một ý nghĩa rất cụ thể, mang tính giáo hội học, và trên thực tế, theo ngôn ngữ của Thánh Augustinô, nó hoàn toàn thâm nhập vào các ý niệm, vì ngài nói rằng Giáo hội là tình yêu. Điều này, theo một nghĩa nào đó, là một luận đề tín điều đối với ngài. Là công trình tạo dựng của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội là thân thể của Chúa được xây dựng bởi pneuma, và do đó cũng trở thành cơ thể của Chúa Kitô khi pneuma đào tạo những người đàn ông và đàn bà cho “communio” (hiệp thông). Sáng tạo này, Giáo hội này, là “hồng ân” của Thiên Chúa trên thế giới, và “hồng ân” này là tình yêu.
Nhưng, trong luận điểm tín điều này, Thánh Augustinô cũng nhìn thấy một đặc tính cụ thể. Chúng ta không thể xây dựng căn tính Kitô giáo của chúng ta trong các giáo phái, tách biệt với những giáo phái khác. Nếu điều này xảy ra, linh hồn của toàn bộ sẽ bị mất ngay cả khi một giáo phái có mọi bộ phận cá thể. Việc chấp nhận toàn bộ cộng đồng các tín hữu thuộc về căn tính Kitô giáo, tức là khiêm nhường, yêu thương (caritas), và chịu đựng lẫn nhau, vì nếu không sẽ thiếu Chúa Thánh Thần, Đấng thống nhất. Tuyên bố có tính tín điều “Giáo hội là tình yêu” không chỉ đơn thuần là một tuyên bố tín điều cho các sách giáo khoa, mà đề cập đến tính năng động tạo nên sự hợp nhất, tính năng động là sức mạnh giữ cho các Giáo Hội ở lại với nhau. Do đó, Thánh Augustinô nghĩ tới ly giáo như một ly giáo thần khí học, một ly giáo bén rễ cụ thể trong hành vi sống. Loại chính mình ra khỏi sự kiên định, vốn là thần khí, ra khỏi sự kiên nhẫn của tình yêu, là thu hồi tình yêu bằng cách thu hồi việc ngụ cư mãi mãi và do đó là bác bỏ Chúa Thánh Thần, Đấng là sự kiên nhẫn của việc ngụ cư mãi mãi, của việc hòa giải. Thánh Augustinô không khẳng định rằng bất cứ ai ở lại trong Giáo hội đều tự động có caritas, nhưng đúng hơn, bất cứ ai không sẵn lòng ở lại thì đã bỏ rơi caritas. Do đó ngài đề xuất: ta sở hữu Chúa Thánh Thần theo mức độ ta yêu mến Giáo Hội. Thần học Ba Ngôi là tiêu chuẩn đích thực của giáo hội học. Tên tình yêu như được ban cho Chúa Thánh Thần là chìa khóa cho sự hiện hữu của Kitô hữu và đồng thời diễn giải tình yêu một cách cụ thể như sự kiên nhẫn của Giáo hội. (13)
Để hiểu rõ hơn bảm tóm lược này của một cuộc tranh luận có tính giáo hội học và giáo hội học thần khí học của Thánh Augustinô, chúng ta nên nói thêm rằng niềm tự hào về một thiện toàn luôn lớn lao hơn hiện hữu không những chỉ ở chỗ bắt đầu. Các triệu chứng của sự phân rẽ này đã được đóng dấu bằng sự ghét bỏ cho rằng sự chẩn đoán nó là điều rõ ràng. Hạt giống của sự phân rẽ là việc rời xa cộng đồng yêu thương. Vài phát biểu của F. van der Meer, người đã mô tả một cách sống động trải nghiệm về lạc giáo Đônatô khi nó xuất hiện với Thánh Augustinô, sẽ làm sáng tỏ điều này:
Có tường trình cho rằng họ (những người theo lạc giáo Đônatô) đã phá hủy nơi mà một người Công Giáo đã từng ở. Và điều tồi tệ hơn, họ tạo ra những đám đông giận dữ, những nhóm công nhân giận dữ, những người có lẽ đã mơ ước một vương quốc trần gian của Thiên Chúa và là những người từng tấn công nhiều lần các cellae (xà lim) (kho thóc hoặc nhà kho) hoặc trang trại đơn độc, các căn nhà ở nông thôn, các nhà thờ và lâu đài của những người Công Giáo. Họ cướp đồ tiếp tế ở bất cứ nơi nào họ không được cung cấp, “ăn cắp đồ khô và làm rỗng chất lỏng,” đốt cháy vương cung thánh đường bằng sách và mọi thứ. Họ đã đối xử tệ với các giáo sĩ và sau đó, khi