Nguồn cứ liệu thần học của các phong trào giáo hội



Chỉ khi người ta được Chúa Kitô tác động và mở toang các chiều sâu thẳm nhất của họ, họ mới có thể làm người khác xúc động từ nội thẳm, mới có thể hòa giải trong Chúa Thánh Thần, mới làm cho cộng đồng phát triển thực sự.



Trong thông điệp vĩ đại về truyền giáo, Redemptoris missio, Đức Thánh Cha nói:

“Bên trong Giáo Hội, có nhiều loại phục vụ, chức năng, thừa tác vụ và những cách cổ vũ đời sống Kitô hữu. Tôi nghĩ tới sự phát triển mới xảy ra ở nhiều giáo hội trong thời gian gần đây, sự phát triển nhanh chóng của "các phong trào giáo hội" đầy tính năng động truyền giáo. Khi những phong trào này khiêm nhu tìm cách trở thành cuộc sống của các giáo hội địa phương và được chào đón bởi giám mục và linh mục trong các cơ cấu giáo phận và giáo xứ, họ đại diện cho một hồng phúc của Thiên Chúa ban cho cả việc tân Tin Mừng hóa và hoạt động truyền giáo được gọi đúng cách. Do đó, tôi tiến cử để chúng được lan truyền và được sử dụng để cung cấp năng lực tươi mới, đặc biệt là trong giới trẻ, cho đời sống Kitô hữu và việc rao giảng Tin Mừng, trong một quan điểm đa nguyên về những cách trong đó các Kitô hữu có thể liên kết và tự phát biểu” (1)

Quả là một biến cố tuyệt vời đối với bản thân tôi khi tôi đến tiếp xúc gần hơn với các phong trào như Neocatecumenate [Tân Dự Tòng], Hiệp thông và Giải phóng, và Focolare và cảm nghiệm năng lực và sự nhiệt tình mà với chúng, họ đã sống đức tin và được thúc đẩy bởi niềm vui của họ trong việc chia sẻ với người khác món quà mà họ đã nhận được. Đó là vào đầu những năm 1970, thời điểm mà Karl Rahner và những người khác đang nói về một mùa đông trong Giáo Hội. Và dường như, sau sự nở rộ của Công đồng, sương giá đã lẻn vào thay vì mùa xuân, và sự mệt mỏi đó đang thay thế tính năng động. Tính năng động bây giờ dường như ở một nơi khác hoàn toàn, nơi người ta, dựa vào sức mình chứ không nhờ đến Thiên Chúa, đang bắt đầu tạo ra một thế giới tốt hơn cho tương lai. Việc một thế giới không có Thiên Chúa thì không thể tốt đẹp được, chứ đừng nói đến một thế giới tốt đẹp hơn, là điều hiển nhiên đối với bất cứ ai có con mắt để nhìn. Nhưng Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này? Trên thực tế, há Giáo hội đã không trở nên mệt mỏi và chán nản sau rất nhiều cuộc tranh luận và vì vậy tìm kiếm nhiều cấu trúc mới đó sao? Điều Rahner đang nói là hoàn toàn có thể hiểu được. Nó nói thành lời một kinh nghiệm mà tất cả chúng ta đều có. Nhưng đột nhiên đây là một điều không được ai lên kế hoạch. Có thể nói, ở đây, chính Chúa Thánh Thần đã chiếm diễn đàn. Đức tin đã được đánh thức trở lại chính trong giới trẻ, những người ôm lấy nó mà không có những chữ nếu, và, hoặc nhưng, mà không tránh né những cửa sập và lỗ hổng, và là những người đã trải nghiệm nó một cách tổng thể như một món quà quý giá, mang lại sự sống. Chắc chắn, nhiều người cảm thấy rằng điều này can thiệp vào các cuộc thảo luận trí thức của họ hoặc các mô hình của họ để tái thiết kế một Giáo Hội hoàn toàn khác theo hình ảnh riêng của họ -làm thế nào có thể khác được? Mỗi sự can thiệp của Chúa Thánh Thần luôn làm đảo lộn các kế hoạch của con người. Nhưng trước đây và hiện vẫn còn nhiều khó khăn nghiêm trọng hơn nữa. Vì những phong trào này đều cùng có chung những căn bệnh thơ ấu. Người ta có thể cảm nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong chúng, nhưng Chúa Thánh Thần luôn hoạt động thông qua con người và không hề giải phóng họ khỏi những điểm yếu của họ. Đã có các xu hướng độc quyền và phiến diện khiến chúng không thể hòa mình vào đời sống của các giáo hội địa phương. Được đà lực tuổi trẻ nâng đỡ, họ tin chắc rằng giáo hội địa phương, có thể nói như thế, phải tự nâng mình lên bình diện của họ, trong khi họ muốn giữ bản thân khỏi bị kéo vào một cấu trúc mà chắc chắn đôi khi thực sự gây khó chịu. Các va chạm nẩy sinh trong đó cả hai bên đều có lỗi theo những cách khác nhau. Điều trở nên cần thiết là suy tư về việc làm cách nào để liên hệ đúng đắn hai thực tại, sự thức tỉnh mới [Aufbruch] trong bối cảnh tình hình hiện nay, một mặt, và, mặt khác, các cấu trúc vĩnh viễn của đời sống Giáo Hội, giáo xứ và giáo phận. Ở một qui mô lớn, các vấn đề đang bị đe dọa là những vấn đề rất thực tế mà nội dung lý thuyết của nó không nên bị thổi phồng quá mức. Mặt khác, chúng ta đang bàn tới một hiện tượng tái diễn định kỳ dưới nhiều hình thức khác nhau trong suốt lịch sử của Giáo Hội. Có cấu trúc căn bản vĩnh viễn của đời sống Giáo hội, mang lại sự liên tục cho việc tổ chức Giáo hội trong suốt lịch sử, và có những đột xuất luôn đổi mới của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng hồi sinh và làm mới cấu trúc này. Nhưng sự đổi mới này hầu như không bao giờ xảy ra hoàn toàn không có đau đớn và va chạm. Như thế, cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua câu hỏi căn bản về việc làm cách nào xác định chính xác vị trí thần học của những "phong trào" này trong tính liên tục về mặt cấu trúc của Giáo Hội.

I. Nỗ lực làm sáng tỏ vấn đề thông qua phép biện chứng của các nguyên tắc

A. Định chế và Đặc sủng

Nhị nguyên tính định chế và biến cố, hoặc định chế và đặc sủng, ngay lập tức tự gợi ý như là một mô hình căn bản để giải quyết vấn đề. Nhưng nếu chúng ta cố gắng phân tích hai thuật ngữ chặt chẽ hơn để đi đến các quy tắc hợp lệ để xác định mối liên hệ của chúng thì một điều bất ngờ xảy ra. Khái niệm "định chế" vỡ nát trong bàn tay chúng ta khi chúng ta cố gắng đưa ra một định nghĩa thần học chính xác. Dù sao, đâu là các nhân tố định chế căn bản trong Giáo hội, việc tổ chức vĩnh viễn mang lại cho Giáo hội khuôn dạng đặc biệt của nó? Dĩ nhiên, câu trả lời là chức vụ bí tích ở các mức độ khác nhau: giám mục, linh mục, phó tế. Một cách đáng lưu ý, bí tích mang tên ordo [chức thánh], cuối cùng, là cấu trúc ràng buộc và vĩnh viễn duy nhất có thể nói là mô hình tổ chức cố định của Giáo hội và biến Giáo hội thành một "định chế". Nhưng mãi cho đến thế kỷ này, do động cơ đại kết, việc chỉ danh bí tích ordo đơn giản như "chức vụ" [Amt], mới trở thành thông lệ. Cách sử dụng này đặt ordo hoàn toàn dưới ánh sáng định chế và có tính chất định chế. Nhưng "chức vụ" này là một "bí tích" và sự kiện này báo hiệu một sự xa rời lối hiểu xã hội học thông thường về các định chế. Việc yếu tố cấu trúc của Giáo hội này, vốn là yếu tố vĩnh viễn duy nhất, là một bí tích, có nghĩa là nó phải vĩnh viễn được tái tạo bởi Thiên Chúa. Nó không thuộc quyền sử dụng của Giáo hội, nó không chỉ đơn giản ở đó, và Giáo hội không thể thiết lập nó dựa vào sáng kiến riêng của mình. Nó chỉ hiện hữu đệ nhị đẳng qua một lời mời gọi về phần Giáo Hội. Nó được tạo ra chủ yếu bởi lời mời gọi của Thiên Chúa ngỏ với con người, nghĩa là về mặt đặc sủng – thần khí học. Vì vậy, thái độ duy nhất trong đó nó có thể được chấp nhận và sống là ta không ngừng được lên khuôn bởi tính mới mẻ của ơn gọi, bởi sự tự do không thể bị thao túng của pneuma. Lý do, thực sự là lý do duy nhất, tại sao có thể có việc thiếu linh mục là thế này. Giáo hội không thể tự mình bổ nhiệm các “viên chức”, nhưng phải chờ đợi lời mời gọi từ Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao ngay từ đầu đã có chủ trương cho rằng chức vụ này không thể được thành lập bởi định chế, nhưng phải được khẩn cầu nơi Thiên Chúa. Điều Chúa Giêsu nói trong các Tin Mừng luôn như sau: “mùa gặt thật dồi dào, nhưng thợ gặt thì ít; hãy cầu xin Chúa của vụ mùa gửi thợ gặt vào mùa gặt của Người” (Mt 9:37: XSV). Điều này cũng giải thích tại sao việc kêu gọi Nhóm Mười Hai là kết quả của một đêm Chúa Giêsu đã trải qua trong cầu nguyện (Lc 6:12ff).

Giáo Hội Latinh đã nhấn mạnh một cách rõ ràng tính chất hoàn toàn đặc sủng của thừa tác vụ linh mục bằng cách liên kết, một cách phù hợp với truyền thống Giáo hội cổ xưa, chức linh mục với đức đồng trinh, một nhân đức rõ ràng chỉ có thể hiểu được như một đặc sủng bản thân, không bao giờ đơn giản là bằng cấp chính thức. (2) Yêu cầu tách rời chúng cuối cùng dựa trên quan niệm cho rằng không nên xem xét chức linh mục về phương diện đặc sủng, mà phải xem xét nó như một chức vụ mà bản thân định chế có thể bổ nhiệm để bảo đảm sự an toàn của chính mình và việc thỏa mãn các nhu cầu của mình. Khi mưu toan được đưa ra để nắm quyền kiểm soát chức linh mục nhằm mục đích an toàn định chế, thì loại dây liên kết đặc sủng được ngụ ý bởi đòi hỏi độc thân là một điều tai tiếng cần được loại bỏ càng nhanh càng tốt. Nhưng khi điều đó xảy ra, Giáo hội trong tư cách một tổng thể cũng được hiểu là một tổ chức thuần túy của con người, và sự an toàn có được bằng những phương tiện này không cung cấp được chính những gì nó được định đạt tới. Việc Giáo Hội không phải là định chế của chúng ta, mà là sự đột xuất [irruption] của một điều gì đó khác, việc, từ trong yếu tính, nó vốn thuộc "iuris divini" [thần quyền] có nghĩa là chúng ta không bao giờ có thể tự tạo ra Giáo Hội. Nó có nghĩa là chúng ta không bao giờ có thể sử dụng hoàn toàn tiêu chuẩn định chế, có nghĩa là Giáo hội hoàn toàn là chính mình nơi nó phá vỡ các tiêu chuẩn và phương pháp của định chế con người.