chính nghĩa của họ bị bác bỏ, họ đã ném vôi và giấm vào mắt người Công Giáo để làm họ ra mù lòa, “điều mà thậm chí không diễn ra với những kẻ man rợ.” Họ cũng không quên đòi lại giấy nợ, phá vỡ hợp đồng, tống tiền việc giải phóng những kẻ vô dụng khủng khiếp nhất trong số nô lệ, và khi cần thiết, đưa một lãnh chúa kháng cự vào máy xay guồng [treadmills]. (14) Vì vậy, chúng ta phải thừa nhận rằng sự đồng nhất hóa giữa Giáo hội và tình yêu cũng có những nguy hiểm của nó, bất kể việc lý luận sâu sắc nhất có cơ sở bao nhiêu và bất kể nó được tiến hành một cách khả niệm ra sao. Điều chắc chắn là sự biến đổi tinh thần và tình yêu theo nghĩa giáo hội giải quyết được một mặt của vấn đề. Nhưng nó cũng có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm và có tính hạn chế. Những mối nguy hiểm này phát sinh khi việc chỉ danh Giáo hội như tình yêu không còn cho phép việc kết nối nó với Chúa Thánh Thần trở thành tiêu chuẩn thực sự của Giáo Hội (như một yêu cầu thực tế) nhưng thay vào đó xuất hiện như một nội dung hiển nhiên của định chế. Trong trường hợp này, sự cứng ngắc nẩy sinh, một vấn đề mà Thánh Augustinô sau này đề xuất và sau đó dẫn đến việc làm cứng ngắc đầy nguy hiểm các lập trường trong Giáo hội trong thời Trung cổ và hiện đại.
Có lẽ cũng vì trong các phong trào dị giáo của thời Trung cổ và Cải cách, mà Chúa Thánh Thần bị coi gần như trong tương phản với Giáo hội định chế. Việc chống đối tái xuất trong thời chúng ta giữa pneuma và định chế nói lên một chủ nghĩa lãng mạn không còn liên quan cả trong lĩnh vực trần tục. (Nước Đức đã trải nghiệm một cách cảm kích, chỉ trong thế kỷ này, sức mạnh của các phong trào lãng mạn hủy hoại tinh thần và thể xác.) Giải pháp thay thế sai lầm này càng không có khả năng đương đầu với vấn đề Giáo hội và Chúa Thánh Thần. Ngày nay, “Giáo Hội chính thức” hay “Giáo Hội Công Giáo thực nghiệm” được coi là phản đề của “thần khí”. Thánh Augustinô sẽ phủ nhận điều này và bác bỏ nó như một sự hiểu lầm về Giáo hội, có thể được tha thứ nơi người ngoại đạo, nhưng không thể tha thứ nơi tín hữu. Giáo Hội, người phân phát các bí tích và giải thích lời Chúa bằng cách lắng nghe thì không phải chỉ là “Giáo Hội Công Giáo thực nghiệm”. Giáo Hội không thể bị chia thành “tinh thần” và “định chế”. Giáo Hội là nhà của Chúa Thánh Thần, hữu hình và “thực nghiệm,” trong các bí tích và trong lời Chúa. Chúa Thánh Thần được ban cho chính trong cộng đồng cụ thể của những người dẫn khởi từ Chúa Kitô sự hỗ trợ và chịu đựng lẫn nhau. Ý tưởng cho rằng Chúa Thánh Thần chỉ xuất hiện trong các vụ đột xuất không liên tục và không thường xuyên của các nhóm tự giáo dục sẽ không thể tưởng tượng được đối với Thánh Augustinô. Theo Thánh Augustinô, ai chỉ tìm Chúa Thánh Thần ở bên ngoài, là hiểu sai hoạt động căn bản của pneuma: tình yêu thống nhất bước vào sự ngụ cư mãi mãi. Nhưng điều này mở ra một phương thức thay thế có ý nghĩa quyết định: “Phải chăng thần khí chỉ ở dạng không liên tục, hay chính là ở hồng ân đã được trao ban?”
b) Trong bối cảnh này, cách giải thích của Thánh Augustinô về thần khí học của Ep 4:7–12 là điều quan trọng. (15) Tại đây, ngài khám phá ra khái niệm Chúa Thánh Thần như sự giải thoát và sự phát triển của “hồng ân” trong các ơn phúc mà Thánh Phaolô, trong số những điều khác, gọi là “đặc sủng”—nói cách khác, những câu hỏi từng đóng vai trò quyết định trong quan điểm đương thời coi pneuma như phản đề của "định chế."
Thánh Augustinô bắt đầu với những lời trích từ thư gửi tín hữu Êphêsô: “Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói : ‘Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người’” (Ep 4:7–8 liên quan đến Thánh vịnh 67:18). Đối với Thánh Augustinô, chữ chủ chốt “hồng ân” xác định bản văn có tính thần khí học. Nó cũng cung cấp cho ngài một cơ hội giảng dạy đầy ấn tượng về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Các ơn phúc của Chúa Thánh Thần, trong đó, cuối cùng, chính Chúa Thánh Thần là hồng ân, là hồng ân của Chúa Kitô chiến thắng, hoa trái của chiến thắng của Người, của việc Người lên trời với Chúa Cha. Hai cách đọc mâu thuẫn nhau đoạn văn trong đó bản Phổ Thông dẫn giải Thánh vịnh 67 rất quan trọng đối với Thánh Augustinô. Cách đầu tiên viết: “Bạn nhận được các ơn phúc nơi con người,” và cách thứ hai (mà Tân Ước tuân theo):
“Người ban các ơn phúc cho con người.” Đối với Thánh Augustinô, sự tương phản ở đây cho thấy sự mơ hồ của chính mầu nhiệm Kitô học. Chúa Kitô, đấng đã thăng thiên, cũng vẫn là đấng đã giáng thế. Người đứng ở cả phía Thiên Chúa ban cho và những người nam nữ nhận lãnh. Người là đầu và là thân thể, đấng cho đi từ phía Thiên Chúa và nhận lãnh từ phía nhân loại. Một lần nữa, đây là điều kết hợp giáo hội học và Kitô học. Trong Giáo hội, Người vẫn là người đi xuống. Giáo Hội là Chúa Kitô như đấng đã giáng thế, một sự tiếp nối nhân tính của Chúa Giêsu Kitô.
Thành thử, ở đây, Thánh Augustinô tập trung chủ yếu vào mối liên hệ giữa Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần và Giáo hội như được trình bày trong bản văn. Ngài không tập trung quá nhiều vào những ơn phúc cá nhân được đề cập trong Tân Ước đúng nghĩa, mà đúng hơn vào sự kiện này là trong tất cả những ơn phúc đó, hồng ân— là chính Chúa Thánh Thần— đã được ban cho. Hơn nữa, Thánh Augustinô vẫn trung thành với văn bản và trích dẫn chính xác thư 1 Côrintô 12:11 như một bản song hành để hỗ trợ quan điểm của ngài: “Nhưng chính một và cùng một Chúa Thánh Thần tạo ra tất cả những ơn phúc này, phân phát chúng cho mỗi người như Người muốn. Nhưng nếu những ơn phúc này cuối cùng chỉ là một hồng ân duy nhất dưới nhiều hình thức khác nhau, tức là Thần Khí của Thiên Chúa, và nếu Thần Khí là món quà của Chúa Giêsu Kitô (mà Người ban cho và nhận lãnh nơi những con người nam và nữ), thì tính cứu cánh nội tại cuối cùng của tất cả các ơn phúc là sự hợp nhất. Như thế, một cách khá hợp lý, đoạn văn liên quan trích từ thư gửi tín hữu Êphêsô kết thúc bằng cách đặt thành mục tiêu cuối cùng rằng tất cả những điều này là “vì mục đích xây dựng thân thể Chúa Kitô.”