Chắc chắn, bên cạnh bí tích, vốn thực sự là cấu trúc sắp xếp căn bản, cũng còn các định chế thuộc quyền con người thuần túy trong Giáo hội. Các định chế này phục vụ các hình thức cai quản, tổ chức và phối hợp khác nhau có thể và phải phát triển theo nhu cầu của thời đại. Nhưng phải nói rằng, trong khi Giáo Hội cần đến các tổ chức cây nhà lá vườn như thế, khi chúng trở nên quá nhiều và quá mạnh mẽ, chúng gây nguy hiểm cho trật tự và sức sống của yếu tính thiêng liêng của Giáo hội. Giáo Hội phải thường xuyên kiểm tra cơ cấu định chế của riêng mình để giữ cho nó không ôm lấy quá nhiều sức nặng - để ngăn nó khỏi cứng ngắc thành một bộ áo giáp bóp nghẹt đời sống thiêng liêng thực sự của nó. Không cần phải nói rằng, khi Giáo hội không nhận được ơn gọi linh mục trong một thời gian dài hơn, nó có thể rơi vào cơn cám dỗ muốn tạo cho mình điều người ta có thể gọi một hàng giáo sĩ thế phẩm thuần túy có tính nhân quyền. (3) Tất nhiên, Giáo hội phải cố gắng tổ chức các cơ cấu trần thế trong trường hợp cần thiết, và nó đã thực hiện thành công nhiều lần như thế nơi các xứ truyền giáo hoặc trong các tình huống giống như các xứ truyền giáo. Chúng ta chỉ có thể chân thành cảm ơn tất cả những người đã phục vụ và tiếp tục phục vụ Giáo hội trong tư cách những người hướng dẫn cầu nguyện và những người loan báo Tin Mừng trong những tình huống khẩn cấp như vậy. Tuy nhiên, nếu điều này trở thành một cách bỏ bê việc cầu nguyện cho lời mời gọi bí tích, nếu Giáo hội dần dần bắt đầu sử dụng những tình huống như vậy để có được khả năng tự lập và tự biến mình thành độc lập với hồng ân Thiên Chúa, nó sẽ hành động như vua Saolô, người, bị quân Philitinh ép buộc, đã đợi tiên tri Samuên rất lâu, nhưng, khi Samuên không xuất hiện và mọi người đang phá vỡ hàng ngũ, đã mất kiên nhẫn và đề nghị tự sát. Ông nghĩ rằng, do tình hình cấp bách, không có lựa chọn nào khác ngoài việc chính ông có thể và phải nắm lấy công việc của Thiên Chúa vào chính tay mình. Nhưng bây giờ ông được người ta nói cho hay bằng cách làm điều đó ông đã vứt bỏ mọi sự: Ta muốn sự vâng phục chứ không muốn hy lễ (x. 1 Sm 13:8-14; 15:22).

Chúng ta hãy quay trở lại câu hỏi của mình: Làm thế nào để chúng ta mô tả đặc điểm của mối quan hệ giữa khuôn mẫu vĩnh viễn của trật tự Giáo hội và các đột phá đặc sủng luôn luôn mới mẻ? Mô hình định chế- đặc sủng không trả lời được câu hỏi này, bởi vì phản đề [của hai thuật ngữ] không nắm bắt đầy đủ thực tại của Giáo hội.

Tuy nhiên, chúng ta có thể suy ra một vài quy tắc ban đầu từ những gì chúng ta đã nói cho đến nay:

a) Điều quan trọng là chức vụ thiêng liêng, chức linh mục, bản thân nó được hiểu và sống một cách đặc sủng. Bản thân linh mục phải là một người “có tích chất thần khí", một homo spiritualis, một người đàn ông được thức tỉnh và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần. Nhiệm vụ của Giáo hội là bảo đảm rằng đặc tính này của bí tích được nhìn thấy và chấp nhận. Giáo Hội không được đặt các con số ở phía trước và hạ thấp các tiêu chuẩn tâm linh vì nhiệt tình đối với việc phát triển các cấu trúc tổ chức của nó. Nếu làm như vậy, Giáo hội sẽ làm biến dạng ý nghĩa của chính chức linh mục. Một thừa tác vụ được thực hiện kém tạo nhiều hại hơn lợi. Nó trở thành chướng ngại vật trên đường tiến tới chức linh mục và đức tin. Giáo Hội phải giữ vững niềm tin và phải thừa nhận Chúa là người sáng tạo và duy trì nó. Và nó phải làm mọi điều có thể giúp những người được kêu gọi giữ lòng trung thành vượt ra ngoài sự thức tỉnh ban đầu, để tránh dần dần sự ngột ngạt trong thói quen, và ngày càng trở thành những người đàn ông thực sự tâm linh hơn.

b) Nơi chức vụ thiêng liêng được sống một cách theo thần khí và đặc sủng cách này, không có sự cứng ngắc định chế. Thay vào đó, có một sự cởi mở nội tại đối với các đặc sủng, một loại "mũi" hửi được Chúa Thánh Thần và hành động của Người, cũng vậy, đoàn sủng cũng có thể nhận ra nguồn gốc chính mình nơi người giữ chức vụ và tìm được các cách thức hợp tác hiệu quả trong việc biện phân các tinh thần.

c) Trong những tình huống khan hiếm, Giáo hội phải tạo ra những cấu trúc tạm thời. Nhưng những cấu trúc này phải được quan niệm như nội tại cởi mở với bí tích; chúng phải hướng tới nó, không dẫn người ta ra khỏi nó. Nói chung Giáo Hội phải giữ số lượng cấu trúc hành chính do mình tạo ra càng nhỏ càng tốt. Nó không được thể chế hóa quá mức chính nó, nhưng phải luôn luôn cởi mở với những lời mời gọi bất ngờ, không định trước của Chúa.

B. Kitô học và Thần khí học

Bây giờ, những gì đã được nói đặt ra một câu hỏi: nếu chỉ đúng một phần khi coi định chế và đặc sủng là đối lập nhau, đến nỗi cặp thuật ngữ này chỉ cung cấp một phần câu trả lời cho câu hỏi của chúng ta, có lẽ có chăng những quan điểm thần học khác có thể đối phó với nó một cách thỏa đáng hơn? Sự tương phản giữa phương thức Kitô học và thần khí học đối với Giáo Hội đang trở thành một chủ đề ngày càng nổi bật trong thần học đương thời. Tương phản này phát sinh ra chủ trương cho rằng bí tích thuộc về phía Kitô học và sự nhập thể, một điều vốn cần được bổ sung bằng viễn ảnh thần khí học – đặc sủng. Tất nhiên đúng là Chúa Kitô và Thần Khí [Pneuma] phải được phân biệt, nhưng: cũng như chúng ta không được coi ba ngôi trong Ba Ngôi như một sự hiệp thông của ba vị thần, chúng ta phân biệt đúng đắn Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần chỉ khi nào sự đa dạng của các vị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hợp nhất của các vị. Không thể hiểu đúng Chúa Thánh Thần nếu không có Chúa Kitô, nhưng cũng không thể hiểu được Chúa Kitô nếu không có Chúa Thánh Thần. “Chúa là Thần Khí” Thánh Phaolô nói với chúng ta trong thư 2 Côrintô 3:17 (RSV).

Điều này không có nghĩa cả hai vị đơn giản chỉ cùng là một điều hoặc một người. Nhưng điều đó có nghĩa là Chúa Kitô có thể ở giữa chúng ta và cho chúng ta trong tư cách Chúa chỉ khi nào việc nhập thể không phải là việc cuối cùng của Người. Sự nhập thể đạt đến đỉnh cao trong cái chết trên thập giá và trong sự sống lại. Điều này có nghĩa là Chúa Kitô có thể đến chỉ vì Người đã đi trước chúng ta vào trật tự sự sống của Chúa Thánh Thần và thông truyền chính Người qua và trong Chúa Thánh Thần này. Tôi nghĩ, Kitô học thần khí của Thánh Phaolô và các diễn từ từ biệt trong Tin Mừng Gioan chưa được kết hợp rõ ràng đủ cho tầm nhìn của chúng ta về Kitô học và thần khí học. Nhưng sự hiện diện mới của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần là điều kiện thiết yếu cho sự hiện hữu của bí tích và sự hiện diện bí tích của Chúa.

Điều này một lần nữa làm sáng tỏ chức vụ "thiêng liêng" [geistlich] trong Giáo hội và về vị trí thần học của nó, mà truyền thống vốn định nghĩa bằng thuật ngữ "successio apostolica". "Kế thừa tông đồ" có nghĩa hoàn toàn ngược lại với điều nó dường như muốn nói, tức là, thông qua chuỗi kế thừa liên tục chúng ta trở nên độc lập với Chúa Thánh Thần. Thực tế, việc liên kết với dòng thừa kế này có nghĩa là chức vụ bí tích không bao giờ tùy ý chúng ta sử dụng, nhưng mỗi lần đều phải được Chúa Thánh Thần ban cho, nó chính là bí tích- thần khí mà chúng ta không thể tự tạo ra cũng như không tự thiết lập ra. Năng quyền chức năng tự nó chưa đủ, cần phải có ân sủng của Chúa.

Trong bí tích, trong hành động đại diện và tượng trưng của Giáo Hội, Chúa dành cho mình định chế thường trực của thừa tác vụ linh mục. Sự kết hợp hoàn toàn chuyên biệt của đặc tính "một lần" và “luôn luôn” của mầu nhiệm Chúa Kitô xuất hiện rất đẹp ở đây. Tính “luôn luôn” của bí tích, sự hiện diện của nguồn gốc lịch sử trong mọi thời đại của Giáo Hội, bao hàm một mối liên hệ với ephapax [chỉ một lần], với biến cố nguồn gốc chỉ xảy ra một lần. Mối liên hệ với cội nguồn này, chiếc cọc này được cắm vào thửa đất của biến cố chỉ xảy ra một lần và không thể lặp lại, là không thể chuyển nhượng. Chúng ta không bao giờ có thể náu mình trong một nền thần khí học trôi nổi tự do, chúng ta không bao giờ có thể bỏ lại đằng sau cơ sở của sự nhập thể, của hành động Thiên Chúa trong lịch sử. Nhưng điều ngược lại cũng đúng. Biến cố không bao giờ được lặp lại này tự truyền đạt vào ơn phúc Chúa Thánh Thần, Đấng là Thần Khí của Chúa phục sinh. Nó không biến mất, giống như một điều đã chết và đã đi vào quá khứ vĩnh viễn không thể thu hồi được, nhưng có sức mạnh của hiện tại, bởi vì Chúa Kitô đã đi qua “bức màn, tức là qua xác thịt của mình" (Hr 10:20: RSV) và do đó đã giải phóng những gì tồn tại mãi mãi trong những gì chỉ diễn ra một lần. Việc nhập thể không dừng lại ở Chúa Giêsu lịch sử, với “sarx” [thể xác] của Người (2 Cor 5:16!). "Chúa Giêsu lịch sử" có ý nghĩa vĩnh cửu chính vì xác thịt của Người được biến đổi trong sự phục sinh, nên Người có thể hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, như diễn từ chia tay trong Thánh Gioan cho thấy một cách tuyệt vời (x. đặc biệt là Ga 14:28: “Thầy ra đi và đến cùng anh em": RSV). Với sự tổng hợp Kitô học-Thần khí học này, chúng ta có thể mong đợi rằng việc đào sâu khái niệm “kế thừa tông đồ" sẽ thực sự hữu ích giúp giải quyết vấn đề của chúng ta.