Điều này đưa Thánh Augustinô trở lại với giáo hội học yêu thích của ngài và ý niệm thần khí học, ý niệm xây dựng, ý niệm ngụ cư mãi mãi, ý niệm hợp nhất, ý niệm tình yêu. Ngài tìm thấy ở đây một khả thể sử dụng nó một cách mới, được ngài làm sáng tỏ bằng cách thêm Thánh vịnh 126:1: “Nếu Chúa không xây cất nhà...” Ngài định vị Thánh vịnh trong lời tiên tri hậu lưu đày, liên quan đến việc xây dựng một ngôi nhà “sau khi bị giam cầm.” Chữ chủ chốt, “giam cầm,” kết nối Tv 67 và Ep 4: Chúa cầm tù, giam cầm và ban ân huệ. Ơn phúc của Người là Chúa Thánh Thần, và Chúa Thánh Thần là tòa nhà cuối cùng có thể diễn ra sau khi bị giam cầm. Điều này gián tiếp đụng đến vấn đề tự do. Việc cầm tù, giam cầm, mà trước đây cản trở việc xây dựng, là ma quỷ. Ngược lại, ma quỷ là nơi giam cầm, nô lệ, đày ải của con người, một sự dụ dỗ xa rời bản ngã. Các phân tích nhân chủng học của The Confessions [tự thú] cũng có thể được nghe ở hậu cảnh. Nếu một con người bị cám dỗ xa rời chính mình, họ lang thang không mục đích vào sự trống rỗng. Chính trong vẻ ngoài tự do này, họ là kẻ lưu đày, kẻ tù nhân, tội tội phạm. (16) Một lần nữa, Thánh Augustinô không chỉ nói về cơ sở của một lý thuyết tín điều hoặc triết học nhưng từ kinh nghiệm của cả đời ngài. Trong nguyên lý bất xác định [indeterminacy], trong sự tự do biểu kiến của một hiện hữu trong đó, mọi thứ đều có thể nhưng không có gì là có ý nghĩa, họ bị nô dịch. Họ bị lưu đày khỏi chính bản thân mình và bị bắt giữ bởi sự không liên kết hoàn toàn, dựa trên sự khuyết diện của bản thân và sự tách biệt khỏi sự thật của chính nó. Mặt khác, ơn phúc của Chúa Kitô chiến thắng là việc trở về nhà và do đó làm cho việc xây dựng ngôi nhà trở nên khả hữu, và ngôi nhà được gọi là “Giáo Hội.”
Ở đây chủ đề tinh thần như tự do và giải phóng rõ ràng có liên hệ. Mặc dù nghịch lý với tư tưởng đương thời, tự do hệ ở việc trở thành một phần của ngôi nhà, được bao gồm trong tòa nhà. Ý tưởng này không phải là nghịch lý với viễn ảnh của khái niệm cổ xưa về tự do. Đối với người xưa, bất cứ ai thuộc về nhà đều tự do, và tự do là tìm được một ngôi nhà. (17) Thánh Augustinô giả định khái niệm xã hội cổ xưa này về tự do, nhưng sau đó dứt khoát vượt qua nó để phù hợp với Niềm tin Kitô giáo. Tự do đứng trong một mối liên hệ không thể tan hòa với sự thật, đó là cách chân chính của con người để tìm một ngôi nhà. (18) Con người chỉ tự do nếu họ ở nhà, tức là, nếu họ ở trong sự thật. Một chuyển động khiến con người xa rời chân lý của bản thân mình, xa rời chính sự thật, không bao giờ có thể là tự do vì một chuyển động như vậy hủy hoại con người, vong thân họ khỏi chính họ, và do đó lấy đi của họ lĩnh vực chuyển động riêng của họ, trong đó họ có thể trở thành chính họ. Đó là lý do tại sao ma quỷ là sự giam cầm, và đó là lý do tại sao Chúa Kitô phục sinh, Đấng quan tâm đến con người và xây họ vào nhà, là dự giải thoát. Cuối cùng, đó là lý do tại sao các ơn phúc cá thể của Chúa Thánh Thần, các đặc sủng, có thể hội tụ trong ý niệm xây dựng.