C. Phẩm trật và Lời Tiên Tri

Trước khi theo đuổi sâu hơn dòng suy nghĩ này, chúng ta cần phải đề cập ngắn gọn đề xuất thứ ba để giải thích tính nhị nguyên [Gegeniiber] giữa trật tự vĩnh viễn của đời sống giáo hội, một mặt và mặt khác là các phong trào thần khí. Ngày nay, có một xu hướng nào đó cho rằng, dựa trên sự giải thích Kinh thánh của Luther về mặt biện chứng của lề luật và Tin Mừng, phản đối khía cạnh linh mục- phụng tự và khía cạnh tiên tri của lịch sử cứu rỗi. Trong cách đọc này, các phong trào sẽ nằm ở phía tiên tri. Giống như các đề xuất khác mà chúng ta đã xem xét cho đến nay, điều này không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, nó cực kỳ không chính xác và vì lý do này không hữu ích như tình thế hiện nay. Vấn đề nêu ra trong mối liên hệ này quá lớn không thể giải quyết chi tiết ở đây.

Điều đầu tiên cần phải nói khi giải quyết điểm này là bản thân lề luật cũng có tính chất của một lời hứa. Chỉ vì luật pháp có tính chất này mà Chúa Kitô có thể chu toàn nó và, đồng thời “đình chỉ” [aufieben] nó trong hành vi chu toàn.

Thứ hai, các nhà tiên tri viết lách không bao giờ có ý định bãi bỏ Kinh Tôra, nhưng, trái lại, để chứng thực ý nghĩa thực sự của nó chống lại việc lạm dụng.

Cuối cùng, điều quan trọng là sứ mệnh của lời tiên tri đã luôn được giao phó cho những người đơn lẻ và không bao giờ trở thành một giai cấp ổn định [Stand]. Trong chừng mực tiên tri được cho là một “giai cấp”, nó bị phê phán bởi các nhà tiên viết lách cũng gay gắt như “giai cấp” tư tế của Cựu Ước. (4) Đơn giản là không có lệnh nào trong Kinh thánh phải phân chia Giáo hội thành tả và hữu, thành giai cấp tiên tri (được đại diện bởi mệnh lệnh hoặc phong trào), và phẩm trật. Ngược lại: đây là một công trình hoàn toàn xa lạ với Kinh thánh. Giáo Hội không được cấu trúc một cách biện chứng nhưng một cách hữu cơ. Như thế, chỉ chính xác khi có các chức năng khác nhau trong Giáo Hội, và Thiên Chúa liên tục khuấy động những con người tiên tri - họ có thể là giáo dân hoặc tu sĩ, nhưng cũng có thể là các giám mục và linh mục - những người công bố cho nó những chữ đúng vốn không được tuyên bố với đủ sức mạnh trong diễn trình bình thường của “định chế”. Tôi nghĩ, rõ ràng là chúng ta không thể giải thích bản chất và nhiệm vụ của các phong trào từ viễn ảnh này. Chắc chắn nó không nắm bắt được sự hiểu biết của chúng về chính chúng.

Do đó, những suy nghĩ ở trên mang lại kết quả khá ít ỏi cho vấn đề của chúng ta. Tuy nhiên, những kết quả này rất quan trọng. Sự lựa chọn phép biện chứng của các nguyên tắc làm điểm xuất phát của chúng ta không dẫn đến giải pháp mong muốn. Thay vì cố gắng giải quyết vấn đề sử dụng phép biện chứng của các nguyên tắc như vậy, theo ý kiến của tôi, chúng ta phải chọn cách tiếp cận lịch sử sao cho phù hợp với bản chất lịch sử của đức tin và Giáo hội.

II. Các viễn ảnh của Lịch sử: Kế tục Tông đồ và các Phong trào Tông đồ

A. Các Chức vụ Hoàn Cầu và Địa Phương

Vậy chúng ta hãy đặt câu hỏi: nguồn gốc này ra sao? Bất cứ ai có sự quen biết dù chỉ khiêm tốn với những cuộc tranh luận xung quanh Giáo hội mới phát sinh, mà khuôn mẫu của nó được mọi giáo hội và cộng đồng Kitô giáo nại tới để được hợp pháp hóa, đều biết rằng dường như có rất ít triển vọng đạt tới bất cứ điểm nào với loại câu hỏi lịch sử này. Bất chấp điều này, nếu tôi mạo hiểm đưa ra một giải pháp thăm dò từ góc độ này, thì tôi chỉ làm vậy dựa vào quan điểm Công Giáo về Giáo hội và nguồn gốc của nó. Quan điểm này, trong khi đưa ra một khuôn khổ cố định, cũng để ngỏ nhiều lĩnh vực để suy nghĩ thêm, những lãnh vực chưa hề được thăm dò trọn vẹn. Chắc chắn, từ Lễ Ngũ Tuần trở đi, những người trực tiếp gánh vác sứ mệnh của Chúa Kitô là mười hai vị, những người cũng sớm xuất hiện dưới danh xưng "tông đồ". Nhiệm vụ của họ là mang sứ điệp của Chúa Kitô “đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8:RSV), đi đến muôn dân và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (Mt 28:19). Lãnh thổ được giao cho họ thực hiện sứ mệnh này là thế giới.

Không bị giới hạn về nơi chốn, các ngài phục vụ việc xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô, dân tộc duy nhất của Thiên Chúa, Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô. Các tông đồ không phải là giám mục của các giáo hội địa phương đặc thù, mà chỉ là, "tông đồ", và như vậy các ngài chịu trách nhiệm về toàn thế giới và cho toàn thể Giáo hội cần được xây dựng: Giáo hội hoàn vũ đi trước các giáo hội địa phương, đi vào hiện hữu như là những hiện thực hóa cụ thể của nó.(5) Nói một cách rõ ràng hơn và không hàm hồ: Thánh Phaolô chưa bao giờ là giám mục của một nơi đặc thù nào mà ngài cũng không bao giờ có ý định đó. Chỉ có sự phân chia lao động lúc ban đầu, và Thánh Phaolô mô tả nó trong thư Galát 2:9: “Chúng tôi, Banaba và tôi, lo cho dân ngoại, họ, Phêrô, Giacôbê và Gioan, lo cho người Do Thái. Tuy nhiên, sự phân chia ban đầu này đã sớm bị thay thế. Phêrô và Gioan nhận ra rằng họ cũng được gửi đến dân ngoại và ngay lập tức vượt ra ngoài giới hạn của Israel. Gaicôbê, anh em họ của Chúa, người sau năm 42 đã trở thành một loại giáo chủ của Giáo hội Do Thái, chắc chắn không phải là một tông đồ.

Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta có thể nói như sau: chức vụ tông đồ là một chức vụ phổ quát có phạm vi toàn thể nhân loại và do đó là toàn thể Giáo hội duy nhất. Nó là hoạt động truyền giáo của các tông đồ làm phát sinh các giáo hội địa phương, hiện đang cần những người lãnh đạo có trách nhiệm. Đó là nhiệm vụ của những vị này để bảo đảm sự hiệp nhất đức tin với toàn thể Giáo hội, để hình thành đời sống trong giáo hội địa phương, và để giữ cho các cộng đồng cởi mở ngõ hầu khuyến khích việc tăng trưởng hơn nữa và để làm cho hồng ân Tin Mừng thành khả hữu cho những đồng bào chưa tin. Chức vụ giáo hội địa phương [ortskirchlich] này, ban đầu xuất hiện dưới nhiều danh xưng, dần dần mang một bộ dạng cố định, đồng nhất. Khi đó, điều khá rõ ràng là hai cấu trúc đã hiện hữu song song với nhau trong Giáo hội mới phát sinh. Tất nhiên là có một sự uyển chuyển nhất định giữa chúng, nhưng chúng có thể được phân biệt rõ ràng: một mặt, các thừa tác vụ giáo hội địa phương, dần dần phát triển thành hình thức vĩnh viễn; mặt khác, thừa tác vụ tông đồ, rất nhanh không còn bị giới hạn trong mười hai vị. Chúng ta có thể phân biệt rõ ràng hai ý niệm về tư cách tông đồ nơi Thánh Phaolô. Một mặt, ngài mạnh mẽ nhấn mạnh đến nét độc đáo trong hoạt động tông đồ của mình, dựa trên cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Phục sinh và do đó đặt ngài ngang hàng với nhóm mười hai. Mặt khác, ngài hiểu "tông đồ" như một chức vụ vượt xa nhóm này, như trong thư 1Cr 12:28: ý niệm rộng hơn này cũng có trong hậu cảnh khi ngài phong Andronikos và Junias làm tông đồ.

Chúng ta tìm thấy thuật ngữ tương tự trong Êphêsô 2:20, nơi nói về các tông đồ và tiên tri trong tư cách nền tảng của Giáo hội chắc chắn cũng có nghĩa là bao gồm nhiều hơn nhóm mười hai. Trong thế kỷ thứ hai, khi cuốn Didache nói về các nhà tiên tri, thì rõ ràng nó hiểu theo nghĩa một chức vụ truyền giáo, siêu địa phương. Điều đáng lưu ý hơn nữa là Didache nói về họ: "họ là các thượng tế của anh em” (13:3).

Như thế, chúng ta có thể giả định rằng hai loại chức vụ, phổ quát và địa phương, tiếp tục cùng hiện hữu cho đến tận thế kỷ thứ hai, nghĩa là vào thời điểm mà danh tính của người mang việc kế tục tông đồ khá chắc chắn đã trở thành một vấn đề nghiêm túc. Nhiều văn bản khác nhau gợi ý rằng sự cùng hiện hữu của hai cấu trúc không hoàn toàn không có xung đột. Bức thư thứ ba của Thánh Gioan cho chúng ta thấy một thí dụ rất rõ ràng về tình huống xung đột như vậy. Tuy nhiên, khi những "tận cùng trái đất" có thể tiếp cận được vào lúc đó càng đạt được thì việc duy trì một nơi có ý nghĩa cho những “người lữ hành” càng trở nên khó khăn hơn. Sự lạm dụng chức vụ của những người lữ hành này cũng có thể đã góp phần khiến họ biến mất dần dần. Lúc này, việc truyền bá đức tin trong lãnh thổ tương ứng của các giáo hội địa phương tùy thuộc các cộng đồng địa phương và các nhà lãnh đạo của họ, những vị, trong thời gian đó, đã có được một khuôn mạo rất rõ ràng trong tư cách giám mục, linh mục và phó tế. Việc vào thời của Hoàng đế Constantine, các Kitô hữu chiếm khoảng 8% dân số của Đế quốc, và việc thậm chí vào cuối thế kỷ thứ tư họ vẫn là thiểu số, cho thấy đây là một nhiệm vụ to lớn như thế nào. Trong tình huống này những người chủ trì các giáo hội địa phương, các giám mục, phải nhìn nhận rằng bây giờ họ là những người kế vị các tông đồ và nhiệm vụ tông đồ đặt hoàn toàn lên vai họ. Việc nhận ra rằng các giám mục, những người lãnh đạo có trách nhiệm của các giáo hội địa phương, là những người kế vị các tông đồ, đã được trình bày rất rõ ràng trong hậu bán thế kỷ thứ hai bởi thánh Irênê thành Lyon. Việc định nghĩa này về yếu tính của chức vụ giám mục bao hàm hai yếu tố nền tảng:

a) Việc kế tục tông đồ trước hết đòi hỏi ý niệm quen thuộc cho rằng các giám mục bảo đảm tính liên tục và hợp nhất đức tin, trong một tính liên tục mà chúng ta gọi là bí tích.

b) Nhưng việc kế tục tông đồ còn hàm ý một nhiệm vụ cụ thể hơn nữa, một nhiệm vụ vượt xa sự cai quản các giáo hội địa phương: giờ đây, các giám mục phải bảo đảm việc thực hiện sứ mạng của Chúa Giêsu để làm cho mọi quốc gia trở thành môn đệ của Người và mang Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Thánh Irênê nhấn mạnh họ phải chịu trách nhiệm giữ cho Giáo hội không trở thành một loại liên bang các giáo hội địa phương chỉ được đặt cạnh nhau và bảo đảm rằng nó vẫn giữ được tính phổ quát và hợp nhất của nó. Các giám mục phải duy trì tính năng động phổ quát của việc tông đồ.(6)

Lúc đầu, chúng ta đã nói về mối nguy hiểm mà chức vụ linh mục cuối cùng có thể được hiểu theo nghĩa định chế thuần tuý và các thuật ngữ bàn giấy, đến nỗi nó có thể quên đi chiều kích đặc sủng của nó. Giờ đây, mối nguy hiểm thứ hai xuất hiện: chức vụ kế tục tông đồ có thể hao mòn thành thừa tác vụ giáo hội đơn thuần địa phương, nó có thể đánh mất tầm nhìn và trái tim về tính phổ quát của sứ mệnh Chúa Kitô. Các sự bồn chồn thúc đẩy chúng ta mang hồng ân của Chúa Kitô đến cho người khác có thể chết yểu trong tình trạng trì trệ của một Giáo hội được thành lập vững chắc. Tôi xin đặt vấn đề rõ ràng như thế này: khái niệm kế tục tông đồ phóng chiếu vượt ra ngoài giáo hội đơn thuần địa phương, trong đó nó không bao giờ có thể bị cạn kiệt. Chiều kích phổ quát, yếu tố siêu việt các thừa tác vụ giáo hội địa phương vẫn là điều không thể thiếu.

B. Các Phong Trào Tông Đồ Trong Lịch Sử Giáo Hội

Bây giờ chúng ta phải thăm dò sâu hơn và đưa thêm các chất liệu lịch sử cụ thể vào luận đề này, vốn đã dự ứng kết luận cuối cùng của tôi, trong chừng mực nó đưa chúng ta trực tiếp vào vị trí giáo hội của các phong trào. Tôi đã nói trước đó rằng, vì nhiều lý do khác nhau, các thừa tác vụ phổ quát của giáo hội dần dần biến mất vào thế kỷ thứ hai và bị hấp thu vào chức vụ giám mục. Trong nhiều khía cạnh, việc phát triển này không đơn giản là không thể tránh khỏi về mặt lịch sử, nhưng cũng cần thiết về mặt thần học, vì nó mang ra ánh sáng sự hợp nhất giữa bí tích và sự hiệp nhất nội tại của thừa tác vụ tông đồ. Nhưng, như đã nói, nó cũng là một sự phát triển không phải là không có những nguy hiểm của nó. Vì lý do này, điều hoàn toàn hợp luận lý là ngay từ thế kỷ thứ ba, một yếu tố mới đã xuất hiện trong đời sống Giáo hội mà chúng ta có thể không cần bàn cãi gọi là một phong trào: phong trào đơn tu. Bây giờ, người ta có thể phản bác rằng phong trào đơn tu lúc ban đầu không có tính cách tông đồ và truyền giáo, ngược lại, đó là một trốn chạy thế gian để vào các ốc đảo thánh thiện. Chắc chắn, chúng ta có thể quan sát sự thiếu vắng xu hướng truyền giáo để truyền bá đức tin trên khắp thế giới ở thuở khởi đầu của phong trào đơn tu. Với thánh Antôn, người nổi bật như một nhân vật được xác định rõ ràng ở thuở ban đầu của phong trào đơn tu, động lực chủ đạo là ước muốn sống vita evangelica, mong muốn sống theo Tin Mừng một cách triệt để và trọn vẹn. (7) Câu chuyện hoán cải của ngài rất giống với câu chuyện của Thánh Phanxicô thành Assisi. Trong cả hai, chúng ta tìm thấy cùng một sự thúc đẩy hiểu Tin Mừng theo nghĩa đen, theo Chúa Kitô trong sự nghèo khó triệt để, và để Người một mình định hình toàn bộ cuộc sống của một con người. Việc Thánh Antôn khởi hành vào sa mạc là một việc ra khỏi cấu trúc giáo hội địa phương đã được thiết lập vững chắc, ra khỏi một Kitô giáo đã dần dần thích nghi với những đòi hỏi của cuộc sống trần tục, theo Chúa Kitô không có những chữ nếu, và, hoặc nhưng. Nhưng động thái này phát sinh ra một tình phụ tử thiêng liêng mới, một tình phụ tử, dù không có tính chất truyền giáo trực tiếp, dù sao vẫn bổ sung tình phụ tử của các giám mục và linh mục bằng sức mạnh của một cuộc sống hoàn toàn theo thần khí. (8)

Trong các tác phẩm của Thánh Basilêô, người đã cho phong trào đơn tu phương Đông hình thức cố định của nó, chúng ta thấy chính tập hợp các vấn đề mà nhiều phong trào phải đối mặt ngày nay. Thánh Basilêô hoàn toàn không có ý định tạo ra một định chế riêng biệt bên cạnh Giáo hội bình thường. Quy luật đầu tiên và, theo nghĩa chặt chẽ, duy nhất mà ngài soạn tác không được quan niệm - theo cách nói của Balthasar – như một quy luật của một dòng tu, mà là như một quy luật của giáo hội, như "cẩm nang dành cho những Kitô hữu dấn thân." (9) Tuy nhiên, điều này đúng với nguồn gốc của hầu hết mọi phong trào, nhất là những phong trào trong thế kỷ của chúng ta: trọng điểm là tìm kiếm, không phải một cộng đồng riêng biệt, nhưng Kitô giáo nói chung, một Giáo hội tuân theo Tin Mừng và sống bởi nó. Thánh Basilêô, người đầu tiên là một đan sĩ, đã chấp nhận chức vụ giám mục và do đó được minh họa một cách mạnh mẽ trong cuộc đời của chính ngài tính chất đặc sủng của chức vụ đó và tính hợp nhất nội bộ của Giáo Hội. Giống như các phong trào ngày nay, Thánh Basilêô buộc phải chấp nhận sự kiện này là phong trào đi theo Chúa Kitô một cách triệt để không thể sáp nhập hoàn toàn vào giáo hội địa phương. Trong dự thảo thứ hai của một quy luật mà Gribomont gọi là Asketikon nhỏ, Thánh Basilêô quan niệm phong trào như “hình thức chuyển tiếp giữa một nhóm các Kitô hữu dấn thân cởi mở với Giáo hội nói chung và một dòng tu tự tổ chức và tự định chế hóa.” (10) Cũng một Gribomont này coi cộng đồng đơn tu mà Thánh Basilêô thành lập là một "nhóm nhỏ mang lại sức sống cho toàn thể" và không ngần ngại "gọi [Thánh Basilêô] là thánh quan thầy không những của các dòng giảng dạy và các dòng bệnh viện, mà còn của các cộng đồng mới không có lời khấn nữa” (11).

Như thế điều rất rõ ràng là: phong trào đơn tu tạo ra một một trung tâm đời sống mới không xóa bỏ cơ cấu giáo hội địa phương của Giáo hội hậu tông đồ, nhưng không hoàn toàn trùng khớp với nó, nhưng hoạt động bên trong nó như một lực sinh động. Trung tâm này cũng hoạt động như một nguồn dự trữ mà từ đó giáo hội địa phương có thể rút tỉa được một hàng giáo sĩ thực sự thiêng liêng [geistliche-Geistliche] không ngừng đổi mới sự hợp nhất của định chế và đặc sủng. Một thước đo của điều này là sự kiện: Giáo hội Đông phương lựa chọn các giám mục trong số các đan sĩ, do đó định nghĩa chức vụ giám mục như một đặc sủng, vĩnh viễn canh tân nó, có thể nói như thế, từ nguồn tông đồ. Bây giờ nếu chúng ta nhìn vào lịch sử Giáo Hội một cách tổng thể, chúng ta thấy rằng giáo hội địa phương, trong tư cách một hình thức giáo hội mà dấu ấn xác định là chức vụ giám mục, chỉ có thể là cấu trúc hỗ trợ vĩnh viễn bảo vệ tòa nhà của Giáo hội qua mọi thời đại. Mặt khác, Giáo hội cũng có sự đan xen của những đợt sóng liên tiếp các phong trào mới, chúng lên sinh lực lại cho khía cạnh phổ quát của sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội và chính nhờ làm như vậy cũng phục vụ sức sống tinh thần và sự thật của các giáo hội địa phương. Tôi muốn đề cập ngắn gọn năm làn sóng như vậy theo phong trào đơn tu lúc ban đầu. Trong những làn sóng này, yếu tính thiêng liêng của điều mà chúng ta có thể gọi là “các phong trào” xuất hiện ngày càng rõ ràng hơn, cũng như định nghĩa về vị trí giáo hội học của họ.