Trong đoạn văn này, Thánh Augustinô rút chữ chủ chốt "xây dựng" từ học thuyết về các đặc sủng. Như đã nói trước đây với mối liên hệ giữa Giáo hội và tình yêu, sự “thu hẹp tầm nhìn” như vậy có những mối nguy hiểm của nó. Nó có thể dẫn đến việc bỏ qua các hoạt động đa dạng của Chúa Thánh Thần để ủng hộ lòng trung thành đối với các quy tắc đã định, các quy tắc mà cuối cùng có thể được đồng nhất hóa với Chúa Thánh Thần. Về khía cạnh này, những bản văn này không cung cấp một thần khí học có giá trị phổ quát cũng như một giáo huấn hoàn toàn quân bình về linh đạo Kitô giáo. Nhưng chúng quả có thực hiện một sự đóng góp, và việc áp dụng Kinh thánh này thực sự khá phù hợp vào thời của Thánh Augustinô. Sự dư dật của các đặc sủng hầu như không tồn tại trong giáo phận của Thánh Augustinô; do đó, vấn đề khác với vấn đề của Côrintô của Phaolô. (Tình cờ, Thánh Phaolô cũng kết luận rằng sự xây dựng hay tình yêu thương là đặc sủng quan trọng nhất và đặc biệt quan trọng đối với mọi người, sau đó mới là lời tiên tri hoặc tuyên bố dễ hiểu. (19) Bỏ qua chuyện đó, Thánh Augustinô kêu gọi một cách chính đáng đặc sủng cần thiết cho một Giáo hội bị xâu xé bởi lòng căm thù và sự óc bè phái—đặc sủng cùng cộng tác để xây dựng sự hiệp nhất của Giáo hội. Và ngài đứng hoàn toàn về phía Thánh Tông đồ khi ngài cương quyết nhìn thần khí một cách tích cực—trong chữ Có khiến con người trở thành “một ngôi nhà” và kết liễu “sự giam cầm”. “Ngôi nhà” là sự tự do, không phải là sự phân tán. Hoạt động của Chúa Thánh Thần là “ngôi nhà,” việc ban tặng ngôi nhà. Hợp nhất. Vì Chúa Thánh Thần là tình yêu.
Communio 25 (Hè 1998). © 1998 by Communio: International Catholic Review. Bản tiếng Anh của Peter Casarella
1 Xem EM Heufelder, Neues Pfingsten [Lễ Ngũ Tuần Mới], ấn bản 2. (Meitingen-Freising, 1970), đặc biệt 51; J. Pieper, Ueberleifung [ (Munich, 1970) 38ff; 97–108. Chủ đề ban đầu của tôi chỉ đơn giản là “Thần khí học và Linh đạo.” Lý do hạn chế chủ đề theo cách này đã được trình bầy trong phần giới thiệu.
2 Giới hạn này không nhằm mục đích lịch sử mà chỉ nhắm vào câu hỏi thần học về những gì có thể học được từ Thánh Augustinô ngày nay. Tôi đã có ý tránh đi vào cuộc thảo luận lịch sử về thuyết Chúa Ba Ngôi của Thánh Augustinô. Về câu hỏi này, xem thư mục trong C. Andresen, Bibliographia Augustiniana [Thư mục về Thánh Augustinô](Darmstadt, 1962), 78–80 và các thư mục hiện có của Revue des Études Augustiniennes (Tạp chí Nghiên cứu Thánh Augustinô]. Về phương diện này, người ta cũng có thể nhắc đến M. Schmaus, Die psychologische Trinitätslehre des heiligen Augustinus [Học thuyết Tâm lý về Chúa Ba Ngôi của Thánh Augustinô], ấn bản 2. (1967); A. Dahl, Augustin und Plotin [Thánh Augustinô và Plotin](Lund, 1945); O. du Roy, L’intélligence de la foi en la trinité selon St. Augustin. Genèse de sa théologie trinitaire jusqu’en [Cái hiểu của niềm tin vào Chúa Ba Ngôi theo Thánh Augustinô. Nguồn gốc của thần học Ba Ngôi của ngài cho đến khi] (Paris, 1966), 391; cũng như ấn bản có bình luận của De Trinitate [về Ba Ngôi] trong Bibliothèque Augustienne, Oeuvres de St. Augustin [Thư mục Augustinô, Các Tác phẩm của Thánh Augustinô], tập 15 (M. Mellet, Th. Camelot, E. Hendrikx) và tập 16 (P. Agaesse, J. Moingt), được trích dẫn là Oeuvres tập 15 và tập 16.
3 Thánh Augustinô, De Trinitate [về Chúa Ba Ngôi] 5.11.12-12.13. Xem cuộc bàn rộng của J. Moingt, “Les Noms du Saint-Esprit” [Các tên của Chúa Thánh Thần] trong Oeuvres, tập 16, 651–54.