1) Tôi gọi phong trào đơn tu truyền giáo từng nở rộ đặc biệt giữa thời Đức Grêgôriô Cả (590-604) và Đức Grêgôriô II (715-731) và Đức Grêgôriô III (731-741) như đợt sóng đầu tiên trong số này. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả thừa nhận tiềm năng truyền giáo của phong trào đơn tu, được ngài sử dụng bằng cách gửi Thánh Augustinô, người sẽ trở thành Tổng giám mục Canterbury, và những người bạn đồng hành của ngài tới các người ngoại đạo Angles trên quần đảo Anh. Thậm chí trước đó, Thánh Patrick, người, cũng bắt nguồn thiêng liêng từ phong trào đơn tu, đã tiến hành sứ mệnh tới Ái Nhĩ Lan. Theo cách này, phong trào đơn tu giờ đây đã trở thành phong trào truyền giáo vĩ đại dẫn dắt các dân tộc Đức đến với Giáo Hội Công Giáo và do đó đã xây dựng Châu Âu Kitô giáo mới. Nối liền Đông Tây trong thế kỷ thứ chín, anh em đơn tu Cyril và Methodius đã mang Tin Mừng đến thế giới Slav. Hai trong các yếu tố cấu thành thực tại "các phong trào" rõ ràng xuất phát từ tất cả những điều này:

a) Ngôi vị Giáo hoàng đã không tạo ra các phong trào, nhưng nó đã trở thành điểm quy chiếu chính của chúng trong cấu trúc của Giáo Hội, điểm nâng đỡ giáo hội của họ. Điều này dẫn đến quan điểm có lẽ có ý nghĩa sâu sắc nhất và yếu tính thực sự của chức vụ Phêrô đúng nghĩa: Giám mục Rôma không chỉ là giám mục của một giáo hội địa phương; chức vụ của ngài luôn liên quan đến Giáo hội hoàn vũ và do đó, theo một nghĩa cụ thể, có đặc điểm tông đồ. Nó phải tiếp tục giữ cho sống động tính năng động của sứ mệnh ad extra [đối ngoại] và ad intra [đối nội] của Giáo Hội. Bên trong Giáo hội Đông phương, thoạt đầu, Hoàng đế đã công bố một loại chức vụ có tính hợp nhất và phổ quát. Không phải ngẫu nhiên mà Constantine được gọi là “giám mục” ad extra và “ngang hàng với các tông đồ”. Nhưng điều đó, tốt nhất, có thể là một chức năng tạm thời, thay thế, một chức năng đầy rẫy những nguy hiểm rõ ràng. Cũng không phải là một tình cờ khi, từ thế kỷ thứ hai trở đi, các thừa tác vụ phổ quát đi đến chỗ chấm dứt, và cuối cùng, việc Đức Giáo Hoàng đòi quyền thực thi khía cạnh này của sứ mệnh tông đồ bắt đầu được nghe ngày càng rõ ràng hơn. Như thế, không phải là chuyện may rủi khi các phong trào, vốn vượt ra ngoài phạm vi và cấu trúc của giáo hội địa phương, luôn song hành với ngôi giáo hoàng.

b) Chủ đề quán xuyến của đời sống Tin Mừng, điều mà chúng ta đã tìm thấy ở buổi đầu của phong trào đơn tu với thánh Antôn của Ai Cập, vẫn mang tính quyết định. Nhưng bây giờ rõ ràng là vita evangelica bao gồm việc phục vụ [Dienst] truyền giảng Tin Mừng. Đức khó nghèo và sự tự do của đời sống Tin Mừng là những điều kiện cho việc phục vụ Tin Mừng vượt ra ngoài quê hương của mình và cộng đồng của nó. Đồng thời, việc phục vụ này là mục tiêu và lý do nội tại của vita evangelica, như chúng ta sẽ sớm thấy một cách chi tiết hơn.

2) Tôi muốn đề cập ngắn gọn về phong trào cải cách của Cluny, có tầm quan trọng quyết định như vậy trong thế kỷ thứ mười. Cũng được sự hỗ trợ của Đức Giáo Hoàng, phong trào này mang lại sự giải thoát vita religiosa [đời sống tu trì] khỏi chế độ phong kiến và khỏi sự thống trị của các lãnh chúa giám mục phong kiến. Bằng cách liên kết các đan viện riêng lẻ thành một giáo đoàn, nó đã trở thành phong trào vĩ đại của lòng đạo đức và đổi mới, trong đó ý tưởng về châu Âu đã hình thành.'' Tính năng động cải cách của Cluny sau đó đã làm phát sinh ra cuộc cải cách của Đức Grêgôriô thế kỷ thứ mười một. (13) Phong trào vừa kể đã giải cứu giáo hoàng khỏi vũng lầy xung đột giữa giới quý tộc La Mã và khỏi việc thế tục hóa của họ và, nói chung, đã tham gia cuộc chiến giành tự do của Giáo hội, vì bản chất thiêng liêng đầy khác biệt của nó, một trận chiến, tuy nhiên, sau đó thoái hóa thành một cuộc đấu tranh quyền lực giữa giáo hoàng và hoàng đế.

3) Sức mạnh thiêng liêng của phong trào truyền giáo bùng nổ vào thế kỷ thứ mười ba với Thánh Phanxicô thành Assisi và Thánh Đa Minh vẫn tiếp tục được cảm nhận cho đến ngày nay. Trong trường hợp của Thánh Phanxicô, điều khá rõ ràng là ngài không có ý định bắt đầu một dòng tu mới, một cộng đồng tách biệt. Ngài chỉ muốn kêu gọi Giáo hội quay trở lại với toàn bộ Tin Mừng, để tập hợp "một dân mới", để đổi mới Hội Thánh bằng Tin Mừng. Hai nghĩa của cụm từ "đời sống Tin Mừng" gắn bó chặt chẽ với nhau: bất cứ ai sống Tin Mừng trong khó nghèo, từ bỏ tài sản và con cháu, phải đồng thời loan báo Tin Mừng đó. Vào thời thánh Phanxicô người ta cần Tin Mừng, và ngài coi như nhiệm vụ thiết yếu của ngài, cùng với anh em của ngài, phải công bố cốt lõi đơn giản của sứ điệp Chúa Kitô cho con người. Ngài và những người theo ngài muốn trở thành những nhà truyền giảng Tin Mừng. Và chính sự kiện là những người truyền giảng Tin Mừng đã làm thành cần thiết việc vượt ra khỏi biên giới của thế giới Kitô giáo, để đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. (14)

Trong cuộc tranh luận với các linh mục triều của Đại học Paris, những người, trong tư cách đại diện của một cấu trúc giáo hội địa phương kín cổng cao tường, đấu tranh chống lại các phong trào truyền giảng Tin Mừng, Thánh Tôma Aquinô đã tóm tắt sự mới lạ và, đồng thời, sự trung thành với nguồn gốc được thực hiện trong hai phong trào và dưới hình thức đời sống tu trì mà chúng đã tạo khuôn. Các linh mục triều chỉ chấp nhận kiểu đơn tu của Cluny trong hình thức cứng ngắc sau này của nó: các đan viện tách biệt khỏi Giáo hội địa phương, sống trong những nhà kín nghiêm ngặt, và chỉ phục vụ một mình việc chiêm niệm. Những đan viện như vậy không thể làm xáo trộn trật tự của Giáo hội địa phương, trong khi xung đột chắc chắn nổ ra ở bất cứ nơi nào, các nhà truyền giáo mới xuất hiện. Ngược lại, Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh rằng chính Chúa Kitô là khuôn mẫu và, trên cơ sở của mô hình này, ngài bảo vệ tính ưu việt của đời sống tông đồ hơn hình thức sống chiêm niệm thuần túy. “Cuộc sống hoạt động mang lại cho những người khác những sự thật đạt được thông qua giảng dạy và chiêm niệm hoàn hảo hơn đời sống chỉ biết chiêm niệm..." (15)

Thánh Tôma biết rằng ngài là người thừa kế các cuộc phục hưng liên tiếp của lối sống đơn tu, tất cả đều kêu gọi vita apostolica [lối sống tông đồ]. (16) Nhưng trong cách giải thích của ngài về vita apostolica – điều mà ngài rút tỉa từ kinh nghiệm của các dòng khất sĩ - ngài đã thực hiện một bước mới quan trọng thực sự đã hiện diện trong thực hành của truyền thống đơn tu trước đó, nhưng vẫn chưa được suy tư nhiều một cách rõ ràng như vậy. Việc nại đến Giáo hội nguyên thủy như một biện minh cho vita apostolica vốn có tính phổ quát. Thánh Augustino, chẳng hạn, đã thiết kế toàn bộ quy tắc của ngài dựa trên cơ sở Công vụ 4:32: họ đồng lòng và cùng một linh hồn. (17) Tuy nhiên, Thánh Tôma Aquinô thêm Diễn từ truyền giáo của Chúa Giêsu với các Tông Đồ (Mt 10:5-15) vào khuôn mẫu này: Vita apostolica đích thực là đời sống tuân theo những lời dạy trong Công vụ 4 và Mt 10: “Đời sống tông đồ cốt ở sự kiện các tông đồ, sau khi bỏ lại mọi sự, đi khắp thế giới, công bố và rao giảng Tin Mừng. Điều này trở nên rõ ràng trong Mt 10, nơi các ngài được ban cho một quy tắc." (18) "Mátthêu 10 bây giờ dường như không hơn gì một quy luật tu trì, hay đúng hơn: quy luật sống và truyền giáo mà Chúa ban cho các Tông Đồ chính là quy luật vĩnh viễn của đời sống tông đồ, điều mà Giáo hội luôn cần đến. Chính quy luật này biện minh cho phong trào truyền giảng Tin Mừng mới.

Cuộc tranh cãi ở Paris giữa giáo sĩ triều và đại diện của các phong trào mới, trong đó các văn bản này được viết ra, có tầm ý nghĩa vĩnh viễn. Ý tưởng hạn chế và nghèo nàn về Giáo hội nhằm chuyên chế hóa cơ cấu giáo hội địa phương không thể dung thứ tầng lớp giảng thuyết mới. Về phần mình, những vị giảng thuyết này nhất thiết phải tìm kiếm sự ủng hộ nơi người mang một chức vụ liên quan đến Giáo hội phổ quát, nơi vị Giáo hoàng trong tư cách người bảo đảm việc truyền giáo và xây dựng Giáo hội duy nhất. Như thế, thật hợp lý khi tất cả những điều này mang lại động lực to lớn cho sự phát triển của học thuyết về tính ưu việt, một việc, vượt xa việc lên mầu sắc cho một giai đoạn lịch sử nào đó, giờ đây đã được hiểu theo cách mới trong ánh sáng cội nguồn tông truyền của nó. (19)

4) Vì câu hỏi liên quan đến chúng ta ở đây không có liên quan đến lịch sử Giáo hội, nhưng với sự hiểu biết về các hình thức đời sống của Giáo hội, tôi phải tự giới hạn vào việc vắn tắt nhắc đến các phong trào truyền giáo trong thế kỷ 16. Nổi bật trong số đó có các tu sĩ Dòng Tên, những người giờ đây cũng đảm nhận việc truyền giáo ở Châu Mỹ mới được phát hiện, ở Châu Phi và Châu Á, mặc dù các tu sĩ dòng Đa Minh và dòng Phanxicô, được lên sinh lực nhờ tác động liên tục của xung lực ban đầu của họ, không tụt hậu phía sau bao xa.

5) Cuối cùng, tất cả chúng ta đều quen thuộc với một loạt phong trào bắt đầu từ thế kỷ XIX. Thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện của các dòng truyền giáo đúng nghĩa, nghĩa là ngay từ đầu không nhằm mục đích đổi mới bên trong cho bằng việc truyền giáo trên những lục địa mà Kitô giáo hầu như không chạm tới. Về phương diện này, những dòng tu mới này phần lớn tránh xung đột với các cơ cấu giáo hội địa phương. Thậm chí còn phát sinh sự hợp tác hữu hiệu, mang lại sức mạnh mới không những cho các Giáo hội địa phương lâu đời, trong chừng mực đà thúc đẩy truyền bá Tin Mừng và phục vụ tình yêu sinh động họ từ bên trong. Một yếu tố, dù không hề vắng mặt trong các phong trào, nhưng rất dễ dàng bị làm ngơ, giờ đây trở nên mạnh mẽ ở tuyến đầu: phong trào tông đồ của thế kỷ XIX trước hết là một phong trào phụ nữ, trong đó có một sự nhấn mạnh mạnh mẽ vào caritas [đức ái], chăm sóc người đau khổ và người nghèo - chúng ta biết những gì cộng đồng phụ nữ mới có ý nghĩa và tiếp tục có ý nghĩa đối với các bệnh viện và việc chăm sóc người nghèo- và tập trung vào các trường học và giáo dục. Như thế, toàn bộ phạm vi phục vụ của Tin Mừng là hiện diện trong sự kết hợp giữa dạy dỗ, giáo dục và yêu thương.

Khi chúng ta nhìn lại từ thế kỷ XIX, chúng ta thấy rằng phụ nữ luôn đóng một vai trò quan trọng trong các phong trào tông đồ. Hãy nghĩ về những người phụ nữ táo bạo của thế kỷ XVI như Mary Ward hay, mặt khác, Teresa thành Avila, những nhân vật phụ nữ của thời Trung cổ như Hildegard thành Bingen và Catherine thành Siena, những phụ nữ trong quĩ đạo của Thánh Boniface, các chị em của các Giáo phụ và cuối cùng là các phụ nữ trong các bức thư của Thánh Phaolô và trong quĩ đạo xung quanh Chúa Giêsu. Những phụ nữ đã không bao giờ là giám mục hay linh mục, nhưng họ là những người đồng gánh vác đời sống tông đồ và nhiệm vụ phổ quát của nó.

C. Bề Rộng của Khái Niệm Kế Tục Tông Đồ

Sau cuộc khảo sát này về các phong trào tông đồ lớn trong lịch sử của Giáo hội, chúng ta trở lại luận điểm của chúng ta, mà tuyên bố về nó, tôi đã dự ứng sau khi phân tích ngắn gọn về các dữ kiện Kinh thánh: khái niệm kế tục tông đồ phải được dành một chiều rộng và chiều sâu lớn hơn nếu chúng ta muốn công bằng đối với tất cả những gì nó muốn nói. Điều đó có nghĩa gì? Trước hết, chúng ta phải giữ cấu trúc bí tích của Giáo hội như là cốt lõi vĩnh viễn của việc kế tục tông đồ. Chính trong cấu trúc này, Giáo hội luôn nhận được một lần nữa di sản của các tông đồ, di sản của Chúa Kitô. Nó là bí tích, trong đó Chúa Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần, phân biệt Giáo hội khỏi tất cả các định chế khác. Các bí tích có nghĩa là Giáo hội tiếp nhận sự sống của nó như một “tạo vật của Chúa Thánh Thần" từ Chúa và được Người tái tạo không ngừng. Khi nói điều này, chúng ta phải ghi nhớ hai thành tố không thể tách rời của các bí tích mà chúng ta đã đề cập trước đây: thứ nhất, yếu tố Kitô học-nhập thể, nghĩa là hữu thể của Giáo hội bị ràng buộc vào “một lần duy nhất” của các biến cố nhập thể và Phục sinh, mối liên hệ với hành động của Thiên Chúa trong lịch sử; thứ hai và đồng thời, việc làm cho biến cố này hiện diện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, do đó, là thành tố Kitô học-thần khí học, bảo đảm ngay lập tức tính mới mẻ và tính liên tục của Giáo hội sống động.

Trình thuật này tóm tắt những gì Giáo hội đã luôn dạy về yếu tính của việc kế tục tông đồ, cốt lõi thực sự của khái niệm bí tích về Giáo hội. Nhưng cốt lõi này nghèo nàn, đúng hơn, bị hao mòn, nếu, trong mối liên hệ này, chúng ta chỉ nghĩ tới hệ thống dựa trên Giáo hội địa phương. Chức vụ kế tục Phêrô đã đột nhiên mở toang mô hình giáo hội địa phương đơn thuần; người kế vị của Phêrô không chỉ là giám mục địa phương của Rôma, mà còn là giám mục cho toàn thể Giáo Hội và trong toàn thể Giáo Hội. Do đó, ngài hiện thân một khía cạnh thiết yếu của sứ vụ tông đồ, vốn không bao giờ được vắng mặt trong Giáo Hội. Nhưng chính chức vụ Phêrô, ngược lại, bị hiểu không chính xác và sẽ trở thành một con ngoại lệ quái gở, nếu chúng ta đặt lên vai người mang nó gánh nặng một mình thực hiện chiều kích phổ quát của việc kế tục tông đồ. (20) Trong Giáo Hội, cũng luôn phải có các thừa tác vụ và sứ mệnh không bị ràng buộc vào một mình Giáo hội địa phương, nhưng phục vụ sứ mệnh phổ quát và truyền bá Tin Mừng. Đức Giáo Hoàng phải dựa vào các thừa tác vụ này, các thừa tác vụ này phải dựa vào ngài, và sự hợp tác giữa hai loại thừa tác vụ hoàn tất bản giao hưởng của đời sống Giáo Hội. Thời đại tông đồ, vốn là chuẩn mực cho Giáo hội, cho thấy rõ ràng các thành tố này không thể thiếu đối với đời sống Giáo hội.

Bí tích truyền chức, bí tích kế tục [Nachfolge], nhất thiết phải được bao gồm trong hình thức cấu trúc này, nhưng, thậm chí còn hơn thế nữa ở các Giáo hội địa phương, được bao quanh bởi nhiều thừa tác vụ khác nhau, và ở đây, sự đóng góp của người phụ nữ vào hoạt động tông đồ của Giáo hội không thể bị coi thường. Thậm chí chúng ta có thể nói bằng cách tóm tắt toàn bộ cuộc thảo luận, rằng tính ưu việt của người kế tục Phêrô hiện hữu để bảo đảm các thành tố thiết yếu này của đời sống Giáo hội và để bảo đảm mối quan hệ có trật tự của chúng với các cấu trúc của giáo hội địa phương.

Để tránh hiểu lầm, tôi phải nói khá rõ ràng ở đây rằng các phong trào tông đồ xuất hiện trong những hình thức luôn mới mẻ trong suốt lịch sử, nhất thiết, bởi vì chúng là câu trả lời của Chúa Thánh Thần đối với những hoàn cảnh đang thay đổi trong đó Giáo hội sinh hoạt. Và cũng giống như ơn gọi làm linh mục không thể được tạo ra, không thể được thiết lập bằng giao thức hành chính, điều còn đúng hơn thế nữa là các phong trào không thể được tổ chức và lập kế hoạch bởi thẩm quyền. Chúng phải được ban tặng, và quả chúng đã được ban tặng. Chúng ta chỉ cần lưu ý đến chúng - chúng ta chỉ cần học, sử dụng hồng phúc biện phân, để chấp nhận những gì là đúng trong khi vượt qua những gì là vô ích. Nhìn lại lịch sử Giáo hội sẽ giúp ta quan sát với lòng biết ơn rằng nó đã liên tục lo liệu, bất chấp mọi khó khăn, dành chỗ cho sự thức tỉnh mới mẻ vĩ đại. Chắc chắn, người quan sát không thể bỏ qua sự kế tục của tất cả những phong trào đã thất bại hoặc dẫn đến các cuộc chia rẽ thường trực: Montanists, Cathari, Waldensians, Hussites, phong trào cải cách thế kỷ XVI. Và tôi nghĩ, chúng ta phải nói rằng cả hai bên cùng chia sẻ tội lỗi cho sự chia rẽ vĩnh viễn trong đó, cuối cùng đã dẫn đến những kết quả này.

III. Các biện phân và tiêu chuẩn

Như thế, nhiệm vụ cuối cùng của bài trình bày này phải đặt câu hỏi về tiêu chuẩn của sự biện phân. Để có thể trả lời tốt cho câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải định nghĩa chính xác hơn một chút thuật ngữ “phong trào”, thậm chí có thể viết một dự biểu học [typology] về các phong trào. Hiển nhiên, không thể làm tất cả những điều này ở đây. Chúng ta cũng nên cẩn thận với một định nghĩa quá khắt khe, vì Chúa Thánh Thần luôn có sẵn những điều ngạc nhiên, và chỉ khi nhìn lại, chúng ta mới nhận ra rằng các phong trào đều có một bản chất chung giữa sự đa dạng to lớn của chúng. Tuy nhiên, như một loại thử đầu tiên, tôi muốn làm rõ thuật ngữ, một cách rất ngắn gọn, để phân biệt ba loại khác nhau, dù sao cũng có thể quan sát trong lịch sử gần đây. Tôi sẽ gọi chúng là phong trào, trào lưu [current] và tiến hành [action]. Tôi không thể mô tả phong trào phụng vụ trong tiền bán thế kỷ này, hay phong trào Thánh Mẫu đang ngày càng nổi bật trong Giáo hội kể từ thế kỷ 19, như những phong trào, nhưng như những trào lưu. Những trào lưu này sau đó có thể củng cố vững chắc trong các phong trào cụ thể như Hiệp hội Thánh Mẫu hoặc các nhóm thanh niên Công Giáo, tuy nhiên chúng vẫn mở rộng ra ngoài những phong trào đó. Những loại kiến nghị thúc đẩy việc công bố một giáo điều hoặc những thay đổi trong Giáo hội đang trở thành thông lệ ngày nay, về phần chúng không phải là các phong trào, mà là các tiến hành. Sự thức tỉnh của dòng Phanxicô thế kỷ 13 có lẽ đưa ra minh họa rõ ràng nhất về thế nào là một phong trào: các phong trào thường xuất phát từ một nhà lãnh đạo có đặc sủng và chúng lên khuôn hình trong các cộng đồng cụ thể, sống toàn bộ Tin Mừng một lần nữa từ nguồn gốc này và không ngần ngại nhìn nhận Giáo hội như nền tảng cho cuộc sống của họ, nếu không có điều đó thì họ sẽ không thể hiện hữu. (21)