4 Xem R. Schnackenburg, Das Johannesevangelium I [Tin Mừng Gioan I](Freiburg 1965), 474.
5 De Trin. [về Chúa Ba Ngôi] 15.17.27–18.32.
6 De Trin. [về Chúa Ba Ngôi] 15.17.31.
7 Sđd.
8 De Trin. [về Chúa Ba Ngôi] 15.19.33; xem 5.14.15–15.16.
9 H. Rahner, Symbole der Kirche [Biểu tượng Giáo Hội] (Salzburg, 1964), 175–235.
10 De Trin. [về Chúa Ba Ngôi] 5.14.15.
11 De Trin. [về Chúa Ba Ngôi] 5.15.16.
12“Spiritus ergo et Dei est qui dedit, et noster qui accipimus. Non ille spiritus noster quo sumus, quia ipse spiritus est hominis qui in ipso est: sed alio modo iste
noster est, quo dicimus et: ‘Panem nostrum da nobis’ (Mt 6:11). Quanquam et illum spiritum qui hominis dicitur, utique accepimus. 'Quid enim habes,' inquid 'quod non accepisti’(1 Cor 4:7)? Sed aliud est quod accepimus ut essemus, aliud quod accepimus ut sancti essemus.” (De Trin. 5.14.15).
13 Xem việc trình bày những ý tưởng này trong cuốn sách của tôi, Volk und Haus Gottes in Augustins Lehre von der Kirche [Con người và Nhà của Thiên Chúa trong Học thuyết của Augustine về Giáo hội] (Munich, 1954), 136–58.
14 F. van der Meer, Augustinus der Seelsorger [Augustinô mục tử](Cologne, 1951), 113. Xem toàn bộ phần, “Die pars Donati und die Ketzer,” [Phân tích Đônatô và những kẻ dị giáo] 109–63. Về bối cảnh lịch sử của Lạc giáo Đônatô: H.I. Mattou trong Geschichte der Kirche (Lịch sử Giáo Hội], tập. 1, biên tập. J. Daniélou và H.I. Marrou (Einsiedeln, 1953), 256–60; W.H.C. Frend, “Donatismus” [Lạc giáo Đônatô] trong Reallexikon für Antike und Christentum [từ điển chuyên môn về cổ thời và Kitô giáo], tập. 4, biên tập. Th. Klauser, 128–47.
15 De Tri. [về Chúa Ba Ngôi] 15.19.34.
16 Xem nhất là Thánh Augustinô, Tự Thú 8.5.12–12.30; đặc biệt là 7.16: “...retorquebas me ad me ipsum, auferens me a dorso meo, ubi me posueram.” xem bài bình luận của A. Soulignac trong Oeuvres, tập. 14:543 (“La psychologie augustinienne de la volonté” [Tâm lý học của Thánh Augustinô về ý chí]) và tập. 13:689–93 (“Regio disimilitudinis” [lãnh vực không tương tự]).
17 Xem nghiên cứu kỹ lưỡng của D. Nestle, Eleutheria: Studien zum Wesen der Freiheit bei den Griechen und im Neuen, [Nữ thần tự do (Eleutheria): Các nghiên cứu về bản chất của tự do nơi người Hy Lạp và trong Tân Ước] phần 1, Die Griechen [người Hy Lạp] (Tübingen, 1967); E. Coreth, “Zur Problemgeschichte menschlicher Freiheit,” Zeitschrift für katholische Theologie [Về lịch sử của vấn đề tự do con người,” Tạp chí Thần học Công Giáo] 94 (1972): 258–289; về chủ đề này, xem 264–68.
18 Về mối liên hệ giữa tự do và chân lý, xem E. Coreth, “Zur Problemgeschichte,” [ Về lịch sử của vấn đề tự do con người] 289.
19 Xem. H. Schlier, “Ueber das Hauptanliegen des 1: Briefes an die Korinther,” [Về mục đích chính của phần 1: Thư gửi tín hữu Côrintô] trong Die Zeit der Kirche [thời Giáo Hội], ấn bản 2 (Freiburg, 1958), 147–59; J. Ratzinger, “Bemerkungen zur Frage der Charismen in der Kirche,” [Những nhận xét về vấn đề các đặc sủng trong Giáo hội] trong Die Zeit Jesu: Festschrift für H. Schlier [Thời Chúa Giêsu: Số dành cho H. Schlier], biên tập. G. Bornkamm và K. Rahner (Freiburg, 1970), 257–72.