Dù cách tiếp cận này đối với một loại định nghĩa chắc chắn rất không thỏa đáng, nhưng nó quả đưa chúng ta đến những tiêu chuẩn, có thể nói như vậy, thay thế cho một định nghĩa. Tiêu chuẩn yếu tính vừa mới tự xuất hiện: việc bắt nguồn từ đức tin của Giáo hội. Bất cứ ai không chia sẻ đức tin tông đồ đều không thể tự cho là mình hoạt động tông đồ. Thật vậy, vì chỉ có một đức tin duy nhất cho toàn thể Giáo hội, vì đức tin này là nguyên nhân tạo nên sự hiệp nhất của Giáo hội, không thể có đức tin tông truyền nếu không có ý muốn hiệp nhất, đứng trong sự hiệp thông sống động của toàn thể Giáo Hội. Và điều này có nghĩa một cách cụ thể là ý chí đứng về phía những người kế tục các tông đồ và người kế tục Thánh Phêrô, những người chịu trách nhiệm về sự tương tác hài hòa giữa Giáo hội địa phương và hoàn vũ như dân duy nhất của Thiên Chúa. Nếu chiều kích “tông đồ” là địa cứ của các phong trào trong Giáo hội, thì ý chí vita apostolica phải là nền tảng cho họ ở mọi thời đại. Việc từ bỏ tài sản, con cháu, áp đặt hình ảnh riêng của mình về Giáo hội, nghĩa là vâng phục theo Chúa Kitô, luôn được coi là những yếu tố yếu tính của đời sống tông đồ. Chắc chắn rằng, những điều này không thể được áp dụng theo cùng một cách cho tất cả những người tham gia một phong trào, nhưng theo những cách khác nhau, chúng là những điểm quy chiếu cho cuộc đời của mỗi người. Ngược lại, đời sống tông đồ không phải là mục đích tự nó mà là tạo tự do để phục vụ.

Đời sống tông đồ đòi hỏi hoạt động tông đồ: vị trí vinh dự, theo nhiều cách khác nhau, được dành cho việc loan báo Tin Mừng như một yếu tố truyền giáo. Trong việc sequela Christi [bước chân theo Chúa Kitô], việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn là “evangelizare pauperibus”, là việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Nhưng việc loan báo này không bao giờ chỉ diễn ra bằng lời nói; tình yêu, vốn là trung tâm bên trong của nó, đồng thời là trung tâm của sự thật và hành động của nó, phải được sống và phải là sự loan báo theo cách này. Như vậy, việc phục vụ xã hội dưới hình thức này hay hình thức khác luôn được kết nối với việc truyền giáo. Tất cả những điều này giả định - và nguồn gốc thường là ngọn lửa của đặc sủng ban đầu - một cuộc gặp gỡ bản thân sâu sắc với Chúa Kitô. Việc hình thành và xây dựng cộng đồng không loại trừ yếu tố bản thân, nhưng đòi hỏi yếu tố bản thân. Chỉ khi người đó được Chúa Kitô đánh động và mở toang các chiều sâu thăm thẳm nhất của mình thì người khác mới có thể được đánh động từ nội tâm, thì mới có sự hòa giải trong Chúa Thánh Thần, cộng đồng đích thực mới có thể phát triển. Trong cấu trúc hiện sinh và Kitô học -thần khí học căn bản này, có thể có sự đa dạng lớn lao về các sắc thái và điểm nhấn mạnh, trong đó Kitô giáo là một biến cố luôn mới mẻ và Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới Giáo hội “như tuổi trẻ của chim đại bàng” (Tv 103:5).

Viễn cảnh này cũng cho phép chúng ta thấy những rủi ro mà các phong trào phải giáp mặt cũng như các phương tiện để khắc phục. Có nguy cơ phiến diện do nhấn mạnh quá mức vào nhiệm vụ cụ thể xuất hiện trong một thời kỳ hoặc thông qua một đặc sủng. Sự kiện việc thức tỉnh tâm linh không được trải nghiệm như hình thức duy nhất của hiện hữu Kitô giáo, mà như một hữu thể bị ảnh hưởng bởi toàn bộ thông điệp, có thể dẫn đến sự tuyệt đối hóa phong trào, vốn có thể tự hiểu đơn giản như Giáo hội, như cách cách duy nhất cho tất cả, trong khi cách duy nhất này có thể tự thông đạt ở những phương thức rất khác nhau. Vì vậy, hết lần này đến lần khác, sự mới mẻ và tính tổng thể của sự thức tỉnh cũng gần như chắc chắn dẫn đến xung đột với cộng đồng địa phương, một cuộc xung đột trong đó cả hai bên đều có lỗi và đem lại một thách thức tinh thần đối với cả hai. Các Giáo Hội địa phương có thể đã làm hòa với thế giới thông qua một chủ nghĩa tuân thủ [conformism]nào đó, muối có thể mất đi vị mặn của nó, một tình huống mà Kierkegaard đã mô tả một cách chua cay sắc bén trong bài phê bình Kitô giáo của ông. Tuy nhiên, ngay cả khi việc không tuân theo các yêu cầu triệt để của Tin Mừng chưa đến mức khiến Kierkegaard lên án, thì việc bộc phát của điều mới mẻ vẫn bị coi là một sự gián đoạn, đặc biệt khi nó xuất hiện với tất cả các loại bệnh ấu trĩ và những tuyệt đối hóa lầm lẫn, như vẫn thường xuyên xảy ra.

Ở đây cả hai bên phải cởi mở đón nhận một nền giáo dục của Chúa Thánh Thần và cả sự lãnh đạo của Giáo hội, cả hai phải thủ đắc lòng vị tha mà nếu không có nó, không thể có sự đồng ý nội tâm đối với tính đa dạng trong đó đức tin được đem ra sống. Cả hai phải học hỏi lẫn nhau, phải để cho nhau được thanh tẩy, chịu đựng lẫn nhau và khám phá cách đạt được những thái độ mà Thánh Phaolô đã nói trong bài thánh ca vĩ đại về tình yêu của ngài (1 Cor 13:4ff.). Vì vậy, cần phải nhắc nhở các phong trào rằng – mặc dù họ đã tìm thấy và truyền lại toàn bộ đức tin – theo cách riêng của họ – nhưng họ là một hồng ân cho và trong toàn thể Giáo hội và phải tuân phục các yêu cầu của tính tổng thể này để trở thành chân thực với yếu tính của chính họ. (22) Nhưng các giáo hội địa phương cũng thế, kể cả các giám mục, cũng phải được nhắc nhở tránh tạo ra thứ độc dạng [uniformity] có tính lý tưởng trong việc tổ chức và lập kế hoạch mục vụ. Họ không được lấy các kế hoạch mục vụ của riêng mình làm tiêu chuẩn cho những gì Chúa Thánh Thần được phép thực hiện: nỗi ám ảnh về việc lập kế hoạch có thể làm cho các giáo hội không được Thánh Thần Thiên Chúa, không được quyền lực mà nhờ đó họ sống, thấm nhập. (23) Phải coi là không đúng chủ trương cho rằng mọi diều phải phù hợp với một tổ chức đơn nhất, độc dạng.

Điều tốt hơn là ít tổ chức và nhiều tinh thần hơn! Trên hết, không được quan niệm việc hiệp thông như thể việc tránh xung đột là giá trị mục vụ cao nhất. Đức tin cũng luôn là một thanh gươm, và nó có thể đòi hỏi phải đấu tranh vì chân lý và tình yêu (x. Mt 10:34). Ý niệm hiệp nhất giáo hội trong đó các xung đột tiên thiên bị loại bỏ như là sự phân cực, và trong đó hòa bình nội bộ được mua bằng giá hy sinh toàn bộ chứng tá sẽ nhanh chóng chứng tỏ là ảo tưởng. Cuối cùng, chúng ta không được cho phép thiết lập một sự giác ngộ dửng dưng ngay lập tức coi lòng nhiệt thành của những người được Chúa Thánh Thần chiếm giữ và niềm tin ngây thơ của họ vào Lời Chúa như lời nguyền rủa của chủ nghĩa chính thống cực đoan và chỉ cho phép một đức tin mà với nó, những chữ nếu, và, và nhưng trở nên quan trọng hơn bản thể của điều được tin tưởng. Tất cả phải để mình được đo lường bằng tình yêu vì sự hiệp nhất của Giáo Hội duy nhất, vốn duy nhất trong mọi Giáo Hội địa phương và xuất hiện như vậy nhiều lần trong các phong trào tông đồ. Các giáo hội địa phương và các phong trào tông đồ phải liên tục nhìn nhận và chấp nhận sự thật đồng thời của hai mệnh đề: ubi Petrus, ibi ecclesia [ở đâu có Phêrô, ở đấy có Giáo Hội - ubi episcobus, ibi ecclesia [ở đâu có Giám Mục, ở đó có Giáo Hội] Quyền tối thượng và hàng giám mục, hệ thống giáo hội địa phương và các phong trào tông đồ, cần có nhau: quyền tối thượng chỉ có thể sống với và nhờ một hàng giám mục sống động, hàng giám mục chỉ có thể duy trì sự hiệp nhất năng động và tông đồ của mình khi được sắp xếp cho quyền tối thượng. Nơi nào một trong hai khía cạnh này bị suy yếu thì toàn thể Giáo hội phải chịu thiệt hại.

Những gì còn lại sau khi kết thúc tất cả những xem xét này trên hết là lòng biết ơn và niềm vui. Lòng biết ơn vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động rất rõ ràng trong Giáo hội và ban cho Giáo hội những hồng ân mới ngay cả ngày nay, những hồng ân qua đó Giáo hội sống lại niềm vui tuổi trẻ của mình (Tv 42:4, Bản Phổ thông). Tri ân nhiều người, già cũng như trẻ, đã đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa và vui vẻ bước vào việc phục vụ Tin Mừng mà không ngoái nhìn lại. Tri ân các giám mục đã mở ra những con đường mới, tạo chỗ đứng cho chúng trong các Giáo hội địa phương, và kiên nhẫn tranh đấu với chúng để khắc phục những khuynh hướng phiến diện của chúng và hướng dẫn chúng đi theo hình thức đúng đắn. Và trên hết, chúng ta hãy tạ ơn tại nơi này và vào lúc này Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người dẫn tất cả chúng ta tới Chúa Kitô - bằng khả năng nhiệt tình của ngài, bằng khả năng trẻ trung hóa nội tâm của ngài trong sức mạnh đức tin, bằng sự biện phân các tinh thần của ngài, bằng cuộc đấu tranh khiêm tốn và can đảm của ngài để có được sự trọn vẹn trong việc phục vụ Tin Mừng của ngài, bằng sự đoàn kết của ngài với các giám mục trên khắp thế giới, một sự thống nhất trong đó ngài vừa lắng nghe vừa hướng dẫn. Chúa Kitô hằng sống và Người sai Chúa Thánh Thần đến từ Chúa Cha – vốn là niềm vui và kinh nghiệm mang lại sự sống, những điều thuộc chúng ta chính trong cuộc gặp gỡ với các phong trào Giáo Hội.

Communio 25 (Mùa thu 1998). Bản tiếng Anh của Adrian Walker

* Bài diễn văn này được trình bầy tại Đại hội Thế giới về các Phong trào Giáo hội, được tài trợ bởi Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân, Rôma, ngày 27-29 tháng 5 năm 1998.

(1) Redemptoris mississio, 72.

(2) Việc luật độc thân linh mục không phải là một phát minh thời Trung cổ mà đã có từ thời kỳ đầu tiên của Giáo hội, được Đức Hồng Y A.M. Stickler trình bầy rõ ràng và thuyết phục trong The Case for Clerical Celibacy: Its Historical Development and Theological Foundations [Trường hợp độc thân giáo sĩ: Sự phát triển lịch sử và nền tảng thần học của nó] (San Francisco: Ignatius Press, 1995). Cũng nên Xem C. Cochini, Origines apostoliques du célibat sacerdotal [Ngồn gốc tông đồ của luật độc thân linh mục] (Paris-Nnmur, 1981); S. Heid, Zolibat in der friihen Kirche [Độc thân trong Giáo hội sơ khai] (Paderborn, 1997).

3 Huấn thị năm 1997 về thừa tác vụ giáo dân cuối cùng cũng đề cập đến vấn đề này.

4 Phản đề cổ điển giữa các nhà tiên tri được Thiên Chúa sai đến và các nhà tiên tri chuyên nghiệp được tìm thấy trong Amốt 7:10-17. Một tình huống tương tự xảy ra trong 1 Các Vua 22 về sự tương phản giữa 400 nhà tiên tri và Mikha; một lần nữa ở Giêrêmia, thí dụ: 37:19. Cũng nên xem J. Ratzinger, The Nature and mission of Theology: Its Role in the Light of Present Controversy [Bản chất và sứ mệnh của Thần học: Vai trò của nó dưới Ánh sáng của cuộc tranh cãi hiện tại] (San Francisco: Ignatius, 1995), 118ff.

(5) Xem Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Communionis notio [ý niệm hiệp thông] (Libreria Editrice Vaticana, 1994), 29, no. 9; xem phần giới thiệu của tôi cũng ở đó, 8ff. Tôi đã trình bày mối quan hệ giữa chúng một cách chi tiết hơn trong cuốn sách nhỏ của tôi: Called to Communion [Được kêu gọi hiệp thông] (SanFrancisco: Ignatius Press, 1996), đặc biệt. 43f. và 75-103. Sự kiện Giáo Hội duy nhất, hiền thê duy nhất của Chúa Kitô, mang trên mình di sản của dân Israel, của Xion, “con gái” và “nàng dâu”, có ưu tiên hơn việc cụ thể hóa dân Chúa có tính thực nghiệm trong các giáo hội địa phương, hiển nhiên trong kinh thánh và các Giáo phụ đến nỗi thật khó hiểu việc tranh luận thường xuyên lặp đi lặp lại về chủ trương này. Chỉ cần đọc cuốn Catholicisme [Đạo Công Giáo] (1938) hay Méditation sur I'Eglise [Suy niệm về Giáo Hội], 36 (1954) của de Lubac, hay những văn bản tuyệt vời mà H. Rahner sưu tầm trong cuốn Mater Ecclesiae [Mẹ (1944) của ông là đủ.

(6) Về phần này một lần nữa xem J. Ratzinger, Called to Communion [Được kêu gọi hiệp thông] (San Francisco: Ignatius Press, 1996), 83ff.

(7) Xem Athanase d’Alexandrie, Vie d’Antoine [hạnh thánh Antôn], G. Bartelink chủ biên, Sources Chrétiennes 400 (Paris, 1994); trong phần giới thiệu, đặc biệt là phần: "L'exemple de la vie evangelique et apostolique," 52f.

(8) về chủ đề tình phụ tử thiêng liêng tôi muốn đề cập đến cuốn sách nhỏ có những kiến thức sâu sắc của G. Bunge, Geistliche vaterschaft: Christliche Gnosis bei Evagrios Pontikos [Tình phụ tử thiêng liêng: Ngộ đạo Kitô giáo ở Evagrios Pontikos] (Regensburg, 1988).

(9) H.u. von Balthasar, Die Grofien Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], tái bản lần thứ 7. (Einsiedeln, 1994), 47.

(10) J. Gribomont, "Les Règles Morales de S. Basile et le Nouveau Testament," [Các quy luật luân lý của Thánh Basilêô và Tân Ước] trong Aland-Cross, ed., Studia Patristica [Nghiên cứu Giáo phụ], tập. 2 (1957), 416-426; Balthasar, Die Grofien Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], 48f.

(11) J. Gribomont, "Obéissance et Evangile selon S. Basile le Grand," [Vâng lời và Tin Mừng theo thánh Basilêô Cả] Vie Spir.Sppl. Nr. 21 (1952), 192-215, đặc biệt. 192; H.U. von Balthasar, Ordensregeln [Những luật dòng vĩ đại], 57.

(12) B. Senger chỉ ra mối liên hệ giữa cuộc cải cách Cluny và việc hình thành ý tưởng về Châu Âu trong Lexikonfur Theology und Kirche [Từ điển Thần học và Giáo hội](=LThK), tập. 2, ấn bản 2, 1239. Ông cũng thu hút sự chú ý đến "tính độc lập về mặt pháp lý và sự giúp đỡ của các vị giáo hoàng."

(13) Mặc dù P. Engelbert có thể nói đúng rằng “không thể xác định được ảnh hưởng trực tiếp của cải cách Cluny đối với Cải cách Grêgôriô” (LThK, tập 2, ấn bản 3, 1236), nhận xét của B. Senger (LThK, tập 2, ấn bản, 1240) cho rằng cải cách Cluny, được giúp đỡ để chuẩn bị một môi trường thuận lợi cho cuộc cải cách Grêgôriô, dù sao vẫn còn giá trị.

(14) Ấn bản mẫu mực cuốn Fonti Francescane [Các nguồn Phanxicô] của nhà Movimento Francescano (Assisi, 1978), với những lời giới thiệu hữu ích và tài liệu thư mục, vẫn là tiêu chuẩn cho sự hiểu biết về Thánh Phanxicô. Người hướng dẫn việc tự hiểu biết của các tác giả khất sĩ là A. Jotischky, “Một số quan điểm khất sĩ về nguồn gốc của sự hoàn hảo đơn tu,” trong Cristianesimo nella storia [Kitô giáo trong lịch sử] 19, số 1 (tháng 2 năm 1998), 31-49. Tác giả cho thấy rằng các tác giả khất sĩ đã nại đến Giáo hội nguyên thủy, đặc biệt là các giáo phụ sa mạc, để giải thích về nguồn gốc và tầm quan trọng của họ trong Giáo hội.

(15) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae [tổng luận Thần học], 3.40.1.2. Cũng nên xem J.P. Torrell, O.P., St. Thomas Aquinas: The Person and His Work [Thánh Tôma Aquinô: Con người và Công trình của ngài], tập 1, Robert Royal phiên dịch (Washington, DC: The Catholic University of America Press, 1996) Xem ở đó cuộc thảo luận sôi nổi và rõ ràng về lập trường của Thánh Tôma trong cuộc tranh luận xung quanh các dòng khất thực, đặc biệt là 75-95.

(16) Torrell, St. Thomas Aquinas, 89-90.

(17) Xem A. Zumkeller, trong Balthasar, Die GroJen Ordensregen, 150-170. Về vị trí quy luật trong cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Augustinô, C. Vigini, Agostino d'Ippona:L'avventura della grazia e della carità [Thánh Augustine thành Hippo: Cuộc phiêu lưu của ân sủng và đức ái] (Cinisello Balsamo, 1998), 91-109.

(18) Thánh Tôma Aquinô, Contra impugnantes Dei Cultum et Religionem [chống lại những người chống lại việc Phụng tự Thiên Chúa và Tôn giáo] 4, được trích dẫn trong Torell, St. Thomas Aquinas, 90.

(19) Lần đầu tiên tôi trình bày mối liên hệ giữa cuộc tranh cãi khất sĩ và học thuyết về quyền ưu việt trong một nghiên cứu xuất hiện trong một số kỷ niệm dành cho M. Schmaus, Theologie in Geschichte und Gegenwart [Thần học xưa và nay], 1957), mà sau đó tôi đã đưa vào những phần bổ sung nhỏ trong cuốn sách Das neue Volk Gottes [Dân mới của Thiên Chúa] (Düsseldorf, 1969), 49- 71. Y. Congar tiếp tục công việc của tôi ở chỗ nó còn dang dở, mở rộng những gì đã được khai triển chủ yếu dựa trên Thánh Bonaventura và những người đối thoại với ngài đề cập đến toàn bộ lĩnh vực của các nguồn có liên quan: "Aspects ecclésiologiques de la querelle entre mendiants et seculiers dans la Seconde moitié du XIIIe siècle et le début du XIVe" [Các khía cạnh giáo hội học của cuộc tranh luận giữa các tu sĩ khất thực và giáo sĩ triều trong hậu bán thế kỷ 13 và đầu thế kỷ 14]: AHD 28 (1961 ): 35-151.

(20) Sự ác cảm đối với quyền tối thượng và sự biến mất của ý thức về Giáo hội hoàn vũ chắc chắn có liên quan đến sự kiện này là khái niệm về Giáo hội hoàn vũ được cho là chỉ gắn liền với ngôi vị giáo hoàng mà thôi. Ngôi vị giáo hoàng, bị cô lập và không có bất cứ mối liên hệ sống động nào với các thực tại giáo hội phổ quát, lúc đó xuất hiện như một nguyên khối đầy tai tiếng, làm đảo lộn hình ảnh một Giáo hội, bị giản lược vào các thừa tác vụ giáo hội thuần túy địa phương và sự cùng tồn tại của các cộng đồng đứng bên cạnh nhau mà thôi. Nhưng hình ảnh này không hề nắm bắt được thực tại của Giáo hội cổ xưa.

(21) Hữu ích cho việc định nghĩa yếu tính của các phong trào là bài “I movimenti ecclesiali: aspetti ecclesiologici” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] của A. Catteneo trong Annales Theologici 11, số 2 (1997): 401-427; xem đặc biệt 406-409.

(22) Xem Cattaneo, “I movimenti ecclesiali,” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] 423-425.

(23) Hãy xem những nhận xét mạnh mẽ về điểm này trong Cattaneo, “I movimenti ecclesiali” [Các phong trào giáo hội: các khía cạnh giáo hội học] 413f. và 417.